Berzelianite
硒铜矿:
Tây Đồng Khoáng
Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị
Liệu, Thạch Học Trị Liệu dịch từ chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ.
Lithotherapy phân thành Litho đến từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá,
therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ] tức là chữa trị, lithotherapy tức là
chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với đá ở ngoài da. Lithotherapy là một
môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận huyền học và thần bí học. Mặc dù
có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả năng của nó, đã được ứng dụng từ
lâu trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại, nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức
màn bí mật của những điều thần kỳ giống như nền Đông Y của người Trung Quốc hay
Nam Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc biệt trình bày về
những lý luận căn bản trong Thạch Lý Học đối với Berzelianite, nằm trong chuỗi
khảo cứu, viết riêng cho tuần báo UNESCO.
Giới thiệu về đá: Berzelianite
được đặt tên vào năm 1850 bởi James Dwight Dana để vinh danh Jöns Jakob
Berzelius, nhà hóa học người Thụy Điển (20 tháng 8 năm 1779 Linköping, Thụy Điển
- 7 tháng 8 năm 1848 Stockholm, Thụy Điển). Berzelius là cha đẻ của hóa học
phân tích, người phát minh ra ký hiệu hóa học. và người phát hiện ra selen
(Se), cerium (Ce), silicon (Si), thorium (Th), titan (Ti) và zirconium (Zr), ngoài
các yếu tố khác mà ông đã cho các sinh viên của mình thực nghiệm.
Giới thiệu về các
thuyết: Giá trị thạch lý học của Berzelianite được trình bày
thành các thuyết cơ bản: thuyết Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học
(Chromotherapy), thuyết Linh Khí (Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng
Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of
Octaves), thuyết Thái Lặc Mã (Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết
Hoa Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié).
Thuyết Đông Phương Bản Mệnh (Eastern Natal Stones) có nhiều luận thuyết khác nhau. Theo phép tính
theo năm, Phương Đông dựa trên Can Chi, lập luận dựa trên ngũ hành, phối màu tạo
nên bộ hoa giáp sắc pháp. Từ Giáp Tý là sắc đỏ ban mai, chuyển dần cho đến Quý
Hợi là sắc tím trời khuya, tạo nên hơn 60 màu khác nhau. Theo phép tính theo
tháng, người ta căn cứ vào địa chi của tháng sinh, theo như sau: Tháng giêng là
Dần, tháng 2 là Mão, tháng 3 là Thìn, tháng 4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là
Mùi, tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu, tháng 9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng
11 là Tý, tháng 12 là Sửu, cùng phối hợp với ngũ hành của tháng để chia màu sắc
đá, như sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng dùng đá có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ
thuộc Hỏa (ứng dùng đá có tông màu cam đỏ hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng
đá có tông màu trắng, xám, ánh bạc), Tý Hợi thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu
đen, chàm, tím), Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ (ứng dùng đá có tông màu vàng,
trong, ánh kim). Thuyết về tháng bản mệnh này được dùng nhiều rộng rãi vì đơn
giản, dễ tính ra.
Ở Việt Nam, cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh đều có nói đến thuyết này. Tuy nhiên, sự phân định màu sắc và ngũ hành không giống nhau. Ví dụ như Ts Hoàng Thế Ngữ trong cuốn Đá Quý Việt Nam đưa ra Hỏa ứng màu đỏ, Thủy ứng màu xanh, Thổ ứng màu nâu, Mộc ứng màu lục, Kim ứng màu vàng trắng đen. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định khác Hỏa ứng màu đỏ hồng tím, Thủy ứng màu đen sẫm, Thổ ứng vàng nâu, Mộc ứng lam lục, Kim ứng trắng bạc.
Thuyết
Bản Mệnh phương đông xếp loại đá này vào năm Quý Tỵ, thuộc Thủy Cục, về Âm Phần.
Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Quý Tỵ sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này
màu trắng xám, thuộc về hành kim, ứng về tháng Thân, Dậu, tức tháng 7 và 8.
Ở Việt Nam, thuyết này cũng được sử dụng khá nhiều, nhưng không hiểu vì sao trong tất cả các cuốn Thạch Lý Học của Việt Nam, ngoại trừ cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, đều không nhắc đến thuyết này.
Đá
này màu trắng xám được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng sáu, mùa hè và xếp
vào đá bản mệnh của cung Song Tử, thuộc hệ khí. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 21
tháng 5 đến 21 tháng 6 hằng năm, hoặc vào tháng 6 thì được xem là có lợi khi
đeo loại đá này.
Thuyết Quang Lý Học (Chromatherapy) được
ra đời rất lâu từ giả kim thuật, nhưng chính thức định hình đặt tên bởi tiến sĩ
Christian Agrapart. Thạch Lý Học sử dụng lại thuật ngữ này, nhưng không sử dụng
liệu pháp ánh sáng như Agrapart mà lý luận dựa trên màu của loại đá. Nó gồm một
phần nghiên cứu về màu sắc trong y học của Agrapart và một phần nghiên cứu về
màu sắc trong tâm lý học. Màu sắc trong tâm lý học đã được nghiên cứu lâu đời
như bảng phân chia màu sắc và tâm trạng "rose of temperaments"
(Temperamenten Rose) của Goethe và Schiller (1798). Nhưng nghệ thuật này chỉ
thăng hoa nhờ nghiên cứu của Carl Jung khi ghép tính biểu tượng của màu sắc vào
tâm lý con người. Từ đó, những người nghiên cứu sau này sử dụng sự tương ứng
màu sắc đó trong viên đá và đặt nền tảng lý thuyết cho Thạch Lý Học. Dựa vào bảng
màu sắc đó, cho phép gợi ý đến tác động chữa bệnh hoặc lên tinh thần con người.
Ở Việt Nam, thuyết Quang Lý Học này cũng được sử dụng rộng rãi. Hầu hết các sách đều có đề cập trừ cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Trong đó cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh có thể coi là chi tiết nhất về thuyết này.
Là một trong những màu đầu
tiên được sử dụng trong nghệ thuật. Hang động Lascaux ở Pháp bảo tồn những bức
tranh tường với hình ảnh những chú bò đực và các động vật khác được vẽ bởi các
nghệ sĩ thời kỳ đồ đá cách đây 18000 – 17000 năm. Họ đã sử dụng Calcite và đá
vôi. Đôi khi nó được dùng làm nền, đôi khi thì làm điểm nhấn. Cùng với than củi,
màu đỏ và màu vàng trong những bức tranh làm cho chúng sinh động hơn rất nhiều.
Ở Ai Cập cổ, màu trắng được kết nối với thần Isis. Các nữ tu và thầy tế của đền
thờ Isis chỉ được mặc đồ bằng vải lanh trắng, và nó cũng được sử dụng để bọc
xác ướp. Ở Hy Lạp và các thành phố khác thì màu trắng tượng trưng cho sữa mẹ.
Trong thần thoại Hy Lạp, thần Zues đã nược nuôi nấng bằng sữa của những nữ thần
sông Amalthea. Trong Talmud, sữa là một trong 4 chất thánh cùng với rượu vang,
mật ong và hoa hồng. Ở Roma, các nữ tu của nữ thần Vesta mặc áo choàng lanh trắng,
áo phong hoặc áo khăn choàng trắng. Họ bảo vệ cho ngọn lửa thiên và những vị
giáo sĩ của thành Rome. Màu trắng đại diện cho sự thanh khiết, trung thành và
trinh tiết của họ. Nhà thờ Cơ Đốc giáo La Mã đã chọn màu trắng là màu của sự
tinh khiết, sự hy sinh mà đức hạnh. Con kỳ lân trắng là một chủ đề phổ biến của
bản thảo lịch sử, các bức tranh và thảm trang trí. Đó là một biểu tượng của sự
thanh khiết, trinh khiết và ân sủng, chỉ có thể bị bắt bởi một trinh nữ. Nó thường
được miêu tả trong lòng của Đức Trinh Nữ Maria. Trong phong thủy, màu trắng thể
hiện sự tinh khôi, thuần khiết, trinh nguyên. Đây còn là biểu tượng của sự hồn
nhiên, trong sáng, tinh khiết và giản dị và an toàn. Dù ở bất kì đâu màu trắng
cũng gây cho người ta nhiều thiện cảm. Nhưng cũng vì đây là một màu quá giản dị.
Nên đôi lúc nó tạo cảm giác cô độc và thất bại. Trong những cuộc chiến cờ trắng
có nghĩa là đầu hàng.
Thuyết Luân Xa (Chakra) được
trình bày trong trào lưu Thời Đại Mới (New Age) bởi các lãnh tụ Thông Thiên Học
như Johann Georg Gichtel, hoặc Yoga như Swami Sivananda. Vẫn vận dụng chủ yếu
là màu sắc của viên đá, được dịch nghĩa theo hình ảnh các luân xa trong văn hóa
Ấn Độ trong Áo Nghĩa Thư. Từ nguyên thủy trong tiếng Sanskrit cakra चक्र mang ý nghĩa là "bánh
xe" hay "vòng tròn", các luân xa được miêu tả như là xếp thành một
cột thẳng từ gốc của cột sống lên đến đỉnh đầu, liên quan tới một số chức năng
tâm sinh lý, một khía cạnh của nhận thức, đánh dấu bởi một màu sắc nào đó.
Chúng thường được hình tượng hóa bằng các hoa sen với số cánh khác nhau cho mỗi
luân xa. Các luân xa được cho là đem lại năng lượng cho cơ thể và có liên quan
đến các phản ứng của cơ thể, tình cảm hay tâm lý của một người, là các điểm chứa
năng lượng sống (prana, cũng được gọi là shakti) lưu chuyển giữa các điểm đó dọc
theo các đường chảy (gọi là nadis). Chức năng của các chakra là xoay tròn để
thu hút vào năng lượng sống từ viên đá để giữ cân bằng cho sức khỏe về tâm
linh, tâm lý, tình cảm và sinh lý của cơ thể.
Ở Việt Nam, thuyết Luân Xa được biết đến rộng rãi nhất trong số các thuyết về thạch lý học. Tất cả các sách đều có đề cập đến thuyết này trừ cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Sự nhận định cũng ít nhiều sai khác. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định Luân xa gốc ứng màu đỏ đen, luân xa xương cùng ứng màu cam phấn hồng, luân xa thái dương ứng màu vàng, luân xa tim ứng màu xanh lá, luân xa họng ứng màu xanh lam, luân xa trán ứng màu chàm tím, luân xa vương miện ứng màu trắng và tím nhạt.
Thuyết Luân Xa (Chakra) cho rằng
loại đá này màu trắng xám thuộc chakra Sahara (tiếng Phạn : सहस्रार , IAST : Sahasrāra ,
tiếng Anh: "nghìn cánh hoa") hoặc chakra đỉnh đầu thường được coi là
chakra nguyên thủy thứ bảy, theo hầu hết các tantric (hệ thống) yoga truyền thống.
Sahasrara được mô tả như một hoa sen với 1.000 cánh hoa màu khác nhau. Những
cánh hoa này được bố trí trong 20 lớp, mỗi lớp với khoảng 50 cánh hoa. Phần vỏ
quả màu vàng và bên trong vùng mặt trăng tròn là tam giác màu sáng có thể hướng
lên hoặc hướng xuống. Thường được gọi là hoa sen nghìn cánh, nó được cho là
chakra tinh tinh tế nhất trong hệ thống, liên quan đến ý thức thuần túy, và từ
chakra này phát ra đến những chakra khác. Khi một yogi (chuyên gia về yoga) có
thể nâng kundalini (luồng xà hỏa) của mình lên năng lượng của ý thức, cho đến cảnh
giới đó được gọi là trạng thái của Nirvikalpa Samādhi (ý thức cá nhân hòa nhập
với vũ trụ) là trạng thái của sự lão luyện. Giai đoạn này được cho là mang lại
sự tái sanh hay siddhis (năng lực siêu nhiên) - quyền năng biến đổi thành thần
thánh, và có thể làm bất cứ điều gì muốn. Nó được tượng trưng bởi một mặt trăng
lưỡi liềm trên một đêm trăng sáng, với một chấm hoặc điểm nhỏ phía trên. Đó được
gọi là bindu trắng, cái mà những người yoga cố gắng hợp nhất với binbu đỏ ở bên
dưới. Nó được gọi là điểm mà qua đó linh hồn đi vào cơ thể, tạo ra các chakra
khi nó hạ xuống và chấm dứt trong luồng năng lượng hỏa xà kundalini hình xoắn ở
chân cột sống. Nó thường được mô tả như là nguồn gốc của dòng chảy thần thánh,
hoặc amrita (sự bất tử), mặc dù đôi khi nó được cho là đến từ chakra ajña hoặc
chakra lalita. Dòng chảy này đi xuống vùng bụng (samana) nơi nó bị đốt cháy. Việc
bảo vệ giữ gìn dòng chảy này được gọi là "urdhva retas" (nghĩa đen là
sự đi lên của tinh dịch). Giọt màu trắng có liên kết đến kết tinh của tinh dịch,
trong khi chấm màu đỏ có liên quan đến dịch tiết (kinh nguyệt) hàng tháng. Chakra
này nằm trên đỉnh đầu. Nó có màu trắng và có 100 cánh hoa màu trắng. Nó đánh dấu
sự kết thúc của sushumna ở trung tâm của eo. Nó chịu trách nhiệm cho các cấp độ
khác nhau của sự tập trung: dharana, dhyana và savikalpa samadhi. Chakra Guru nằm
ở trên đầu, ngay dưới Sahasrara. Nó màu trắng, với 12 cánh hoa màu trắng, ở
trên đó có ghi chữ guru. Nó gồm có một vòng tròn như mặt trăng, trong đó là một
tam giác hướng xuống có chứa một bàn thờ bằng đá quý, với trăng lưỡi liềm phía
dưới và chấm tròn ở trên. Bên trong chấm tròn là một chổ ngồi, gần đó là gurus,
ở trên đó là những bước chân guru. Vị trí này được coi là rất quan trọng trong
thực hành mật ngữ Tây Tạng của tinh thần yoga, nơi mà vị đạo sư hay vị thần thường
được hình dung như thấy được hào quang rên đầu, ban phước lành cho bên dưới (ví
dụ trong thiền Vajrasattva). Sahasrara liên quan tới đỉnh của đầu. Nó thường
liên kết với thóp và chổ cắt nhau của xương trán và dãy liên kết ở giữa của hộp
sọ. Các nguồn khác nhau cho rằng nó liên kết nó với tuyến tùng, hypothalamus
(vùng não điều khiển thân nhiệt) hoặc tuyến yên, mặc dù chúng thường được đưa
ra như là vị trí của Chakra Ajña. Vòng hào quang rất quan trọng trong truyền thống
Tantra Anuttarayoga của Kim Cương Thừa. Nó có hình tam giác, với 32 cánh hoa hoặc
các kênh hướng xuống dưới, và trong đó chứa những giọt màu trắng hoặc
bodhicitta (bồ đề tâm) trắng. Thông qua thiền định, những người nghiên cứu yoga
cố gắng liên kết giọt trắng này với bồ đề tâm đỏ ở rốn, và để trải nghiệm sự kết
hợp của thiếu thốn và hạnh phúc. Điều rất quan trọng trong Tantric (hệ thống)
thực hành của Phowa, hoặc chuyển đổi ý thức. Vào lúc chết, một người học yoga
có thể hướng tâm thức của mình lên trung tâm và ra khỏi vòng xoay này để được
tái sinh trong Tịnh Độ, nơi mà anh ta có thể thực hiện các tantric (hệ thống)
hành động của mình, hoặc chuyển ý thức đó vào thân thể khác hoặc xác chết , để
kéo dài cuộc sống. Ở phương Tây, nó đã được nhiều người ghi nhận (như Charles
Ponce trong cuốn sách Kabbalah của ông) rằng Sahasrara thể hiện một ý tưởng
nguyên thủy tương tự như ý tưởng của Kether, trong Cây Sự Sống (Kabbalistic
Tree of Life), nằm ở đầu cây, và thể hiện ý thức thuần túy và hiệp nhất với Thần
linh. Trong hệ thống Sufi của Lataif-e-sitta có một Lataif gọi là Akhfa,
"bí ẩn tinh tế nhất ", cái nằm trên đỉnh đầu. Đó là điểm hiệp nhất
nơi thấy được phúc lành của Thánh A-La biểu lộ ra trực tiếp.
Thuyết Hoa Giáp (Hwangap), dựa
trên lý học phương đông, canh theo can chi bản mệnh của một người theo ngày
tháng năm sinh, rồi tính sự xung khắc hay tương hợp trong ngũ hành. Từ đó đưa
ra nguyên tắc vận dụng trong thạch học, nhờ vào ngũ hành trong khoáng thạch đối
chế lại với bản mệnh, nhằm điều hòa bản thân. Thuyết Ngũ Hành quy định theo
thiên can: Giáp Ất thuộc Mộc, Bính Đinh thuộc Hỏa, Mậu Kỷ thuộc Thổ, Canh Tân
thuộc Kim, Nhâm Quý thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành quy định theo địa chi: Dần Mão
thuộc Mộc, Ngọ Mùi thuộc Hỏa, Thân Dậu thuộc Kim, Hợi Tý thuộc Thủy, Thìn Mùi
Tuất Sửu thuộc Thổ. Từ thiên can, địa chi, quy định nên phối hành của bản mệnh:
Mậu Thìn thuộc về Thổ phối Thổ,… Khoáng thạch được phân theo ngũ hành dựa trên
màu sắc và hình dạng. Thuyết Ngũ Hành quy định màu sắc: Lục và Lam thuộc Mộc, Đỏ
và Cam thuộc Hỏa, Vàng và Trong thuộc Thổ, Trắng và Xám thuộc Kim, Đen và Tím
thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành quy định theo thể dạng: trụ và dài thuộc Mộc, nhọn
và góc thuộc Hỏa, vuông và cân thuộc Thổ, cong và tròn thuộc Kim, uốn và lượn thuộc
Thủy. Từ đó suy ra được phối hành của khoáng thạch: ví dụ Huyền Thiết Thạch
(Hematite) đen có thể dạng khối tròn (Botryoidal) được xem là Thủy phối Kim.
Thuyết Ngũ Hành quy định tương sinh như sau: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ
sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Thuyết Ngũ Hành quy định tương khắc như
sau: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc. Dựa
vào tương sinh tương khắc của Ngũ Hành để khắc chế hay phù trợ cho bản mệnh
thông qua việc đeo những khoáng thạch khác nhau trên cơ thể.
Ở Việt Nam, thuyết Hoa Giáp (Ngũ Hành Can Chi) được trình bày trong hầu hết các sách về Thạch Lý Học, nhưng hầu hết chỉ dừng lại ở lý luận về màu sắc theo ngũ hành. Cá biệt có cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm là có nhắc đến thuyết này ứng dụng lý luận lên hình dạng của tinh thể, tuy nhiên không có khai triển đầy đủ. Thuyết này các phái đạo gia phong thủy khai thác và phát triển rất hoàn chỉnh, được trình bày tóm tắt như bên trên đây.
Thuyết Ngũ Hành Can Chi cho rằng
Berzelianite thuộc về Kim (trắng xám) phối Hỏa (góc), tức Kim Cục. Do đó, Berzelianite
giúp khắc chế các bản mệnh Thủy-Thổ như Nhâm Thìn, Nhâm Tuất, Quý Mùi, Quý Sửu,
Mậu Tý, Kỷ Hợi, vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Berzelianite
cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Kim (Kim sinh Thủy), gồm có mệnh thuộc
Kim-Thủy và thuần Thủy: Canh Tý, Tân Hợi, Nhâm Thân, Quý Dậu, Nhâm Tý Quý Hợi,
các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại ngọc này.
Thuyết Khí Tiết (Qìjié),
dựa trên Ngũ Hành và sự vận hành của Khí Tiết tác động lên con người. Khí Tiết
và Bản Mệnh không hòa hợp, tất sinh ra bệnh tật đau yếu. Bệnh tật chính là do
tinh khí huyết trong cơ thể bị tổn mà nên, trong là lục phủ ngũ tạng, ngoài là
thân thể tứ chi, đều có liên quan đến ngũ hành tương sinh tương khắc. Nếu can
chi ngũ hành quá vượng, trong khi khí tiết bất hòa, tất nhiên gây bệnh cho người.
Y lý phương đông nói về Thiên Can: Giáp chủ Gan, Ất chủ Mật, Bính chủ Ruột,
Đinh chủ Tim, Mậu chủ dạ dày, Kỷ chủ Lách, Canh chủ ruột già, Tân chủ Phổi,
Nhâm chủ Bàng Quang, Quý chủ Thận. Y Lý Phương Đông nói về Địa Chi: Tý bệnh về
Sa Mang, Sửu bệnh về Bụng, Dần bệnh về Chân, Mão bệnh về Mắt, Thìn bệnh về
Lưng, Tỵ bệnh về Mặt, Ngọ bệnh về Tim, Mùi bệnh về Ngực, Thân bệnh về Cổ, Dậu bệnh
về Phổi, Hợi bệnh về Da. Sự hương thịnh hay suy tàn của ngũ hành trong khí tiết
của thiên can địa chi đều có quan hệ. Người sinh vào bản mệnh Mộc quá vượng, tự
khắc tỳ vị có bệnh, nếu nhằm ngay lúc ngày tháng thuộc về khắc tinh của Mộc thì
bệnh phát.
Ở Việt Nam, thuyết Khí Tiết được trình bày tương đối cụ thể trong cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Các cuốn Thạch Lý Học khác hầu như không nhắc đến thuyết này.
Thuyết
Ngũ Hành Khí Tiết nói, người có mệnh cục Thủy (sinh vào ngày Nhâm-Quý, Tý-Hợi)
gặp vào những ngày thuộc hành Thổ (như các ngày Mậu-Kỷ, Thìn-Mùi-Tuất-Sửu) và
những tháng hành Thổ (như tháng ba, tháng sáu, tháng chín, tháng chạp) thì bởi
Thủy khắc Thổ, sinh ra bệnh ở bàng quang và thận. Bên trong, đổ mồ hôi trậm, cơ
thể hư tổn, tai nghễnh ngãng, thương hàn cảm mạo. Bên ngoài biểu hiện đau răng,
sa nang, thoát vị, đau lưng, tràn dịch, thổ tả... Sách mệnh lý nói: mệnh Thủy
băng lãnh, sắc mặt tối tăm, do Thủy bị Thổ khắc chế, phải lấy Kim giải độc, Berzelianite
thuộc Kim, có tác dụng tốt cho thể trạng người Thủy Cục (Kim sinh Thủy), nhất
là vào những ngày hay tháng Thổ thịnh (Mậu-Kỷ, Thìn-Mùi-Tuất-Sửu) và các tháng
hành Thổ như tháng ba, tháng sáu, tháng 9, tháng chạp. Người đeo đá Berzelianite,
có thể dùng Kim khắc chế được Thổ hại.
Thuyết Tứ Trụ có
thể ứng dụng từ Bát Tự trong Thuyết Tứ Trụ để bổ cứu, dựa vào màu của đá để
tương hỗ lấy mệnh. Chủ yếu dựa vào thiên can, lấy âm dương và ngũ hành của
thiên can để tính lấy bốn phép Kiêu Ấn, Thực Thương, Tỷ Kiếp, Quan Sát và Tài,
dụng vào địa chi mà thành Thập Thần. Từ đó luận ra được Nhật Can và Nguyệt Lệnh,
dựa vào sự phối hợp của nó trong sinh thời mà dự biết lợi yếu của bản mệnh. Biết
được lợi yếu của bản mệnh rồi, mới dùng ngũ hành trong đá ngọc mà điều hòa. Có
sách viết: Nhật Can mạnh yếu cần có sự tương trợ của Nguyệt Lệnh. Trong trường
hợp không có Nguyệt Lệnh hỗ trợ, các can chi trong trụ liền suy yếu. Có thể
dùng phương pháp đá phong thủy để bổ cứu, điều hậu cho Nhật Can.
Ở Việt Nam, thuyết Tứ Trụ được sử dụng cực kỳ nhiều, tất cả các sách Thạch Lý Học tại Việt Nam đều cdẫn xuất như cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh , cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc. Tuy nhiên, có khá nhiều sai biệt giữa các sách với nhau về cách tính, điều này cũng dễ hiểu vì đây là ứng dụng tùy thuộc vào cách luận Tứ Trụ. Ở đây chỉ giữ lại một thuyết để thống nhất là sử dụng sách của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm.
Theo thuyết Tứ Trụ, đá ngọc
thuộc mệnh Thổ rất hạp với mệnh Mộc sinh mùa thu,thông thường không được sự trợ
giúp của nguyệt lệnh,Kim nặng quay quanh,phần lớn thuộc thân yếu. Nếu là Mộc
mùa suy yếu,ưa được Thổ dưỡng, tương trợ. Đá ngọc thuộc mệnh Thổ cũng rất hạp với
mệnh Thổ sinh mùa đông. Mùa đông, bên ngoài lạnh, bên trong ấm. Nếu có Thổ với
lực lượng lớn phù trợ thì có thể được khỏe mạnh, trường thọ. Đá ngọc thuộc mệnh
Thổ cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa xuân. Mùa xuân, do vừa qua mùa đông vẫn
còn chút khí lạnh, do đó Kim cần Hỏa sưởi ấm mới có thể loại bỏ khí lạnh mà được
phú quý. Kim sinh vào mùa xuân sẽ khá yếu mềm, do đó cần có Thổ sinh trợ, nhưng
không ưa Thủy quá vượng, Thủy sẽ tăng thêm khí lạnh, làm cho Kim không thể tái
hiện được khí thế của nó. Đá ngọc thuộc mệnh Thổ rất hạp với mệnh Kim sinh
mùa đông. Kim của mùa đong có tính chất hàn lạnh, nếu Mộc nhiều cũng không thể
điêu khắc mà tái hiện công hiệu của Kim. Thổ có thể khắc Thủy, làm cho Kim
không chịu ảnh hưởng của hàn lạnh, mà Hỏa có thể sinh trợ Thổ, Thổ có thể sinh
trợ Kim, Thổ Kim là mẹ con tương sinh, có thể thành công.
Thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy) đề xuất bởi bác sĩ Jacques
Ménétrier và Gabriel Bertrand, vào giữa thế kỷ 20. Những người thực hành Thạch
Lý Học áp dụng lý thuyết này trong việc trị liệu thông qua cơ sở giống như Thuyết
Vi Lượng Đồng Căn (Homeopathy) của Samuel Hahnemann. Christian Friedrich Samuel
Hahnemann (1755-1843), một nhà vật lý học, hóa học và y học người Đức, đã đưa
ra một lý thuyết liên quan đến sự quan hệ yếu tố trong chứng và chất của cơ thể
người, sau này phát triển thành hệ thống Vi Lượng Đồng Căn. Mỗi vi lượng trong
đá được cho là sẽ tác động đến vi lượng tương ứng trong cơ thể người, và nhờ đó
bộ phận chứa vi lượng đó được chữa khỏi. Mỗi viên đá, bằng vi lượng chứa trong
nó, được tin là sẽ tác động lên phần sinh lý cơ thể, giúp gợi ý cho việc chữa bệnh
hoặc tác động lên tinh thần.
Ở Việt Nam, thuyết Vi Lượng được nhắc đến duy nhất trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh, nhưng khá sơ khai, vì cho rằng đây là thuyết phức tạp, chuyên sâu. Các cuốn khác, hầu như không hề biết gì về thuyết này.
Công
thức hóa học của Berzelianite là: Cu2Se. Trong
đó, Nguyên tố Copper (Cu) số hiệu nguyên tử là 29, Đồng có tỉ trọng trong
cơ thể chúng ta là 0.001 và có khối lượng trung bình 0.000072kg đạt tỷ lệ
nguyên tố là 0.0000104% so với những nguyên tố khác. Nguyên tố Selenium
(Se) số hiệu nguyên tử là 34, tỉ trọng cơ thể là 190×10-7, khối lượng trung
bình 0.000015kg, tỷ lệ nguyên tố là 4.50E-08% trong không khí.
Thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves) của Newlands ứng dụng trong giả kim
thuật, cho phép tính toán sự liên hệ của khoáng chất trong đá và chiêm tinh,từ đó
suy dẫn đến các ứng dụng của đá lên cơ thể con người. Vào năm 1864, John
Alexander Reina Newlands (1837-1898), nhà hóa học người Anh, tìm ra
quy luật bát bội: Mỗi nguyên tố hóa học đều thể hiện tính chất tương tự như
nguyên tố thứ 8 khi xếp các nguyên tố theo khối lượng nguyên tử tăng dần. Điều
này kích thích các nhà huyền học giả kim thuật vì giả kim từ lâu không thể tạo
ra bất kỳ quy luật nào tương xứng phù hợp với khoa học hiện đại. Quy luật số 8 ứng
với tám hành tinh (gồm cả trái đất) mà nền tảng của nó đã có từ lâu, và còn
tương ứng nhiều hình thức tâm linh huyền học khác liên đới với con số 8 như
Geomancy (bói đất). Từ đó người ta (mà nổi tiếng nhất là nhà huyền học George
Ivanovich Gurdjieff, người cực kỳ yêu quý thuyết Law of Octaves) xây dựng nên hệ
tính để tìm ra nguyên tố chủ đạo và hành tinh chủ đạo trong một viên đá. Từ đó,
dẫn suy ra những đặc tính chữa bệnh hoặc tác động lên tinh thần. rong một viên
đá. Từ đó, dẫn suy ra những đặc tính chữa bệnh hoặc tác động lên tinh thần.
Ở Việt Nam, thuyết Hài Hòa Bộ Tám hầu như chưa bao giờ được nhắc đến trong tất cả các sách về Thạch Lý Học, nhưng có một vài trang mạng của các học giả Việt ở Hải Ngoại có hướng dẫn về thuyết này.
Thuyết Hài Hòa Bộ Tám cho rằng loại đá này mang yếu tố kim tinh với nguyên tố chủ đạo là
nguyên tố Nước, vì vậy tác động lên vùng thắt lưng, các tĩnh mạch, âm đạo, cổ họng,
bả vai và thận, eo. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến các
bệnh liên quan sản khoa, và sự sinh sản, (sẩy thai, đẻ sớm...) các thương tích
liên quan xương sống và hông, liệt nửa người. Mặt khác, nó còn làm tăng cường
tình cảm và cảm xúc, đặc biệt là sự cảm nhận vẻ đẹp, cảm xúc của phụ nữ, nữ
tính, hài hòa, đồng cảm, thân thiện, tình dục nữ,... Nhấn mạnh yếu tố cảm xúc.
Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là trấn giữ các mối quan hệ của nhà
chiêm tinh thứ 5 và 12: hậu duệ (nhà Nati) và tù đày (nhà Carcer). Dành hỗ trợ
cho những người có mối quan hệ với con cái không được như ý để cải thiện tình
hình của mối quan hệ. Hàn gắng các rạng vỡ của mối quan hệ. Và hỗ trợ các mối
quan hệ liên quan đến luật pháp, cai trị. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng
yếu tố kim tinh bảo trợ về ngôn ngữ và văn chương nói chung (Dante Alighieri).
Dành cho những người làm trong lĩnh vực liên quan đến các ngành ngôn ngữ và văn
chương như giáo viên, nhà thơ, nhà văn, biên kịch, thư ký, nhà nghiên cứu, thủ
thư...
Thuyết Thái Lặc Mã
(Thelema) đề xuất bởi nhà huyền học Aleser Crowley, đầu thế kỷ 20, mặc
dù bản thệ thống của nó, được thừa hưởng thừ Hội Kín Kim Bình Minh ra đời vào
thế kỷ 19. Hệ thống Thelema được ứng dụng trong Thạch Lý Học thông qua mối liên
hệ với Sinh Thụ (Tree of Life), một lý thuyết của người Do Thái ra đời cùng thời
với Kinh Cựu Ước. Hệ thống dựa trên các sách tương ứng do sự đóng góp của nhiều
nhà huyền học khác nhau: McGregors Mathers, Paul Foster Case… đặc biệt được tổng
hợp trong cuốn Kinh Liber 777.
Ở Việt Nam, thuyết Thelema hầu như chưa bao giờ được nhắc đến trong tất cả các sách về Thạch Lý Học đã xuất bản. Tuy nhiên, rất nhiều tài liệu về huyền học phương tây do những du học sinh tại Hải Ngoại được đăng trên các trang mạng, sử dụng hệ thống này của Thelema.
Thuyết Thelema cho rằng Berzelianite
thuộc Chokhmah: “sự khôn ngoan” ("Wisdom", tiếng Do Thái: חכמה, cũng
chochmah hay hokhmah) là phần trên cùng của Sephirot của dòng bên phải (kav
yamin, "Cột của lòng thương xót") trong Cây Sự sống. Nó nằm phía dưới
bên phải của Keter, và Binah đối diện nó. Dưới đó là Sephirot của Chesed và
Netzach. Nó thường có bốn con đường dẫn đến Keter, Binah, Tifereth, và Chesed.
Trong chủ nghĩa huyền bí của người Do thái, nó biểu thị bước trung gian đầu
tiên giữa Keter và phần còn lại của Sephirot, chuyển tiếp và chuyển Ein Sof qua
phần còn lại của Sephirot. Chokhmah có liên quan đến màu xám. Theo Bahir:
"Lời thứ hai là lời khôn ngoan, như đã được viết:" Đức Giê-hô-va ban
cho tôi lúc Ngài khởi đầu đường của mình, trước khi Ngài làm việc cũ ". Và
đó không phải là “bắt đầu” mà là trí tuệ ". Chokhmah, phần thứ Hai trong
Mười Sephirot, là sức mạnh đầu tiên của trí tuệ có ý thức trong Creation, và là
điểm đầu tiên của sự tồn tại 'thực', vì Keter thể hiện sự rỗng toẹt. Theo cuốn
sách của Gióp, "Trí tuệ xuất phát từ hư không". Đây là điểm rất nhỏ
bé, nhưng nó vẫn không thể hiểu được cho đến khi nó được tạo hình dạng và hình
dạng ở Binah. Tên của Thiên thần gắn liền với Chokhmah là Yah. Chokhmah xuất hiện
trong cấu trúc của Sephirot ở trên cùng của trục phải, và tương ứng cho mắt phải
trong “the tzelem Elokim - hình ảnh Thánh Thần”, hoặc bán cầu não phải. Trong
hình dạng đầy đủ của nó, Chokhmah sở hữu hai phần parzufim ("hình dạng"
hoặc "tính tình"): cao hơn trong số này được gọi là Abba Ila'ah
("cha bề trên"), trong khi thấp hơn được gọi là Yisrael Saba (
"Israel, Anh Cả"). Hai phần này được gọi chung là Abba
("cha"). Chokhmah còn được gọi là Fear, bởi vì nó không có đường ranh
giới, và do đó tâm trí không có khả năng nắm bắt nó. Cuốn sách của Giăng bảo rằng
kính sợ Đức Chúa Trời là sự khôn ngoan, và để thoát khỏi điều ác là sự hiểu biết
(Gióp 28:28). Mảng Sephirot có ba cột (gimel kavim), Chokmah nằm ở đầu cột bên
phải, và tương ứng với bán cầu não phải. Từ Chokhmah có thể được chia thành hai
từ - koach ("potential – tiềm năng") và ma ("what is – là thứ
gì"). Như vậy, Chokhmah có nghĩa là "tiềm năng của cái gì là",
hoặc "tiềm năng để được". Khía cạnh này của Chokhmah mô tả trạng thái
của nó liên quan đến Sephirah của Keter. Như là Chokhmah phát ra từ Keter, sự lấp
lánh đầu tiên của "Ánh sáng vô hạn", nó xuất hiện trong một trạng
thái mơ hồ và không xác định, đó là một sự tồn tại ảo. Như vậy câu này nói
"Chokhmah xuất hiện từ hư vô" (Gióp 28:12, xem Zohar II, 121a, Zohar
III, 290a). Ánh sáng của Ein Sof trở nên thống nhất trong thế giới Atziluth
thông qua vẻ ngoài của chính nó trước tiên trong sefira của Chokhmah.
Thuyết Reiki (Linh Khí), dựa trên sự kết hợp của hệ thống
Kinh Lạc trong Y Thuật Trung Hoa, hệ thống Luân Xa trong Y Thuật Ấn Độ và thuyết
Ngũ Hành trong thạch học, dùng trong xoa bóp, ấn huyệt, được đề xuất bởi Mikao
Usui năm 1922. Nếu hệ thống luân xa thật sự ít khi được áp dụng trong Reiki thực
hành, hệ thống Kinh Lạc lại được sử dụng trong ấn huyệt rất rộng rãi. Kinh lạc
là đường khí huyết vận hành trong cơ thể, đường chính của nó gọi là kinh, nhánh
của nó gọi là lạc, kinh với lạc liên kết đan xen ngang dọc, liên thông trên dưới
trong ngoài, là cái lưới liên lạc toàn thân. Kinh lạc phân ra hai loại kinh mạch
và lạc mạch.Trong kinh mạch gồm chính kinh và kỳ kinh, chính kinh có mười hai sợi,
tả hữu đối xứng, tức thủ túc tam âm kinh và thủ túc tam dương kinh, gọi chung
mười hai kinh mạch, mỗi kinh thuộc một tạng hoặc một phủ. Kỳ kinh có tám sợi, tức
đốc mạch, nhâm mạch, xung mạch, đái mạch, âm duy mạch, dương duy mạch, âm kiểu
mạch, dương kiểu mạch. Thông thường nhắc đến mười hai kinh mạch và thêm vào hai
mạch nhâm đốc gọi chung mười bốn kinh mạch chính. Bệnh tật đều do sự vận hành bế
tắc của khí luân chuyển trong 12 kinh mạch này, nếu được khơi thông, ắt sẽ hết
bệnh tật. Y Tông Tâm Lĩnh bàn về Kinh Lạc nói, mười hai kinh lạc, có Thủ thái
âm phế kinh (手太阴肺经) thuộc về
hành Kim, Thủ thiếu âm tâm kinh ( 手少阴心经)
thuộc về hành Hỏa, Thủ quyết âm tâm bào kinh (手厥阴心包经) thuộc về hành Hỏa, Thủ thiếu dương
tam tiêu kinh (手少阳三焦经)
thuộc về hành Hỏa, Thủ thái dương tiểu tràng kinh (手太阳小肠经) thuộc về hành Hỏa, Thủ dương minh
đại tràng kinh (手阳明大肠经) thuộc về
hành Kim), Túc thái âm tỳ kinh (足太阴脾经)
thuộc về hành Thổ, Túc thiếu âm thận kinh (足少阴肾经) thuộc về hành Thủy, Túc quyết âm
can kinh (足厥阴肝经) thuộc về
hành Mộc, Túc thiếu dương đảm kinh (足少阳胆经)
thuộc về hành Mộc, Túc thái dương bàng quang kinh (足太阳膀胱经) thuộc về hành Thủy, Túc dương minh
vị kinh (足阳明胃经) thuộc về hành Thổ. Mỗi mạch lại ứng
những bệnh lý khác nhau. Cách sử dụng truyền thống là dùng đá phù hợp làm thành
cây ấn huyệt để trị liệu khơi thông kinh mạch, giống với châm cứu. Cụ thể: Lục
và Lam thuộc Mộc, Đỏ và Cam thuộc Hỏa, Vàng và Trong thuộc Thổ, Trắng và Xám
thuộc Kim, Đen và Tím thuộc Thủy.
Ở Việt Nam, hầu như không có tài liệu về môn này hoặc tài liệu về Reiki từng được xuất bản, tuy nhiên, nhiều học giả cho biết đã từng có sách về môn này xuất bản trước 1975 mà chúng tôi chưa có dịp khảo cứu được.
Đá Berzelianite trong hành Kim
và thuộc vào Kinh Thủ Thái Âm Phế, Kinh Thủ Dương Minh Đại Tràng. Kinh Thủ Thái
Âm Phế liên quan đến các triệu chứng hố trên đòn đau, đau kịch liệt thì hai tay
bắt chéo ôm ngực, mắt tối sầm, tim loạn lên, mặt trong chi trên đau, ngực phổi
đầy tức, ho, suyễn, khó thở, khát, tiểu rắt, tiểu vàng, ngực bồn chồn, gan tay
nóng, nếu cảm phong hàn có sốt, gai rét, có hoặc không có mồ hôi, sốt, bệnh ở
phổi, ngực, họng, khí huyết ứ trệ, tiểu ít khó, có tác dụng hành khí hoạt huyết,
lợi tiểu Ví dụ như huyệt Trung Phủ (Huyệt Mộ của Phế, Hội của kinh Thái âm ở
tay và chân) liên quan đến ho suyễn, đầy tức ngực, đau ngực, đau bả vai. Vân
Môn Ho, hen suyễn, đau ngực, đầy tức ngực, đau bả vai. Thiên Phủ liên quan đến
đau phía trước, ngoài cánh tay, hen suyễn. Hiệp Bạch liên quan đến đau phía trước
ngoài cánh tay, ho tức ngực, chảy máu mũi. Xích Trạch (Huyệt hợp thuộc Thủy)
liên quan đến đau cẳng tay, ngón tay co duỗi khó khăn, ho ra máu, hen suyễn, sốt
không ra mồ hôi, đau họng, khàn tiếng, mất tiếng cấp. Kinh Thủ Dương Minh Đại
Tràng liên quan đến các triệu chứng cổ sưng, răng hàm dưới, vai, cẳng tay đau;
ngón trỏ, cái khó vận động. Nếu tà khí ở kinh thịnh, có thể sưng đau. Nếu kinh
khí suy, sợ lạnh ở chỗ đường kinh đi qua, mắt vàng, mồm khô, đau họng, chảy máu
mũi, bụng đau, sôi bụng. Nếu hàn: tiêu chảy. Nếu nhiệt: tiêu nhão, dính hoặc
táo bón. Tà khí thịnh, sốt cao có thể phát cuồng. Ở đầu, mặt, tai, mắt, mũi,
răng, họng, ruột và sốt. Ví dụ như các huyệt Rửu Liêu Đau liên quan đến khuỷu
tay, tay co giật, tê tay. Thủ Ngũ Lý cánh tay đau nhức hay co giật, khuỷu tay
đau nhức, lao hạch cổ. Tý Nhu (Huyệt Hợp của kinh Dương minh ở tay với mạch
Dương duy và các kinh Thái dương ở tay và chân), đau nhức cánh tay, tay không
giơ lên được, đau nhức khuỷu tay, lao hạch cổ. Kiên Ngung (Huyệt Hội của kinh
Dương minh ở tay với mạch Dương kiểu) đau vùng vai, đau nhức, bại liệt chi trên
trong liệt nửa người. Cự Cốt (Huyệt Hội của kinh Dương minh ở tay với mạch
Dương kiểu) đau vùng vai, đau cánh tay, bại liệt chi trên, lao hạch. Ví dụ như
các huyệt Thiên Đỉnh liên quan đến hầu họng sưng đau, khản tiếng, ăn nghẹn, lao
hạch. Phù Đột họng sưng đau, khản tiếng, ăn nghẹn, lao hạch, ho, hen suyễn. Hòa
Liêu chảy máu mũi, ngạt mũi, méo mồm. Nghênh Hương (Huyệt Hội của các kinh
Dương minh ở tay và ở chân) ngạt mũi, chảy nước mũi, chảy máu mũi, liệt mặt.
Thuyết Bát Quái Kinh Dịch
(Iching Therapy), mặc dù được lấy từ lý thuyết của châu Á, nhưng việc
áp dụng nó vào thạch lý học thì lại do các nhà huyền học Nga, gần gũi với lý
thuyết Thông Thiên Học, ra đời vào những năm 1980. Ở Việt Nam, thuyết này ít được
phát triển, đại diện chỉ có Ts Hoàng Thế Ngữ, Chủ Tịch Hội Đá Quý Việt Nam, tốt
nghiệp tại Nga, dùng trong cuốn Đá Quý Việt Nam, nhưng chỉ dùng cấu trúc hình
thái tinh hệ để luận. Cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, tuy có dẫn ra
phép Bát Quái, nhưng lại chỉ dựa trên màu sắc của Ngũ Hành để luận. Cả hai đều
rất sơ khai. Dựa vào hình thái tinh hệ của tinh thể gồm tám loại, được phân định
thành tám quái thuộc nội quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập
Phương (cubic) ứng Càn , Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam Phương
(rhombohedral) ứng Ly, Lục Phương (hexagonal) ứng Đoài, Tam Tà
(triclinic) ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic) ứng
Tốn, Phi Tinh (noncrystallinic) ứng Khôn. Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng
khác: Lập Phương ứng Càn, Tam Tà ứng Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn,
Tam Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở
đây chỉ trình bày thuyết của Thông Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm
tám màu, ứng với tám quái thuộc ngoại quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính,
đều nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ nhất được trình bày trong I-ching: Binary
Numbers, Astrology, And Chakras, dựa trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng,
đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ,
Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành ứng
bát quái cho rằng: Càn ứng dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn ứng
cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề xuất
dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam,
Cấn ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ
trình bày dựa trên thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại quái tương ứng với
hình dạng và màu sắc của tinh thể, từ đó tính ra được quái trong 64 quái kinh dịch.
Mỗi quái kinh dịch lại ứng một bộ phận cơ thể theo y lý trong kinh dịch, phân
thành 64 phần cơ thể.
Ở Việt Nam, thuyết này ít được
phát triển, đại diện chỉ có Ts Hoàng Thế Ngữ, Chủ Tịch Hội Đá Quý Việt Nam, tốt
nghiệp tại Nga, dùng trong cuốn Đá Quý Việt Nam, nhưng chỉ dùng cấu trúc hình
thái tinh hệ để luận. Cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, tuy có dẫn ra
phép Bát Quái, nhưng lại chỉ dựa trên màu sắc của Ngũ Hành để luận. Cả hai đều
rất sơ khai.
Theo thuyết Bát Quái Kinh Dịch, đá Berzelianite có màu trắng xám tương ứng quẻ ngoại quái Càn, có tinh hệ lập phương tương ứng quẻ nội quái Càn, ghép lại chính là quẻ quái số 01 – Thuần Càn. Quái số 01 ứng với vị trí đỉnh đầu trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên quan đến hệ tuần hoàn như bệnh nội khoa gây nên như viêm xoang mũi, đau đầu căng cơ, dị dạng động mạch não, thiếu máu não... Quẻ Thuần Càn có nghĩa Càn tức là trời, đại diện cho khí Dương, là cha, là vua. Nguyên, hanh, lợi, trinh là bốn đức tính: nguyên là muôn vật bắt đầu, hanh là muôn vật lớn lên, sinh sôi nảy nở, lợi là muốn vật được thoả, trinh là muốn vật đã thành. Chỉ Càn và Khôn có bốn đức tính ấy. Cho nên nguyên là chuyên làm những điều thiện lớn; lợi thì chủ về những sự chính bền; thể của hanh, trinh, việc nào xứng với việc ấy, người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy.
Thuyết Phật Giáo Mật Tông là
phái phật giáo duy nhất có ứng dụng trong Thạch Lý Học. Lý thuyết dựa trên hình
ảnh của Ngũ Trí Như Lai và Tử Thư. Ngũ Phật còn gọi là Ngũ Trí Như Lai, Ngũ Trí
Phật, Ngũ Phương phật, hay còn được gọi Ngũ Thiền Định Phật; là tên gọi chỉ năm
vị Phật trong Mật Tông, lấy Đại Nhật Như Lai làm chủ tôn, có sự khu biệt giữa
Ngũ Phật giới Kim Cương và Ngũ Phật giới Thai Tạng. Năm đức Phật này đại diện
cho 5 phẩm chất của con người và tạo ra sự tuyệt mỹ và hay nhất để phá bỏ những
sai trái trong 5 phẩm chất đó. Mỗi đức Phật là một con đường tuyệt diệu để đi đến
cảnh giới Niết Bàn và Vô sanh. Tu theo những vị đó sẽ mau chóng vào được cung
điện Niết Bàn. Ngũ trí Như Lai là 5 vị Phật tối cao của Phật giáo Tây Tạng. Năm
vị phật này đại diện bởi năm màu, gọi là Ngũ Sắc Trí (pancha-varna): Tỳ Lô Giá
Na Như Lai (Vairochana) đại diện bởi màu trắng và tím, A Súc Bệ Như Lai
(Akshobhya) đại diện bởi màu lam và đen, Bảo Sanh Như Lai (Ratnasambhava) đại
diện bởi màu vàng và cam, A Di Đà Như Lai (Amitabha) đại diện bởi màu đỏ và hồng,
Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi) đại diện bởi màu lục. Nitin
Kumar căn cứ vào kinh điển Chandamaharosana Tantra dẫn ra những quy tắc sử dụng
màu săc trong mật tông, đáng chú ý cho rằng: màu lam đại diện cho phẫn nộ tướng
ứng vị trí tai, màu vàng đại diện cho sinh dưỡng tướng ứng vị trí mũi, màu đỏ đại
diện cho vô úy tướng ứng miệng, màu lục đại diện cho uy đức tướng ứng vị trí đầu.
Trong Tử Thư Tây Tạng cũng tuyên về màu sắc tương ứng lục đạo: ánh sáng trắng
là của cõi trời, ánh sáng đỏ là của cõi Atula, ánh sáng lam là của cõi người,
ánh sáng lục là của cõi súc sanh, ánh sáng vàng là của cõi quỷ đói, ánh sáng
xám là của cõi địa ngục.
Ở Việt Nam, thuyết này hầu như
chưa bao giờ được nhắc đến trong các sách Thạch Lý Học đã xuất bản. Tuy nhiên một
số kinh sách về ngũ sắc trí đã được dịch và xuất bản những năm gần đây như Đại
Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe Trong Bardo của Guru Rinpoche, Những Giáo Pháp Bí
Mật Của Tử Thư Tây Tạng của Detlef Ingo Lauf.
Đá Berzelianite có màu trắng,
là bổn sắc của Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairochana). Ngài là sự chuyển hóa của vô
minh thành trí huệ. Màu trắng đại diện cho thanh tịnh tướng ứng với mắt. Đeo
Berzelianite sẽ được Tỳ Lô Giá Na Như Lai Phật hộ trì, hỗ trợ về mắt và sự tinh anh. Vì
đây cũng là màu của cõi trời, đá Berzelianite được coi là bùa hộ về sắc dục, giúp thoát
khỏi các nguy hiểm về sắc dục. Tử Thư nói về màu trắng như sau: Phật Tỳ
Lô Giá Na hiện thân ở dạng có bốn mặt cùng lúc nhận biết tất cả các phương hướng.
Ngài có màu trắng bởi vì sự nhận biết đó không cần sự pha màu nào cả, đích thị
là màu chánh gốc, màu trắng. Ngài đang cầm một bánh xe có tám nan hoa, nó thể
hiện sự vượt lên trên mọi nhận thức về phương hướng và thời gian. Toàn bộ sự biểu
tượng hóa Ngài Phật Tỳ Lô Giá Na thể hiện khái niệm của cái thấy không gian toàn
cảnh cùng khắp; cả hai: trung tâm và chu vi đều có khắp nơi. Đó là sự mở toang
trọn vẹn của thức, siêu việt khỏi thức uẩn. Vượt lên trên sắc uẩn là những tia
sáng có hình như cái gương, màu trắng, lấp lánh, rõ từng chi tiết, chiếu ra từ
tim của Phật Kim Cương Tát Đỏa. Phật Mẫu mặc áo choàng trắng – liên tưởng đến sự
hình tượng hóa câu chuyện thần thoại Ấn Độ về loại quần áo được dệt bằng sợi
làm bằng đá, chỉ được tẩy sạch bằng lửa. Phật Mẫu Pandaravasini thể hiện bản chất
của lửa là tiêu hủy mọi thứ và cũng là kết quả của quá trình tiêu hủy, sự tịnh
hóa, lòng đại bi vẹn toàn. Tiến trình trọn vẹn của trí đại bi có ánh sáng và nhịp
điệu, nó có trí huệ sâu sắc và sự hiệu quả sắc nét, và nó có bản chất tịnh hóa
của vị Phật Mẫu Gita mang áo choàng trắng cũng như bản chất soi sáng đến vô tận
của Phật A Di Đà. Vị gauri áo trắng nhảy múa quanh một tử thi, bà muốn dập tắt
tiến trình các niệm, cho nên bà ta cầm một tích trượng làm bằng thi thể một đứa
bé. Thông thường, một thi thể tượng trưng trạng thái vô ký căn bản của chúng
sanh; một thi thể đã không còn sống là một thể không còn những niệm được khởi
lên nữa, chẳng có niệm thiện, niệm ác – đó là trạng thái bất nhị của tâm. Cùng
lúc, có ánh sáng trắng êm dịu của chư thiên cũng sẽ hướng về con. Vào ngày thứ
hai, một ánh sáng trắng, thành phần tinh khiết của nước sẽ chiếu sáng. Ánh sáng
trắng của sắc uẩn trong tánh thanh tịnh căn bản của nó là Đại Viên Cảnh Trí
(trí huệ giống như cái gương), thứ ánh sáng trắng chói chang, quang minh, trong
suốt, từ tim của Phật Kim Cương Tát Đỏa. Pháp giới thể tánh trí, đó là một tấm
vải đan bằng các tia ánh sáng trắng quang minh, rực rỡ đáng kinh ngạc, từ tim của
đức Phật Tỳ Lô Giá Na. Pháp giới thể tánh trí, đó là một tấm vải đan bằng các
tia ánh sáng trắng quang minh, rực rỡ đáng kinh ngạc, từ tim của đức Phật Tỳ Lô
Giá Na.
Nơi tìm ra đá: Berzelianite
hiện nay có thể tìm thấy ở một vài nơi như Ba Lan, Đức, Áo, Ác-hen-ti-na, Mỹ.
Lời cảm ơn: bài viết có sự đóng góp tài liệu
và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến sĩ Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà
sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu tập Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà
sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc
Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments