CANXIT- Phương GIới Thạch
Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị Liệu, Thạch Học Trị Liệu dịch từ
chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ. Lithotherapy phân thành Litho đến
từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá, therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ]
tức là chữa trị, lithotherapy tức là chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với
đá ở ngoài da. Lithotherapy là một môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận
huyền học và thần bí học. Mặc dù có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả
năng của nó, đã được ứng dụng từ lâu trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại,
nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức màn bí mật của những điều thần kỳ giống như nền
Đông Y của người Trung Quốc hay Nam Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc
biệt trình bày về những lý luận căn bản trong Thạch Lý Học đối với CANXIT , nằm trong chuỗi khảo cứu, viết riêng cho tuần báo
UNESCO.
Giới thiệu về đá CANXIT
Giới thiệu về các thuyết: Giá trị thạch lý học của CANXIT được trình bày thành các thuyết cơ bản: thuyết Bản mệnh
(Natal Stones), thuyết Quang Lý Học (Chromotherapy), thuyết Linh Khí (Reiki),
thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ
(Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves), thuyết Thái Lặc Mã (Thelema),
thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết Hoa Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo
Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié). Thuyết bản mệnh Phương Đông người ta căn cứ vào địa chi của tháng
sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần, tháng 2 là Mão, tháng 3 là Thìn, tháng
4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi, tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu, tháng
9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu, cùng phối hợp với
ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng dùng đá
có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ thuộc Hỏa (ứng dùng đá có tông màu cam đỏ
hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có tông màu trắng, xám, ánh bạc), Tý Hợi
thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu đen, chàm, tím), Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ
(ứng dùng đá có tông màu vàng, trong, ánh kim). Và theo đó, Thuyết Bản Mệnh
phương đông xếp loại đá này vào năm Bính Tuất, thuộc Hỏa Cục, về Dương Phần.
Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Bính Tuất sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá
này màu trắng, thuộc về hành Kim, ứng về tháng Thân và Dậu, tức tháng 7 và 8. Thuyết Bản Mệnh phương
tây được định nghĩa theo tháng như sau: tháng một màu đỏ cam, tháng hai màu tím
tươi, tháng ba màu xanh lam, tháng tư màu trắng trong, tháng năm màu lục đen,
tháng sáu màu trắng đục, tháng bảy màu đỏ tươi, tháng tám màu xanh chuối, tháng
chín màu xanh lá, tháng mười màu đen, tháng mười một màu vàng, tháng mười hai
màu chàm. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo hoàng đạo như sau: Bạch
Dương màu xanh đen, Kim Ngưu màu xanh dương đậm, Song Tử màu trắng trong, Cự Giải
màu xanh lá mạ, Sư Tử màu đen, Xử Nữ màu cam, Thiên Bình màu lục nhạt, Thiên Yết
màu lam, Nhân Mã màu vàng, Ma Kết màu đỏ tươi, Bảo Bình màu đỏ sậm, Song Ngư
màu tím. Đá này màu trắng đục được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng sáu, mùa
hạ và xếp vào đá bản mệnh của cung Song Tử, thuộc hệ Khí. Vì vậy, những ai sinh
vào giữa 21 tháng 5 đến 21 tháng 6 hằng năm, hoặc vào tháng 6 thì được xem là
có lợi khi đeo loại đá này. Theo thuyết Quang Lý học thì đá CANXITcó trắng. Ý nghĩa của màu sắc này được biểu hiện ở các
nên văn hóa khác nhau. Là một trong những màu đầu tiên được sử dụng trong
nghệ thuật. Hang động Lascaux ở Pháp bảo tồn những bức tranh tường với hình ảnh
những chú bò đực và các động vật khác được vẽ bởi các nghệ sĩ thời kỳ đồ đá
cách đây 18000 – 17000 năm. Họ đã sử dụng Calcite và đá vôi. Đôi khi nó được
dùng làm nền, đôi khi thì làm điểm nhấn. Cùng với than củi, màu đỏ và màu vàng
trong những bức tranh làm cho chúng sinh động hơn rất nhiều.
Ở Ai Cập cổ, màu
trắng được kết nối với thần Isis. Các nữ tu và thầy tế của đền thờ Isis chỉ
được mặc đồ bằng vải lanh trắng, và nó cũng được sử dụng để bọc xác ướp. Ở Hy
Lạp và các thành phố khác thì màu trắng tượng trưng cho sữa mẹ. Trong thần
thoại Hy Lạp, thần Zues đã nược nuôi nấng bằng sữa của những nữ thần sông
Amalthea. Trong Talmud, sữa là một trong 4 chất thánh cùng với rượu vang, mật
ong và hoa hồng. Ở Roma, các nữ tu của nữ thần Vesta mặc áo choàng lanh trắng,
áo phong hoặc áo khăn choàng trắng. Họ bảo vệ cho ngọn lửa thiên và những vị
giáo sĩ của thành Rome. Màu trắng đại diện cho sự thanh khiết, trung thành và
trinh tiết của họ. Nhà thờ Cơ Đốc giáo La Mã đã chọn màu trắng là màu của sự
tinh khiết, sự hy sinh mà đức hạnh. Con kỳ lân trắng là một chủ đề phổ biến của
bản thảo lịch sử, các bức tranh và thảm trang trí. Đó là một biểu tượng của sự
thanh khiết, trinh khiết và ân sủng, chỉ có thể bị bắt bởi một trinh nữ. Nó
thường được miêu tả trong lòng của Đức Trinh Nữ Maria. Màu Trắng đục đại diện
cho sự điều hòa và cân bằng. Loại đá này tăng cường sự trầm tĩnh, cân bằng
trong tâm hồn. Nó được tin là có tác dụng thanh lọc, thanh tẩy tinh thần. Loại
đá này dành cho những người bị trầm cảm, áp lực hoặc nhiều tâm sự. Nó cũng dành
chủ yếu cho nhũng người làm việc trí óc như nhân viên văn phòng, nhân viên kế
toán hay các ngành nghề viết lách như nhà văn hay báo chí. Keter hay còn được
gọi là Kether, là một trong những nút Sephirot quan trọng nhất của Cây Sự
Sống. Nó được hiểu như “Vương Miện”; có
bậc và vị trí cao nhất các Sephirot. Nó nằm giữa Chokmah với Binah (với Chokmah
bên phải và Binah bên trái) và nằm bên trên Tiphereth. Từ nó có 3 đường dẫn đến
3 Sephirot khác là Chokmah, Tephereth và Binah. Keter rất tuyệt vời, nó được
gọi là Zohar – “Thứ bí ẩn nhất trong các thứ bí ẩn” và con người không thể nào
hiểu được nó. Nó thường được miêu tả là sự độ lượng vô biên. Rabbi Moshe
Cordovero miêu tả nó như là 13 thuộc tính siêu vượt của đạo đức. Theo Bahir:
“Mười điều răng là gì? Điều đầu tiên là vương miện tối cao, cái được ban phước
trong tên Ngài và con dân Ngài”. Sephirah đầu tiên được gọi là Crown – Vương
miện, kể từ đó vương miện được đội trên đầu. Nó đại diện cho Vương quyền, thứ
mà vượt qua cả khả năng của sự thấu hiểu tâm trí. Các Sephirot khác được
ví như các bộ phận trên cơ thể, nó bắt đầu từ trên đỉnh và đi xuống các nút
khác thông qua đường dẫn là các hành động. Vương miện của một vị vua nằm trên
đỉnh đầu và kết nối với khái niệm “chế độ quân chủ”, nó mang tính trừu tượng và
vô hình, biểu thị cho sự hiện diện và quyền lực của nhà vua. Sepharah đầu tiên
này đại diện cho những ý nghĩ hành động nguyên sơ trong nhận thức của Ein Soph
hoặc là sự kích thích của mong muốn đi khám phá thế giới muôn dạng. Nhưng theo
nghĩa này, mặc dù nó bao hàm tất cả các nội hàm về niềm vui nhưng nó lại không tự mang niềm vui, nó được
gọi là “Nothing – Không gì cả”, “The Hidden Light – Ánh sáng bí ẩn”, “The air
that cannot be grasped – Không khí không thê nắm bắt”. Mong muốn mang vào thế
giới hoàn hảo, Keter là sự độ lượng vô biên. Tên của vị thần gắng kết với Keter
là Ehyeh Asher Ehyeh, cái tên mà thông qua đó Ngài tiết lộ bản thân mình với
Moses trong bụi cỏ cháy. Cái tên Ehyeh này là nguồn gốc của các loại đồ ăn,
những thứ vô hạn. Thuyết Chakra cho rằng loại đá này thuộc
Chakra Sahara ( tiếng Phạn : सहस्रार , IAST : Sahasrāra ,
tiếng Anh: "nghìn cánh hoa") hoặc chakra đỉnh đầu thường được coi là chakra nguyên thủy
thứ bảy, theo hầu hết các tantric (hệ thống) yoga truyền thống.
Sahasrara được mô tả như một hoa sen với 1.000 cánh hoa màu khác nhau. Những
cánh hoa này được bố trí trong 20 lớp, mỗi lớp với khoảng 50 cánh hoa. Phần
vỏ quả màu vàng và bên trong vùng mặt trăng tròn là tam giác màu sáng có thể hướng
lên hoặc hướng xuống. Trong phối hợp một số các chakra, trên thực tế có rất nhiều
chakra tất cả chúng đều liên kết chặt chẽ với nhau, ở tại đỉnh đầu. Xuất phát từ
Ajna (chakra vùng trán), chúng ta có Manas (tư lương thức) chakra trên
trán nó liên kết chặt chẽ với Ajna. Trên Manas có Bindu Visarga ở phía sau đầu;
Mahanada; Nirvana nằm ở đỉnh đầu. Guru,
và Sahasrara riêng biệt nằm phía trên của đỉnh đầu. Bindu Visarga nằm ở phía
sau đầu, nơi mà nhiều người Bà la môn giữ một bó tóc ở đó. Nó thường được mô tả
như là nguồn gốc của dòng chảy thần thánh, hoặc amrita (sự bất tử), mặc dù đôi
khi nó được cho là đến từ chakra ajña hoặc chakra lalita. Dòng chảy này đi xuống
vùng bụng (samana) nơi nó bị đốt cháy. Việc bảo vệ giữ gìn dòng chảy này được gọi
là "urdhva retas" (nghĩa đen là sự đi lên của tinh dịch). Giọt màu trắng
có liên kết đến kết tinh của tinh dịch, trong khi chấm màu đỏ có liên quan đến
dịch tiết (kinh nguyệt) hàng tháng. Trong Sahasrara, vẫn còn nhiều cấp độ của
những liên kết. Trong tam giác bắt đầu một loạt các mức độ ý thức cao hơn:
Ama-Kala (Ama-kala là trãi nghiệm của thiền định.), the First Ring of Visarga (Visarga
được biểu tượng bằng hai vòng tròn nhỏ, một trong số đó nằm trong Ama-Kala, và
cái kia nằm dưới Supreme Bindu, tượng trưng cho sự chuyển tiếp từ samprajnata
samadhi (samadhi với tâm thức) sang tính nhất quán của asamprajnata samadhi
(samadhi không tâm thức).), Nirvana-Kala (Ở đây Kundalini hấp thụ trải nghiệm của
samadhi, thông qua sức mạnh của khả năng kiểm soát tối cao (Nirodhika-Fire).),
và Nirvana Shakti (Ở đây Kundalini đi vào khoảng trống tối cao, nơi được gọi là
trải nghiệm của asamprajnata hay nirvikalpa samadhi, và trở thành Shankhini.
Shankhini quấn lấy và hấp thụ Bindu tối cao vào khoảng trống đó; sau đó là Nada
Tối Cao; rồi Shakti; và sau đó hợp nhất và hấp thụ Sakala Shiva; trước khi hấp
thụ Parama Shiva cuối cùng, giai đoạn cuối cùng của niết bàn (nirvikalpa
samadhi)), bên trong còn có the Second Ring of Visarga. Từ đây, Kundalini trở
thành Shankhini, với 3,5 vòng xoắn. Vòng xoắn thứ nhất của Shankhini quấn quanh
Bindu tối cao, Vòng xoắn thứ hai của Shankhini quấn quanh Nada tối cao, vòng xoắn
thứ ba của Shankhini quấn quanh Shakti, và nửa vòng xoắn của Shankhini đi vào
Sakala Shiva, ra khỏi vị trí đó được gọi là Parama Shiva. Đá CANXIT có màu trắng, là bổn sắc của Tỳ Lô Giá Na
Như Lai (Vairochana). Ngài là sự chuyển hóa của vô minh thành trí huệ. Màu
trắng đại diện cho thanh tịnh tướng ứng với mắt. Đeo CANXIT sẽ được Tỳ Lô Giá Na Như Lai Phật hộ trì, hỗ
trợ về mắt và sự tinh anh. Vì đây cũng là màu của cõi trời, đá CANXIT được coi là bùa hộ về sắc dục, giúp thoát
khỏi các nguy hiểm về sắc dục. Tử Thư nói về màu trắng như sau: Phật Tỳ
Lô Giá Na hiện thân ở dạng có bốn mặt cùng lúc nhận biết tất cả các phương
hướng. Ngài có màu trắng bởi vì sự nhận biết đó không cần sự pha màu nào cả,
đích thị là màu chánh gốc, màu trắng. Ngài đang cầm một bánh xe có tám nan hoa,
nó thể hiện sự vượt lên trên mọi nhận thức về phương hướng và thời gian. Toàn
bộ sự biểu tượng hóa Ngài Phật Tỳ Lô Giá Na thể hiện khái niệm của cái thấy
không gian toàn cảnh cùng khắp; cả hai: trung tâm và chu vi đều có khắp nơi. Đó
là sự mở toang trọn vẹn của thức, siêu việt khỏi thức uẩn. Vượt lên trên sắc
uẩn là những tia sáng có hình như cái gương, màu trắng, lấp lánh, rõ từng chi
tiết, chiếu ra từ tim của Phật Kim Cương Tát Đỏa. Phật Mẫu mặc áo choàng trắng
– liên tưởng đến sự hình tượng hóa câu chuyện thần thoại Ấn Độ về loại quần áo
được dệt bằng sợi làm bằng đá, chỉ được tẩy sạch bằng lửa. Phật Mẫu
Pandaravasini thể hiện bản chất của lửa là tiêu hủy mọi thứ và cũng là kết quả
của quá trình tiêu hủy, sự tịnh hóa, lòng đại bi vẹn toàn. Tiến trình trọn vẹn
của trí đại bi có ánh sáng và nhịp điệu, nó có trí huệ sâu sắc và sự hiệu quả
sắc nét, và nó có bản chất tịnh hóa của vị Phật Mẫu Gita mang áo choàng trắng
cũng như bản chất soi sáng đến vô tận của Phật A Di Đà. Vị gauri áo trắng nhảy
múa quanh một tử thi, bà muốn dập tắt tiến trình các niệm, cho nên bà ta cầm
một tích trượng làm bằng thi thể một đứa bé. Thông thường, một thi thể tượng
trưng trạng thái vô ký căn bản của chúng sanh; một thi thể đã không còn sống là
một thể không còn những niệm được khởi lên nữa, chẳng có niệm thiện, niệm ác –
đó là trạng thái bất nhị của tâm. Cùng lúc, có ánh sáng trắng êm dịu của chư
thiên cũng sẽ hướng về con. Vào ngày thứ hai, một ánh sáng trắng, thành phần
tinh khiết của nước sẽ chiếu sáng. Ánh sáng trắng của sắc uẩn trong tánh thanh
tịnh căn bản của nó là Đại Viên Cảnh Trí (trí huệ giống như cái gương), thứ ánh
sáng trắng chói chang, quang minh, trong suốt, từ tim của Phật Kim Cương Tát
Đỏa. Pháp giới thể tánh trí, đó là một tấm vải đan bằng các tia ánh sáng trắng
quang minh, rực rỡ đáng kinh ngạc, từ tim của đức Phật Tỳ Lô Giá Na. Pháp giới
thể tánh trí, đó là một tấm vải đan bằng các tia ánh sáng trắng quang minh, rực
rỡ đáng kinh ngạc, từ tim của đức Phật Tỳ Lô Giá Na.Theo thuyết Reki, Đá CANXIT trong hành Kim và thuộc vào
Kinh Thủ Thái Âm Phế, Kinh Thủ Dương Minh Đại Tràng. Kinh Thủ Thái Âm Phế liên quan đến các triệu chứng hố trên đòn đau,
đau kịch liệt thì hai tay bắt chéo ôm ngực, mắt tối sầm, tim loạn lên, mặt
trong chi trên đau, ngực phổi đầy tức, ho, suyễn, khó thở, khát, tiểu rắt, tiểu
vàng, ngực bồn chồn, gan tay nóng, nếu cảm phong hàn có sốt, gai rét, có hoặc
không có mồ hôi, sốt, bệnh ở phổi, ngực, họng, khí huyết ứ trệ, tiểu ít khó, có
tác dụng hành khí hoạt huyết, lợi tiểu Ví dụ như huyệt Khồng Tối (Huyệt
khích) liên quan đến ho hen, ho ra máu, viêm họng,
mất tiếng, đau do viêm quanh khớp vai, đau cánh tay, không co duỗi được cánh
tay. Liệt Khuyết (Huyệt lạc nối với kinh Dương minh ở tay. Huyệt Giao hội
của mạch Nhâm với kinh Phế) liên quan đến sưng cổ tay, đau cẳng tay, ho, đau ngực,
tiểu vàng, tiểu nhiều lần, tiểu khó, đau họng,các bệnh ở cổ gáy. Kinh Cừ (Huyệt
kinh thuộc Kim) liên quan đến sưng, đau cổ tay, ho, đau họng, đau ngực, sốt
không ra mồ hôi. Kinh Thủ Dương Minh Đại
Tràng liên quan đến các triệu chứng cổ sưng, răng
hàm dưới, vai, cẳng tay đau; ngón trỏ, cái khó vận động. Nếu tà khí ở kinh thịnh,
có thể sưng đau. Nếu kinh khí suy, sợ lạnh ở chỗ đường kinh đi qua, mắt vàng, mồm khô, đau họng, chảy máu mũi, bụng đau,
sôi bụng. Nếu hàn: tiêu chảy. Nếu nhiệt: tiêu nhão, dính hoặc táo bón. Tà khí
thịnh, sốt cao có thể phát cuồng. Ở đầu, mặt, tai, mắt, mũi, răng, họng, ruột
và sốt. Ví dụ như huyệt Thương Dương
(Huyệt Tỉnh thuộc Kim) liên quan đến ngón tay tê hoặc co giật, đau vai kèm đau
hố trên đòn, đau họng, đau răng,sưng đau hàm, hoa mắt, điếc tai, ù tai, trúng
phong hôn mê, sốt không ra mồ hôi. Nhị Gian (Huyệt Huỳnh thuộc
Thủy) liên quan đến đau bàn tay, ngón tay, đau cánh tay, đau vai, đau họng, đau
răng, sưng hàm, méo mồm, chảy máu mũi, hoa mắt, sốt nóng. Tam Gian
(Huyệt Du thuộc Mộc) liên quan đến sưng đau ngón tay, bàn tay, đau răng, đau hàm
dưới, đau bụng, đau mắt cấp. Theo thuyết Can Chi Tứ Trụ, đá CANXITthuộc mệnh Kim rất
hạp với mệnh Hỏa sinh vào mùa xuân, Mộc là ấn tinh, càng nhiều thì Hỏa càng
vượng, phối hợp Mộc đến phù trì, phần lớn là thân mạnh; nhưng nếu Mộc Hỏa quá
vượng là cách cục chuyên vượng, thần hỷ kỵ và thân mạnh tương phản. Chỉ riêng
Hỏa sinh mùa xuân có thân mạnh gặp Kim, con đường công danh và tình duyên như
ý, mọi sự hanh thông. Đá ngọc thuộc mệnh Kim cũng rất hạp với mệnh Thổ sinh mùa
xuân. Mùa xuân thì Mộc tư lệnh đương quyền, Thổ ở chỗ tử tuyệt, hư phù không có
lực, ưa Hỏa đến sinh trợ, kỵ Mộc đến khắc. Thuyết Hoa Giáp cho rằng CANXIT thuộc về Kim (Trắng
và Xám) phối Thổ (Vuông và Cân), tức Kim Cục. Do đó, CANXIT giúp khắc chế các
bản mệnh Thủy-Thổ như Nhâm Thìn, Nhâm Tuất, Quý Mùi, Quý Sửu, Mậu Tý, Kỷ Hợi,
vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. CANXIT cũng phù trợ cho các
bản mệnh thuộc Kim (Kim sinh Thủy), gồm có mệnh thuộc Kim-Thủy và thuần Thủy:
Canh Tý, Tân Hợi, Nhâm Thân, Quý Dậu, Nhâm Tý Quý Hợi, các bản mệnh này có lợi
khi tiếp xúc với loại ngọc này. Thuyết Ngũ
Hành Khí Tiết nói, người có mệnh cục Thủy (sinh vào ngày Nhâm-Quý, Tý-Hợi) gặp
vào những ngày thuộc hành Thổ (như các ngày Mậu-Kỷ, Thìn-Mùi-Tuất-Sửu) và những
tháng hành Thổ (như tháng ba, tháng sáu, tháng chín, tháng chạp) thì bởi Thủy
khắc Thổ, sinh ra bệnh ở bàng quang và thận. Bên trong, đổ mồ hôi trậm, cơ thể
hư tổn, tai nghễnh ngãng, thương hàn cảm mạo. Bên ngoài biểu hiện đau răng, sa
nang, thoát vị, đau lưng, tràn dịch, thổ tả... Sách mệnh lý nói: mệnh Thủy băng
lãnh, sắc mặt tối tăm, do Thủy bị Thổ khắc chế, phải lấy Kim giải độc, CANXIT thuộc Kim, có tác dụng tốt cho thể trạng người Thủy Cục
(Kim sinh Thủy), nhất là vào những ngày hay tháng Thổ thịnh (Mậu-Kỷ,
Thìn-Mùi-Tuất-Sửu) và các tháng hành Thổ như tháng ba, tháng sáu, tháng 9,
tháng chạp. Người đeo đá CANXIT, có thể dùng Kim khắc chế được Thổ hại. Dựa
trên thuyết Orthotherapy và công thức cấu tạo của đá CANXIT (CaCO3) gồm: Nguyên tố
Calcium (Ca) có số nguyên tử là 20, tỉ trọng Canxi trong cơ thể là 0.014 và khối
lượng trung bình trong cơ thể người là 1kg đạt tỷ lệ là 0.22%. Tác động tích cực cho sức khỏe do Can xi là thành phần
chủ yếu của răng và hệ xương, đặc biệt là trong các thành phần Calmodulin và
Hydroxylapatite. Tác dụng lên hệ xương, chiều cao, sự vận động và phục hồi
xương. Được coi là có tác dụng tốt cho chứng gãy xương, hay tăng chiều cao ở trẻ
em. Được sử dụng nhiều cho các vận động viên, hoặc các ngành nghề cơ bắp. Nguyên tố Oxygen (O) có số nguyên tử là 8, chiếm tỉ trọng
trong cơ thể người là 0.65. Thành phần của nguyên tố này trong cơ thể trung
bình là 43kg chiếm tỷ lệ là 24%. Tác động đến sức khỏe và sự sống của hầu hết
các loài động thực vật trên thế giới. Dựa trên công thức hóa học của đá CANXIT,
theo thuyết Hài Hòa Bộ Tám loại đá này mang yếu tố của hỏa tinh với nguyên tố
chủ đạo là nguyên tố Lửa. Vì vậy nó tác
động lên hệ sinh dục, bộ phận sinh dục, tuyến thượng thận. Có tác dụng hỗ trợ
trị liệu cho các bệnh liên quan đến tình dục như yếu sinh lý, liệt dương, khoái
cảm kém nhằm tăng cường sinh lực tình dục. Nó còn giúp tăng cường ý chí và tư
tưởng, đặc biệt là sự tham vọng, đầy năng lượng, đam mê, nam tính, hành động, kỷ
luật, lòng nhiệt huyết, nhiệt tình trong tình dục... nhấn mạnh yếu tố ý chí. Về
mặt tinh thần, loại đá này được cho là trấn giữ các mối quan hệ của nhà chiêm
tinh thứ 3 và 10: anh em, bà con (nhà Fratres); chức vụ, nhiệm (nhà Regnum).
Dành hỗ trợ cho những người có mối quan hệ đã nêu không được suông sẻ để cải
thiện tình hình. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố hỏa tinh bảo trợ về
toán và suy luận nói chung (Dante Alighieri). Dành cho những người làm trong
lĩnh vực liên quan đến tính toán như các ngành toán, vật lý, kỹ sư, cơ giới, thủ
quỹ, thủ kho, buôn bán, kế toán...Thuyết Bát
Quái Kinh Dịch dựa vào hình thái tinh hệ của tinh thể gồm tám loại, được phân định
thành tám quái thuộc nội quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập
Phương (cubic - isometric) ứng Càn , Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam
Phương (rhombohedral) ứng Ly, Lục Phương (hexagonal - trigonal) ứng Đoài,
Tam Tà (triclinic) ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic)
ứng Tốn, Phi Tinh (noncrystallinic) ứng Khôn. Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn)
tương ứng khác: Lập Phương ứng Càn, Tam Tà ứng Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn
Tà ứng Cấn, Tam Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn
Khảm. Ở đây chỉ trình bày thuyết của Thông Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh
thể gồm tám màu, ứng với tám quái thuộc ngoại quái trong kinh dịch. Có ba thuyết
chính, đều nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ nhất được trình bày trong I-ching:
Binary Numbers, Astrology, And Chakras, dựa trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn
ứng trắng, Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn
ứng đỏ, Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên
ngũ hành ứng bát quái cho rằng: Càn ứng dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng
lục, Tốn ứng cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam
Apolo đề xuất dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm
ứng lam, Cấn ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình
bày dựa trên thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại quái tương ứng với hình dạng
và màu sắc của tinh thể, từ đó tính ra được quái trong 64 quái kinh dịch. Mỗi
quái kinh dịch lại ứng một bộ phận cơ thể theo y lý trong kinh dịch, phân thành
64 phần cơ thể. Đá CANXIT có màu trắng dđục tương ứng quẻ ngoại quái Càn, có tinh hệ Lục Phương
tương ứng quẻ nội quái Đoài, ghép lại chính là quẻ quái số 10: quẻ Thiên
Trạch Lý. Quái số 10 ứng với vị trí sọ
trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên quan đến
đỉnh đầu như là do một số bệnh nội khoa
gây nên như viêm xoang mũi, đau đầu căng cơ, dị dạng động mạch não, thiếu máu
não.. Quẻ Thiên Trạch Lý có nghĩa là Lý tức là lễ, lễ là cái mà người ta
xéo lên. Nó là quẻ trời trên chầm dưới, trời mà ở trên, chầm mà ở dưới, đó là
phận trên dưới, là nghĩa tôn ty, lẽ phải như thế. Lễ là gốc của đạo làm người
và là con đường người ta thường thường xéo lên, cho nên mới là quẻ Lý. Về tượng
quẻ: Trên là dương cương, là Càn, là trời: dưới là âm nhu, là Đoài, là
chằm, vậy là trên dưới phân minh lại hợp lẽ âm dương tức là lễ, là
lý. Có tính âm nhu, vui vẻ đi theo sau dương cương thì dù người đi
trước mình dữ như cọp, cũng tỏ ra hiền từ với mình, cho nên bảo
rằng dẫm lên đuôi cọp mà cọp không cắn. Ba chữ “lý hổ vĩ” chính
nghĩa là dẫm lên đuôi cọp, chỉ nên hiểu là đi theo sau cọp, lấy sự
nhu thuận, vui vẻ mà ứng phó với sự cương cường. Quẻ Lý là mềm xéo theo
cứng. Đẹp lòng mà ứng với trời, thế cho nên xéo đuôi cọp, không cần người,
hanh. Dương cương trung chính, xéo ngôi vua mà không mỏi mệt, sáng láng vậy, người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy. Nơi tìm thấy đá: CANXITcó thể được tìm thấy ở
nanisivik, Thường Đức (Trung Quốc), Dalnegorsk,...
Lời cảm ơn:
bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến sĩ
Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu tập
Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng
Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments