Boleite
银铜氯铅矿: Ngân Đồng Lục Ngân Khoáng
Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị Liệu, Thạch Học Trị Liệu dịch từ chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ. Lithotherapy phân thành Litho đến từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá, therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ] tức là chữa trị, lithotherapy tức là chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với đá ở ngoài da. Lithotherapy là một môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận huyền học và thần bí học. Mặc dù có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả năng của nó, đã được ứng dụng từ lâu trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại, nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức màn bí mật của những điều thần kỳ giống như nền Đông Y của người Trung Quốc hay Nam Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc biệt trình bày về những lý luận căn bản trong Thạch Lý Học đối với Boleite , nằm trong chuỗi khảo cứu, viết riêng cho tuần báo UNESCO.
Giới thiệu về đá: Boleite là loại khoáng vật được đặt theo tên nơi đầu tiên tìm thấy nó, Boleo, gần Santa Rosalia, Baja California, Hoa Kỳ.
Giới thiệu về các thuyết: Giá trị thạch lý học của Boleite được trình bày thành các thuyết cơ bản: thuyết Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học (Chromotherapy), thuyết Linh Khí (Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves), thuyết Thái Lặc Mã (Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết Hoa Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié).
Thuyết bản mệnh Phương Đông người ta căn cứ vào địa chi của tháng
sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần, tháng 2 là Mão, tháng 3 là Thìn, tháng
4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi, tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu, tháng
9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu, cùng phối hợp với
ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng dùng đá
có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ thuộc Hỏa (ứng dùng đá có tông màu cam đỏ
hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có tông màu trắng, xám, ánh bạc), Tý Hợi
thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu đen, chàm, tím), Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ
(ứng dùng đá có tông màu vàng, trong, ánh kim). Và theo đó, Thuyết Bản Mệnh
phương đông xếp loại đá này vào năm Canh Tuất, thuộc Kim Cục, về Dương Phần.
Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Canh Tuất sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá
này màu xanh lam, thuộc về hành mộc, ứng về tháng Dần và Mão, tức tháng 1, 2.
Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo tháng như sau: tháng một
màu đỏ cam, tháng hai màu tím tươi, tháng ba màu xanh lam, tháng tư màu trắng
trong, tháng năm màu lục đen, tháng sáu màu trắng đục, tháng bảy màu đỏ tươi,
tháng tám màu xanh chuối, tháng chín màu xanh lá, tháng mười màu đen, tháng mười
một màu vàng, tháng mười hai màu chàm. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định
nghĩa theo hoàng đạo như sau: Bạch Dương màu xanh đen, Kim Ngưu màu xanh dương
đậm, Song Tử màu trắng trong, Cự Giải màu xanh lá mạ, Sư Tử màu đen, Xử Nữ màu
cam, Thiên Bình màu lục nhạt, Thiên Yết màu lam, Nhân Mã màu vàng, Ma Kết màu đỏ
tươi, Bảo Bình màu đỏ sậm, Song Ngư màu tím. Đá này màu xanh lam được xếp vào
loại đá bản mệnh của tháng ba, mùa xuân và xếp vào đá bản mệnh của cung Thiên Yết,
thuộc hệ nước. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 24 tháng 10 đến 22 tháng 11 hằng
năm, hoặc vào tháng Y thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này.
Theo
thuyết Quang Lý học thì đá Boleite có màu xanh lam. Ý nghĩa của màu sắc này được
biểu hiện ở các nên văn hóa khác nhau. Là một trong 3 màu chính của bảng màu sắc
truyền thống, cùng với đỏ và lục. Nó nằm giũa màu tím và màu lục trong ánh sáng
quang phổ.Ở Ai Cập màu xanh đã được kết nối với bầu trời và thần linh.
Thần Amun của Ai Cập có thể làm cho da của mình màu xanh để ông có thể bay, vô
hình, trên bầu trời. Xanh lam cũng có thể bảo vệ chống lại cái ác; nhiều người
ở vùng Địa Trung Hải vẫn mặc một bộ áo giáp màu xanh, tượng trưng cho con mắt
của Thiên Chúa, để bảo vệ họ khỏi những tai hoạ. Ở
Trung Quốc, màu xanh lam thường có liên quan đến sự hành hạ, ma quỷ, và cái
chết. Khảo sát tại Hoa Kỳ và Châu Âu cho thấy màu xanh là màu phổ biến nhất
liên quan đến sự hài hòa, trung thành, tự tin, khoảng cách, vô hạn, trí tưởng
tượng, lạnh, và đôi khi là nỗi buồn. Trong các cuộc thăm dò ý kiến công chúng ở
hai nơi này, màu sắc phổ biến nhất được lựa chọn bởi gần một nửa số nam giới và
phụ nữ, xanh lam là màu ưa thích của họ. Các cuộc khảo sát tương tự cũng chỉ ra
rằng màu xanh là màu có liên quan nhiều nhất với nam giới, trước màu đen và
cũng là màu sắc gắn liền với trí tuệ, kiến thức, bình tĩnh và tập trung. Ý nghĩa của màu xanh lam chính là thiết
lập sự điềm tĩnh, thanh bình. Nó là màu của bầu trời và đại dương, do đó, tạo
cảm giác rộng lớn, mênh mông. Màu xanh dương đi liển với cảm giác sâu thẵm,
vững vàng và yên bình. Bên cạnh đó, nó còn là màu của sự trung thành, tin
tưởng, thông thái, tự tin và mang lại sự ý nghĩa trong sáng, tinh khiết. Màu
xanh dương có liên hệ mật thiết đối với trí tuệ và sự thông minh. Tuy nhiên,
nên tránh màu xanh dương trong các trường hợp bị trầm cảm.
Thuyết
Thelema cho rằng đá Boleite thuộc Sepherot Chokhmah: “sự khôn ngoan”
("Wisdom", tiếng Do Thái: חכמה, cũng chochmah hay hokhmah) là phần
trên cùng của Sephirot của dòng bên phải (kav yamin, "Cột của lòng thương
xót") trong Cây Sự sống. Nó nằm phía dưới bên phải của Keter, và
Binah đối diện nó. Dưới đó là Sephirot của Chesed và Netzach. Nó thường có bốn
con đường dẫn đến Keter, Binah, Tifereth, và Chesed. Trong chủ nghĩa huyền bí
của người Do thái, nó biểu thị bước trung gian đầu tiên giữa Keter và phần còn
lại của Sephirot, chuyển tiếp và chuyển Ein Sof qua phần còn lại của Sephirot. Chokhmah có liên quan đến màu xám. Theo Bahir: "Lời
thứ hai là lời khôn ngoan, như đã được viết:" Đức Giê-hô-va ban cho tôi
lúc Ngài khởi đầu đường của mình, trước khi Ngài làm việc cũ ". Và đó
không phải là “bắt đầu” mà là trí tuệ ". Chokhmah, phần thứ Hai trong Mười
Sephirot, là sức mạnh đầu tiên của trí tuệ có ý thức trong Creation, và là điểm
đầu tiên của sự tồn tại 'thực', vì Keter thể hiện sự rỗng toẹt. Theo cuốn sách
của Gióp, "Trí tuệ xuất phát từ hư không". Đây là điểm rất nhỏ bé,
nhưng nó vẫn không thể hiểu được cho đến khi nó được tạo hình dạng và hình dạng
ở Binah. Chokhmah có liên quan đến linh hồn
với sức mạnh của cái nhìn sâu sắc trực quan, nhấp nháy giống như sét qua ý
thức. Sự chia ra của Abba Ila'ah có liên quan đến khả năng tự nhiên tách biệt
cái nhìn sâu sắc đó ra khỏi cảnh giới siêu vô cảm, trong khi phần của Yisrael
Saba có liên quan đến sức mạnh trong ý thức. “Trí tuệ” của Chokhmah cũng ngụ ý
khả năng nhìn sâu vào một khía cạnh nào đó của sự vật và tóm tắt ý nghĩa khái
niệm của nó cho đến khi người ta thành công trong việc khám phá ra chân lý của
nó. Những hạt giống sự thật này sau đó có thể được chuyển tải đến sức mạnh đồng
hành của Binah vì mục đích phân tích và phát triển trí tuệ. Trong Zohar Chokhmah là điểm ban sơ bắt nguồn từ ý muốn của
Thiên Chúa và do đó, là khởi đầu của Sáng tạo. Tất cả mọi thứ vẫn không phân
biệt được vào thời điểm này và chỉ trở nên dễ hiểu khi ở Binah. Từ Chokhmah
được đọc ở Zohar (số 220b) như koach mah, "sức mạnh của sự vô ngã",
hay là cheich mah, "cái miệng của sự vô ngã.". "Sức mạnh của sự
vô ngã" hàm ý không những chỉ thuộc tính vô ngã, mà còn là sức mạnh sáng
tạo tuyệt vời mà đòi hỏi có sự vô ngã.
Thuyết Chakra cho rằng đá Boleite thuộc Chakra Ajna
(tiếng Phạn: आज्ञा, IAST: Ājñā, tiếng
Anh: "mệnh lệnh"), hoặc chakra mắt thứ ba, là chakra nguyên thủy thứ
sáu trong cơ thể theo truyền thống đạo Hindu. Nó là một phần của bộ não mà có
thể được làm mạnh mẽ hơn thông qua thiền định, yoga và các thực hành tâm linh
khác giống như là tập luyện cơ bắp. Nó biểu thị tiềm thức, liên kết trực tiếp với
người Bà La Môn. Trong khi đôi mắt của một người nhìn thấy thế giới vật chất,
thì con mắt thứ ba được cho là tiết lộ những hiểu biết sâu sắc về tương lai. Chakra
mắt thứ ba kết nối mọi người với trực giác của họ, cho họ khả năng giao tiếp với
thế giới, và giúp họ nhận được thông điệp từ quá khứ và tương lai. Kshetram
(nơi, vị trí) của Chakra Ajna, hoặc vị trí bên ngoài, nằm giữa hai lông mày
ngang sóng mũi. Các tuyến tùng ở sâu trong não cũng liên quan đến Ajna, vì cả
hai đều được coi là "mắt thứ ba". Vị trí làm cho nó trở thành một nơi
linh thiêng nơi mà người Hindu dùng để chấm vết son đỏ để thể hiện sự tôn kính.
Ajna được miêu tả như một hoa sen trong suốt với hai cánh hoa trắng, biểu trưng
cho các nadis hay mạch (theo nguồn tâm linh) Ida và Pingala, cả hai mạch gặp
nhau ở trung tâm của mạch Sushumna trước khi lên tới chakra trên đỉnh đầu,
Sahasrara. Chữ "ham" (हं) được viết bằng màu
trắng trên cánh trái và tượng trưng cho Shiva, trong khi chữ "ksham"
(क्षं) được viết bằng màu trắng trên cánh hoa phải và
tượng trưng cho Shakti. Hai cánh hoa này cũng biểu hiện cho sự rành mạch và
không rành mạch trong tâm trí, đôi khi được cho là đại diện cho tuyến tùng và
tuyến yên. Bên trong vỏ quả của hoa là Shakti (năng lượng) hakini. Phần vỏ quả
được miêu tả với một mặt trăng màu trắng, thần Hakini có sáu gương mặt, và sáu
cánh tay cầm một quyển sách, một hộp sọ, một cái trống, và một chuỗi hạt mân
côi, đang thực hiện các cử chỉ liên quan đến việc ban tặng các phúc lành và xua
tan nỗi sợ. Hình tam giác hướng xuống ở phía trên cô ta chứa một biểu tượng
(dương vật) màu trắng. Hình tam giác này, cùng với hoa sen, có thể đại diện cho
sự khôn ngoan. Theo thiền định Ajna được cho là siddhi(siêu nhiên), hoặc các
năng lực huyền bí, để nhanh chóng nhập vào một thân thể khác theo ý muốn và trở
nên toàn tri. Người nắm giữ những sức mạnh này nhận được sự hiệp nhất với thần
Brahman, người có khả năng tạo ra, bảo vệ và tiêu diệt ba thế giới. Người Hindu
tin rằng năng lượng tinh thần từ môi trường xâm nhập vào cơ thể họ thông qua
luân xa Ajna, họ rất cẩn thận để bảo vệ nó bằng tinh tần tích cực và ý chí bảo
vệ mạnh mẽ. Các dấu hiệu tôn giáo khác nhau trên trán người Hindu, ví dụ như
bindis (dấu chấm đỏ trên trán), là những món quà tinh thần mà họ nhận được từ
các hình thức riêng biệt của những vị thần Hindu. Ngay trên Ajna là một chakra
nhỏ được gọi là Manas. Chakra này có trách nhiệm gửi cảm nhận giác quan tới
chakra cao hơn. Manas có sáu cánh hoa, một cho mỗi năm giác quan và một cho giấc
ngủ. Những cánh hoa này thường màu trắng nhưng mang màu sắc của giác quan khi
kích hoạt bởi chúng, và màu đen trong suốt thời gian ngủ. Nó có liên kết với đỉnh
mắt của con ễnh ương chưa thành niên. Các từ "mắt thứ ba" "đánh
thức" hoặc "khe hở", khi đi cùng với "lợi ích", chúng
bị buộc tội là có khả năng nguy hiểm và khủng khiếp đối với bất kỳ cá nhân mới
đánh thức hoặc "mở" chúng. Mở con mắt thứ ba ra là mở khóa tầm nhìn
khác thường. "Cách mạng Mudra", một cuốn sách do tác giả Louis Watel
xác nhận điều này.
Trong Phật giáo Tây
Tạng, chakra này nằm ở cuối đường dẫn năng lượng trung tâm, chạy lên cơ thể lên
đỉnh đầu, rồi qua và xuống, chấm dứt ở trán. Hai bên đường dẫn tiếp tục hướng về
phía hai lỗ mũi và kết thúc ở đó. Điểm trung tâm này thường được mô tả như là mắt
thứ ba trong tác phẩm nghệ thuật và được sử dụng trong các thiền định khác.
Ngoài ra còn có một điểm giữa trán trên mắt thứ ba, tương ứng với vị trí của
Manas, một trong mười chakras trong truyền thống Mật tông Mahayoga. Trong hệ thống
Lataif-e-sitta, có một Lataif được gọi là Khafi, hay sự bí ẩn huyền ảo, ở cùng
một vị trí. Điều này được cho là liên quan đến trực giác thần bí. Theo Kabbalah,
có hai sephirot nằm ở cấp độ thứ sáu, gắn liền với phần trái và phải của khuôn
mặt. Chúng được gọi là Chokmah (trí tuệ) và Binah (hiểu biết); chính tại hai điểm
này hai cột trụ của lòng nhân từ và dữ dội kết thúc, trong khi cột trụ ở trung tâm sẽ tiến lên kether ở đỉnh đầu.
Đá Boleite có màu xanh lam, theo
thuyết Phật giáo Mật tông là bổn sắc của A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya). Ngài là
sự chuyển hóa của sân hận thành từ bi. Màu lam và đen đại diện cho phẫn nộ
tướng ứng với tai. Đeo Boleite sẽ được A Súc Bệ Như Lai
Phật hộ trì, hỗ trợ về tai và sự điềm tĩnh. Vì đây cũng là màu của cõi người,
đá Boleite được coi là bùa hộ về thính dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về
thính dục thông qua vị phật phẫn nộ. Tử Thư cho rằng màu này cũng được hộ lãnh
bởi Phật Tỳ Lô Giá Na và Phật Kim Cương Tát Đỏa. Tử Thư nói về màu lam như sau:
bầu trời hiện ra màu lam và chíng giữa có đức Phật Tỳ Lô Giá na, tượng trưng
cho sự thật tuyệt đối hay sự trong sạch vô biên, xuất hiện. Từ tim của đức Phật
Kim Cương Tát Đỏa, trên tấm vải màu lam quang minh của Đại viên cảnh trí, sẽ
xuất hiện một cái dĩa lam giống như một cái chén màu lam ngọc, hướng mặt xuống,
được trang hoàng bằng những cái dĩa và những cái dĩa nhỏ hơn. Màu của hư
không là màu lam và linh ảnh xuất hiện lúc này là Phật Tỳ Lô Giá Na
(Vairocana). Những người cần sự điềm tĩnh hay sự thanh lọc những ý niệm bất hảo
có thể dùng loại đá màu lam để giải trừ.
Theo thuyết Reki (Linh Khí) đá Boleite trong hành Mộc và thuộc vào Kinh Túc Quyết Âm Can, Kinh Túc Thiếu Dương Đởm. Kinh Túc Quyết Âm Can liên
quan đến bệnh đầu đau, đầu váng, mắt hoa, nhìn không rõ, tai ù, sốt cao,
có thể co giật, tiểu dầm, tiểu không lợi, ngực tức, nôn nấc, bụng trên đau, da
vàng, tiêu lỏng, họng như bị tắc, thoát vị, bụng dưới đau, ở hệ sinh dục, bàng
quang, ruột, ngực, sườn, mắt. Ví dụ như huyệt Đại Đôn (Huyệt Tỉnh thuộc Mộc) có tác dụng liên quan đến băng huyết,
sa dạ con, sưng tinh hoàn, đau cửa mình, tiểu dầm, tiểu đục, thóat vị,
Hystérie; huyệt Hành Gian (Huyệt Huỳnh thuộc Hỏa) có tác dụng liên quan đến đau ngón chân, Kinh nguyệt qúa nhiều,
đau dương vật, thoát vị, đau sườn, đau mắt đỏ, động kinh, nôn, mất ngủ, tiêu chảy;
huyệt Thái Xung (Huyệt Nguyên, huyệt Du thuộc Thổ) có tác dụng đến đau phía trước
mắt cá trong, rong kinh, đau cửa mình, tiểu đục, thoát vị, tiểu rắt, kinh phong
trẻ em, tăng huyết áp; huyệt Trung Phong (Huyệt Kinh thuộc Kim) có tác dụng đến
bàn chân lạnh, đau mắt cá trong, đau bụng dưới, tiểu khó, tiểu dầm, tiểu đục,
thóat vị, đau lưng, vàng da có sốt, di tinh. Ví huyệt Ngũ
Lý có tác dụng liên quan đến đầy bụng, tiểu tiện không thông; huyệt Âm Liêm có
tác dụng liên quan đến đau mặt trong đùi, kinh nguyệt không đều, phụ nữ
vô sinh; huyệt Cấp Mạch có tác dụng liên quan đến
đau âm hộ, sa tử cung, sưng tinh hoàn, đau dương vật; huyệt Chương Môn
(Huyệt Mộ của Tỳ, huyệt Hội của Tạng. Hội của các kinh Thiếu dương và Quyết âm ở
chân) có tác dụng liên quan đến đau cạnh sườn, đau thắt lưng, đau ngực, tiểu đục,
đau thắt lưng, đầy bụng, sôi bụng, kém ăn, ăn không tiêu, nôn; huyệt Kỳ Môn
(Huyệt Mộ của Can, Hội của kinh Quyết âm ở chân với kinh Thái âm ở chân và mạch
Âm duy) có tác dụng liên quan đến đau sườn ngực, đầy tức ngực, mờ mắt, hành
kinh bị lạnh gây sốt cao, ợ và nôn nước chua, không ăn được. Kinh Túc Thiếu
Dương Đởm liên quan đến bệnh Sốt rét, điếc, đau đầu, hàm đau, mắt
đau, hố trên đòn sưng đau, nách sưng, lao hạch, khớp háng và mặt ngoài chi dưới
đau, phía ngoài bàn chân nóng, ngón chân thứ tư vận động khó, Cạnh sườn đau, ngực
đau, mồm đắng, nôn, Ở đầu, mặt, tai, mũi, họng, ngực, sườn, sốt. Ví dụ như huyệt Huyền Lư (Hội của kinh
Thiếu dương ở chân, tay và Dương minh ở chân) có tác dụng liên quan đến Đau nhức đầu, đau khóe mắt ngoài; huyệt Huyền Ly (Hội của kinh Thiếu
dương ở chân, tay và Dương minh ở chân) có tác dụng liên quan đến Đau nhức nửa đầu, đau khóe mắt ngoài; huyệt Khúc Tân (Hội của kinh Thiếu
dương và kinh Thái dương ở chân) có tác dụng liên quan đến đau vùng thái dương, sưng má và hàm răng cắn chặt; huyệt Suất Cốc (Hội của kinh Thiếu
dương và kinh Thái dương ở chân) có tác dụng liên quan đến đau đầu, đau nửa đầu, bệnh ở mắt. Ví dụ như huyệt Bản Thần (Hội của kinh Thiếu dương ở chân và mạch
Dương duy) có tác dụng liên quan đến đau đầu, Hoa mắt, điên, kinh phong; huyệt Dương Bạch (Hội của kinh Thiếu
dương ở chân với kinh Dương minh ở chân, tay và mạch Dương duy) có tác dụng
liên quan đến đau đầu, đau mắt, mắt nhiều dử, mắt
mờ, sụp mi, mắt không nhắm được, quáng gà, loạn thị; huyệt Lâm Khấp (Hội của kinh Thiếu
dương, Thái dương ở chân và mạch Dương duy) có tác dụng liên quan đến đau đầu,
hoa mắt, chảy nước mắt, đau khóe mắt ngoài, kinh phong.
Theo thuyết Tứ Trụ, đá Boleite
thuộc mệnh Mộc rất hạp với mệnh Hỏa sinh vào mùa thu. Hỏa mùa thu phần lớn là
thân yếu, cần có Mộc sinh mới có thể thịnh vượng, chuyển nguy thành yên bình đồng
thời đạt được tài lợi, sẽ không bị khốn đốn. Nếu thân yếu không có Ấn lại gặp
Thủy khắc sẽ khó tránh nguy cơ bị tiêu trừ, cơ thể không khỏe mạnh, thậm chí mất
mạng. Nếu là Hỏa mùa thu có thân yếu lại gặp Thổ hao tiết, khó sáng và không thể
phát huy tài hoa, vất vả cả đời. Nếu thân yếu lại gặp Kim đến tiết hao phần lớn
là vất vả, nhiều thất bại, ít thành công, kinh tế khó khăn, nghèo khổ lao đao. Đá
ngọc thuộc mệnh Mộc cũng rất hạp với Hỏa sinh mùa đông. Hỏa mùa đông phần lớn
là thân yếu, cần có Mộc sinh, nếu không Thủy vượng sẽ tiêu diệt Hỏa, mãi mãi
khó có thể đứng dậy. Hỏa mùa đông thân yếu có Hỏa đến giúp thì Tỷ Kiếp khác Tài
tinh, có thể nhìn thấy tiền tài phát triển thịnh vượng, nhưng duyên với vợ bạc,
quan hệ không thân mật, hoặc vợ có tình trạng sức khỏe không tốt. Nếu chỉ có Tỷ
Kiếp mà không có Tài, đại diện cho vận thế thuận lợi, không có lợi ích thực tế.
Đá ngọc thuộc mệnh Mộc cũng rất hạp với mệnh Thủy sinh mùa thu. Thủy của mùa
thu, vì Kim tư lệnh đương quyền, do đó Kim Thủy tương sinh, mẹ vượng con tướng.
Mộc thịnh vượng thì sẽ tiết hao nguyên khí của Thủy, nhưng con cái sẽ hiển vinh
Thuyết Hoa Giáp cho rằng Boleite thuộc về Mộc (xanh lam) phối Thổ (vuông),
tức Mộc Cục. Do đó, Boleite
giúp khắc chế các bản mệnh Thủy – Hỏa như Nhâm Ngọ, Quý Tỵ, Bính Tý, Đinh Hợi,
vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Boleite cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Hỏa
(Mộc sinh Hỏa), gồm mệnh thuộc Hỏa Mộc và thuần Hỏa: Bính Dần, Đinh Mão, Giáp
Ngọ, Ất Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Tỵ, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại
ngọc này.
Dựa trên thuyết Orthotherabi và
công thức cấu tạo của đá Boleite (KPb26Ag9Cu24(OH)48Cl62)
gồm: Nguyên tố Oxygen (O) có số nguyên tử là 8, chiếm tỉ trọng trong cơ thể người
là 0.65. Thành phần của nguyên tố này trong cơ thể trung bình là 43kg chiếm tỷ
lệ là 24%. Tác động đến sức khỏe và sự sống của hầu hết các loài động thực vật
trên thế giới. Nguyên tố Potassium (K) có nguyên tử khối là 19, tỉ trọng cơ thể
là 0.25 và có khối lượng trung bình 0.14kg đạt tỷ lệ 0.033%. Tác động vừa tích
cực do Kali là thành phần chủ chốt trong các dây thần kinh nơ ron, và các búi
co cơ trong cơ thể. Tác dụng lên các bệnh về cơ khớp, và các bệnh về thần kinh
hoặc tâm lý. Nguyên tố Copper (Cu) số hiệu nguyên tử là 29, Đồng có tỉ trọng
trong cơ thể chúng ta là 0.001 và có khối lượng trung bình 0.000072kg đạt tỷ lệ
nguyên tố là 0.0000104% so với những nguyên tố khác.
Dựa trên công thức hóa học của
đá Boleite, theo thuyết Hài Hòa Bộ Tám loại đá
này mang yếu tố của hỏa tinh với nguyên tố chủ đạo là nguyên tố Lửa. Vì vậy nó
tác động lên hệ sinh dục, bộ phận sinh dục, tuyến thượng thận. Có tác dụng hỗ
trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến tình dục như yếu sinh lý, liệt dương,
khoái cảm kém nhằm tăng cường sinh lực tình dục. Nó còn giúp tăng cường ý chí
và tư tưởng, đặc biệt là sự tham vọng, đầy năng lượng, đam mê, nam tính, hành động,
kỷ luật, lòng nhiệt huyết, nhiệt tình trong tình dục... nhấn mạnh yếu tố ý chí.
Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là trấn giữ các mối quan hệ của nhà
chiêm tinh thứ 3 và 10: anh em, bà con (nhà Fratres); chức vụ, nhiệm (nhà
Regnum). Dành hỗ trợ cho những người có mối quan hệ đã nêu không được suông sẻ
để cải thiện tình hình. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố hỏa tinh bảo
trợ về toán và suy luận nói chung (Dante Alighieri). Dành cho những người làm
trong lĩnh vực liên quan đến tính toán như các ngành toán, vật lý, kỹ sư, cơ giới,
thủ quỹ, thủ kho, buôn bán, kế toán...
Thuyết Bát Quái Kinh
Dịch dựa vào hình thái tinh hệ của tinh thể gồm tám loại, được phân định thành
tám quái thuộc nội quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập
Phương (cubic - isometric) ứng Càn , Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam
Phương (rhombohedral) ứng Ly, Lục Phương (hexagonal - trigonal) ứng Đoài,
Tam Tà (triclinic) ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic)
ứng Tốn, Phi Tinh (noncrystallinic) ứng Khôn. Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn)
tương ứng khác: Lập Phương ứng Càn, Tam Tà ứng Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn
Tà ứng Cấn, Tam Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn
Khảm. Ở đây chỉ trình bày thuyết của Thông Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh
thể gồm tám màu, ứng với tám quái thuộc ngoại quái trong kinh dịch. Có ba thuyết
chính, đều nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ nhất được trình bày trong I-ching:
Binary Numbers, Astrology, And Chakras, dựa trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn
ứng trắng, Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn
ứng đỏ, Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên
ngũ hành ứng bát quái cho rằng: Càn ứng dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng
lục, Tốn ứng cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam
Apolo đề xuất dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm
ứng lam, Cấn ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên
thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại quái tương ứng với hình dạng và màu sắc của
tinh thể, từ đó tính ra được quái trong 64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại
ứng một bộ phận cơ thể theo y lý trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể. Đá
Boleite có màu xanh lam tương ứng quẻ ngoại quái Khảm, có tinh hệ Lập phương
tương ứng quẻ nội quái Càn, ghép lại chính là quẻ quái số 5: quẻ Thủy Thiên Nhu.
Quái số 5 ứng với vị trí lông mày trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là
có lợi cho các bệnh liên quan đến mắt như dị ứng mắt, tật khúc xạ (cận thị, viễn
thị, loạn thị,…), thoái hóa điểm vàng, đau mắt đỏ, tăng nhãn áp, viêm màng bồ
đào,. Quẻ Thủy Thiên Nhu có nghĩa Nhu là chờ đợi. Nói về hai thể, thì Kiền cứng
mạnh cần tiến lên, mà gặp chỗ hiểm, chưa thể tiến được, cho nên là nghĩa chờ đợi.
Nói về tài quẻ, thì hào Năm ở ngôi vua, là chủ sự chờ đợi, có đức cứng mạnh,
trung chính, mà sự thành tín đầy đặc bên trong, tức là bên trong đầy đặc có đức
tin; có đức tin thì sáng láng mà có thể hanh thông, được trinh chính và tốt.
Dùng những cái đó mà chờ đợi, thì gì mà không qua: dù hiểm cũng không khó. Cho
nên, kẻ xem, nếu là có sự chờ đợi mà tự mình sẵn có đức tin thì sẽ sáng láng
hanh thông; nếu lại được chính thì tốt mà lợi về việc sang sông lớn (Việc Đại sự
- Đại nghiệp). Chính bền thì không cái gì không tốt, mà sự sang sông lại càng
quý ở chờ đợi, người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy.
Nơi tìm ra đá:
Boleite ngày nay có thể tìm thấy nở Hoa Kỳ, Mehico, Chile, khu vực châu Âu (Pháp, Ý, Đức,...)
Lời cảm ơn: bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến sĩ Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu tập Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments