Lepidolite (Màu Hồng)
锂云母 – Lý Vân Mãu
Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị Liệu, Thạch Học Trị Liệu dịch từ
chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ. Lithotherapy phân thành Litho đến
từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá, therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ]
tức là chữa trị, lithotherapy tức là chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với
đá ở ngoài da. Lithotherapy là một môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận
huyền học và thần bí học. Mặc dù có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả
năng của nó, đã được ứng dụng từ lâu trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại,
nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức màn bí mật của những điều thần kỳ giống như nền
Đông Y của người Trung Quốc hay Nam Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc
biệt trình bày về những lý luận căn bản trong Thạch Lý Học đối với Lepidolite,
nằm trong chuỗi khảo cứu, viết riêng cho tuần báo UNESCO.
Giới thiệu về đá Lepidolite
Giới thiệu về các thuyết: Giá trị thạch lý học của Lepidolite được trình
bày thành các thuyết cơ bản: thuyết Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học
(Chromotherapy), thuyết Linh Khí (Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng
Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of
Octaves), thuyết Thái Lặc Mã (Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết
Hoa Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié).
Thuyết Bản Mệnh Phương Đông người ta căn cứ vào địa chi của tháng
sinh, theo như sau: tháng 4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, cùng phối hợp với ngũ hành của
tháng để chia màu sắc đá, như sau: Tị Ngọ thuộc Hỏa (ứng dùng đá có tông màu
cam đỏ hồng). Và theo đó, Thuyết Bản Mệnh phương đông xếp loại đá này vào năm Kỷ
Tị, thuộc Thổ Cục, về Âm Phần. Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Kỷ Tị sử dụng.
Về tháng bản mệnh, đá này màu hồng, thuộc về hành Hỏa, ứng về tháng Tị và Ngọ,
tức tháng 4 và 5.
Thuyết Bản Mệnh Phương
Tây được định nghĩa
theo tháng như sau: tháng bảy màu đỏ tươi. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định
nghĩa theo hoàng đạo như sau: Ma Kết màu đỏ tươi. Đá này màu hồng được xếp vào
loại đá bản mệnh của tháng bảy, mùa thu và xếp vào đá bản mệnh của cung Ma Kết,
thuộc hệ Đất. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 22 tháng 12 đến 19 tháng 1 hằng
năm, hoặc vào tháng 1 thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này.
Theo Thuyết Quang Lý Học thì đá Lepidolite có màu hồng. Ý nghĩa của màu sắc
này được biểu hiện ở các nên văn hóa khác nhau. Màu hồng đã được mô
tả trong văn học từ thời cổ đại. Khoảng 800BCE, Trong Odyssey, đã được ghi chép
lại "Then, when the child of morning, rosy-fingered dawn
appeared...". Một số nhà thơ La Mã cũng được sơn màu này. Roseus là từ
Latin có nghĩa là "hồng" hoặc "màu hồng".Màu hồng không
phải là màu phổ biến thời Trung Cổ; quý tộc thường ưa màu đỏ tươi hơn, như màu
đỏ thẫm. Tuy nhiên, nó đã xuất hiện trong thời trang của phụ nữ, và trong nghệ
thuật tôn giáo. Vào thế kỷ 13 và 14, trong các tác phẩm của Cimabue và Duccio,
đứa trẻ của Đấng Christ đôi khi được miêu tả mặc màu hồng, màu sắc liên kết với
thân thể của Chúa Kitô.Trong bức họa thời Phục hưng cao quý Madonna của Pinks
của Raphael, đứa trẻ của Chúa Kitô đang tặng hoa hồng cho Đức Trinh Nữ Maria.
Màu hồng là một biểu tượng của hôn nhân, thể hiện cuộc hôn nhân giữa mẹ và con.
Theo các cuộc khảo sát ý kiến ở châu Âu và Hoa Kỳ, màu hồng là màu sắc gắn
liền với sự quyến rũ, lịch sự, nhạy cảm, dịu dàng, ngọt ngào, dịu dàng, trẻ
con, nữ tính và lãng mạn. Ở Nhật Bản, màu hồng là màu phổ biến nhất liên quan
đến mùa xuân do nở hoa anh đào. Điều này khác với các cuộc điều tra ở Hoa Kỳ và
Châu Âu, nơi màu xanh lá cây là màu sắc liên quan nhất với mùa xuân.Đối với
tình yêu, màu hồng thể hiện sự lãng mạn. Nó gần như là một màu danh riêng cho
con gái, cho những gì nhẹ nhàng nhất. Màu hồng luôn mang lại sự bồng bềnh,
huyền ảo, đẹp và không có thật. Những người thích màu hồng là những người sống
đầy lãng mạn. Họ coi cuộc sống như một cuốn tiểu thuyết, một bộ phim. Họ là
những người mỏng manh, yếu đuối, dễ vấp ngã nhưng cũng dễ đứng lên. Bởi họ luôn
nhìn đời bằng một màu hồng mộng mơ, luôn có niềm tin vào cuộc sống.
Thuyết Thelema cho rằng đá Lepidolite thuộc Sepherot Tiferet
("Adornment", Hebrew: תפארת [tifʔeʁeθ]) thay thế Tifaret, Tifereth,
Tyfereth hoặc Tiphereth, là sefira thứ sáu trong Cây Sự Sống. Nó có sự kết hợp
chung của "tâm linh", "cân bằng", "hòa nhập",
"sắc đẹp", "phép lạ", và "từ bi". Trong Bahir, có
nói: "Thứ sáu là ngày tuyệt đẹp, vinh quang, ngôi nhà của thế giới phải
đến. Vị trí của nó được khắc bằng trí tuệ như đã nói" Thiên Chúa nói: Hãy
chiếu sáng, và được chiếu sáng". Tiferet là Sefirah nguồn lực tích hợp của
Chesed ("từ bi") và Gevurah ("sức mạnh, hoặc là phán quyết
(din)"). Hai lực này đối nhau, một là mở rộng (cho đi) và hai là thu hẹp
(tiếp nhận). Cả hai nguồn trong số chúng nếu không có nguồn kia thì không thể
biểu lộ được luồng năng lượng của Thiên Chúa; họ phải được cân bằng trong tỷ lệ
hoàn hảo bằng cách cân bằng lòng trắc ẩn với kỷ luật. Sự cân bằng này có thể
được nhìn thấy trong vai trò của Tiferet, trong đó các nguồn lực xung đột được
hài hòa, và sáng tạo ra hoa cùng những thứ khác. Tiferet cũng cân bằng Netzach
và Hod một cách tương tự. Trong trường hợp đó Hod có thể được xem như là trí
tuệ mà Netzach được coi là cảm xúc. Trong một số ngữ cảnh, Tiferet đại diện cho
tất cả các sefirot của Zer Anpin, để toàn bộ cây xuất hiện với chỉ có năm
sefirot: Keter, Chochmah, Binah, Tiferet và Malkhut.Trong cây chuẩn mực,
Tiferet có tám đường dẫn, dẫn (ngược chiều kim đồng hồ) tới Keter (thông qua
Daat), Binah, Gevurah, Hod, Yesod, Netsach, Chesed và Chokmah. Tiferet cũng có
thể là một biến thể của từ "Tifarah" và trong tiếng Do Thái hiện đại
được sử dụng ở Israel được dịch là "Vinh Quang" (từ Thiên Chúa –
“Elohim, Adonay”).
Thuyết Chakra cho rằng loại
đá này thuộc Chakra Vishuddha (tiếng Phạn: विशुद्ध, IAST: Viśuddha, tiếng Anh: "sự
thuần khiết đặc biệt"), hoặc Vishuddhi, hoặc chakra cổ họng là chakra
chính thứ năm theo truyền thống Mật Tông Hindu. Nội tiết tố: Thyroid (tuyến
giáp).Vishuddha được đặt ở khu vực họng, gần xương sống, với Kshetram (vị
trí thiêng liêng) hay điểm kích hoạt bề mặt trong hố cổ họng. Do vị trí của
nó, nó được gọi là Chakra cổ họng. Trong Bindu, hoặc điểm trên thần chú, nằm ở
vị thần Sadashiva, người có 5 khuôn mặt, đại diện cho quang phổ khứu giác, vị
giác, thị giác, xúc giác, và thính giác và 10 cánh tay. Nửa bên phải của ông ta
là một Shiva trắng, và nửa bên trái của cơ thể là một Shakti vàng. Ông ta đang
cầm một cây đinh ba, đục, thanh kiếm, vajra (búa thiên lôi), lửa, một con rắn lớn,
một cái chuông, một mũi nhọn và cuộn dây tơ hồng, và đang làm cử chỉ tiêu tan nỗi
sợ hãi. Ông ta mặc đồ da hổ. Shakti của ông là Shakini, người đang tỏa ánh sáng
trắng, ngồi trên hoa sen đỏ, với năm khuôn mặt, ba mắt và bốn món vũ trang gồm
cung, mũi tên, dây tơ hồng và mũi nhọn. Chakra này nằm ở cổ và cổ họng. Do liên
quan kết với thính giác, nó liên quan đến tai, và do liên quan đến lời nói, nó
liên quan đến miệng. Vishuddha thường kết hợp với tuyến giáp trong hệ thống nội
tiết của con người. Tuyến này nằm ở cổ, và sản sinh ra kích thích tố cần thiết
cho sự phát triển và trưởng thành. Căng thẳng quá mức, tức là sợ hãi và sợ hãi
khi nói ra, được cho là ảnh hưởng đến chakra cổ họng, và các vấn đề về tuyến
giáp có thể xảy ra. Ca hát là một cách vô hại và có lợi để kích thích chakra cổ
họng, trong khi xoa bóp hoặc đánh vào vùng cổ họng thì không gây hại đến chakra
nhưng có thể gây hại đến cổ. Trong Kundalini yoga, trong bài tập tập trung vào
thở (pranayama), Vishuddha có thể được mở ra và cân bằng thông qua các hành động
bao gồm asanas là một từ tiếng Phạn, có nghĩa là tư thế yoga (như đứng bằng
vai) gồm: pranayama (kiểm soát hơi thở), Jalandhara Bandha (khóa cổ họng), dùng
trong Hatha yoga và Khecarī mudrā (đặt lưỡi trên vòm miệng và vào khoang mũi).
Chakra này có thể được làm sạch hoặc mở bằng thiền định hoặc giọng nói. Các nhà
huyền học phương Tây thực hiện nhiều sự kết hợp khác nhau Kabbalistic với
Vishuddha. Một số kết hợp nó với sephirah thần bí Da'at, nơi "sự khôn
ngoan" và "sự hiểu biết" được cân bằng trong thế giới siêu nhiên
theo khía cạnh "kiến thức", một ý tưởng hữu hình được thể hiện, dẫn đến
hành động của sự sáng tạo. Những người khác kết hợp nó với sephirah Chesed và
Geburah (độ lượng và sức mạnh) liên quan chặt chẽ với đạo đức và khái niệm rằng
cả hai sẽ mở rộng, như khi thể hiện bởi Chesed, là sự hạn chế, và như khi thể
hiện bởi Geburah, là cần thiết cho việc tạo ra các cá thể. Về mặt đạo đức, điều
này được thể hiện qua yama và niya (làm và không làm) của yoga. Trong Đạo giáo,
vị trí của chakra Lalana trên vòm miệng tương ứng với điểm được gọi là "Bể
Thiên Thượng".Trong chiêm tinh Hindu hoặc Jyotish, là hệ thống chiêm tinh
Hindu truyền thống, graha (hành tinh) cai trị chakra cổ họng là Phật hoặc Thủy
tinh (sao thủy). Bị ảnh huỏng bởi sao thủy, đốt cháy (liên kết với mặt trời)
hay liên kết với sao thổ, trong biểu đồ sinh có thể thấy những vấn đề liên quan
đến chakra cổ họng, cụ thể là giao tiếp và tuyến giáp, đặt biệt là trong thời kỳ
dasha hay antardasha (chu kỳ hay chu kỳ phụ vô định của Thủy tinh).
Đá Lepidolite có màu hồng, Theo Thuyết Phật Giáo Mật Tông là bổn
sắc của A Di Đà Như Lai (Amitabha) . Ngài là sự chuyển hóa của sự hỗn độn thành
sự phân minh. Màu đỏ đại diện cho vô úy tướng ứng với miệng. Đeo Lepidolite sẽ
được A Di Đà Như Lai Phật hộ trì, hỗ trợ về miệng và sự phân minh. Vì đây
cũng là màu của cõi atula, đá Lepidolite được coi là bùa hộ về vị dục, giúp
thoát khỏi các nguy hiểm về vị dục thông qua vị phật phân minh. Tử thư nhắc đến
màu đỏ như biểu hiện cho sự phân minh, trí huệ, đồng thời sự tỵ nạnh ganh ghét.
Tử Thư Tây Tạng viết rằng: Vào ngày thứ tư, một ánh sáng đỏ – đó là yếu tố tinh
khiết của lửa, sẽ chiếu sáng và đồng thời đức Phật A Di Đà từ cõi phương Tây màu
đỏ, Cõi Cực Lạc (The Blissful) sẽ xuất hiện trước mặt con. Thân ngài màu đỏ,
ngài cầm hoa sen trong tay, ngài ngự trên ngai con chim công, ngài đang ôm
người phối ngẫu là Phật Mẫu Pandaravasini. Ánh sáng đỏ của tưởng uẩn trong tánh
thanh tịnh căn bản của nó là Diệu Quan Sát Trí (wisdom of discrimination), màu
đỏ rực rỡ, được trang hoàng bởi những dĩa ánh sáng quang minh, rõ rệt, sắc bén,
óng ánh từ tim của đức Phật A Di Đà. Vào ngày thứ tư, có các tia sáng của hỏa
đại màu đỏ xuất phát từ phương tây. Chính giữa luồng ánh sáng đó có đức Phật A
Di Đà, đứng trên tòa sen đang rộng hai tay tiếp dẫn. Luồng ánh sáng này chiếu
soi khắp mười phương thế giới không chỗ nào không soi đến. Gần đó có một lớp
ánh sáng màu nâu đục, tượng trưng cho cảnh giới của ngạ quỷ cũng đồng thời xuất
hiện.
Theo Thuyết Reki (Linh Khí) Đá Lepidolite trong hành Hỏa và thuộc vào Kinh Túc Thiếu Âm Tâm, Kinh Thủ Quyết Âm Tâm Bào. Kinh Túc Thiếu Âm Tâm liên quan đến bệnh vai,
mặt trong chi trên đau, gan tay nóng hoặc lạnh, mồm khô, khát muốn uống nước,
đau mắt, đau vùng tim, nấc khan, sườn ngực đau tức, chứng thực thì phát cuồng,
chứng hư thì bi ai, khiếp sợ, ở tim, ngực, tâm thần. Ví dụ như huyệt Cực Tuyền có
tác dụng liên quan đến đau ngực sườn, đau tim, tay lạnh đau, cánh tay không giơ
được, lao hạch; huyệt Thanh Linh có tác dụng liên
quan đến đau vai và cánh tay, đau sườn ngực, mắt
vàng; huyệt
Thiếu Hải (Huyệt Hợp thuộc Thủy) có tác dụng liên quan đến Khuỷu
tay co rút, tay tê dại, bàn tay run, đau vùng tim, đầu váng, mắt hoa, hay quên,
cuồng, tràng nhạc; huyệt Linh Đạo (Huyệt Kinh thuộc Kim) có tác dụng liên
quan đến đau cẳng tay, đau và co khuỷu tay, đau vùng tim, kinh sợ, mất tiếng đột
ngột. Kinh Thủ Quyết
Âm Tâm Bào liên quan đến các chứng mặt đỏ, nách sưng, cánh tay, khuỷu
tay co quắp, gan tay nóng, đau vùng tim, bồn chồn, tức ngực sườn, tim đập thình
thịch, cuồng, nói lảm nhảm, hôn mê, ở ngực, tim, dạ dày, bệnh tâm thần, sốt. Ví dụ như huyệt Giản Sử
(Huyệt Kinh thuộc Kim) có tác dụng liên quan đến Đau cánh tay, nóng gan bàn
tay, bệnh nhiệt có tâm phiền, tim đập hồi hộp, đau vùng tim, Trúng phong đờm
rãi nhiều, nôn, khan tiếng, điên cuồng, sốt rét; huyệt Nội
Quan có tác dụng liên quan đến đau cẳng tay, đau vùng tim, đau
sườn ngực, tâm phiền, hồi hộp, nôn, đầy chướng bụng, tiêu hóa kém, điên cuồng; huyệt Đại Lăng
(Huyệt Nguyên, huyệt Du thuộc Thổ) có tác dụng liên quan đến đau cổ tay, lòng
bàn tay nóng, khuỷu tay co, đau vùng tim, đau sườn ngực, tâm phiền, nôn, đầy
chướng bụng, tiêu hóa kém, điên cuồng, cười mãi không hết, dễ sợ hãi, bệnh nhiệt;
huyệt Lao
Cung (Huyệt Huỳnh thuộc Hỏa) có tác dụng liên quan đến run bàn
tay, ra mồ hôi lòng bàn tay, đau vùng tim, tâm phiền, khát, tim đập hồi hộp, cười
mãi không thôi, lóet miệng, nôn, sốt về đêm; huyệt Trung Xung (Huyệt Tỉnh
thuộc Mộc) có tác dụng liên quan đến lòng bàn tay nóng, cứng lưỡi, đau vùng
tim, tâm phiền, trúng phong bất tỉnh,hôn mê, sốt không ra mồ hôi.
Theo
Thuyết Tứ Trụ, đá Lepidolite thuộc mệnh Hỏa rất hạp với mệnh Mộc
sinh vào ngày xuân,được nguyệt lệnh mà phần lớn là thân mạnh,vì vừa qua mùa
đông lạnh,có chút lạnh lẽo,mượn Hỏa sưởi ấm cơ thể tự do phát triển vươn xa,có
Thủy nuôi dưỡng sẽ sinh trưởng nhanh.Tóm lại,Mộc mùa xuân tốt nhất nên có
Thủy,Hỏa đến điều hòa mới phát triển tốt. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất
hạp với mệnh Mộc sinh mùa thu,thông thường không được sự trợ giúp của nguyệt
lệnh,Kim nặng quay quanh,phần lớn thuộc thân yếu. Nếu là Mộc mùa suy yếu,ưa
được Hỏa tiết,Thổ dưỡng,Kim khắc không ưa Thủy đến tương trợ. Đá ngọc thuộc
mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Hỏa sinh mùa thu. Hỏa mùa thu phần lớn là thân
yếu, cần có Mộc sinh mới có thể thịnh vượng, chuyển nguy thành yên bình đồng
thời đạt được tài lợi, sẽ không bị khốn đốn. Nếu gặp Hỏa đến phù trì, có thể
phát huy tài cáng, dựa vào nổ lực của bản thân có thể được thù lao xứng đáng.
Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Hỏa sinh mùa đông. Hỏa mùa đông
phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh, nếu không Thủy vượng sẽ tiêu diệt Hỏa,
mãi mãi khó có thể đứng dậy. Hỏa mùa đông thân yếu có Hỏa đến giúp thì Tỷ Kiếp
khác Tài tinh, có thể nhìn thấy tiền tài phát triển thịnh vượng, nhưng duyên
với vợ bạc, quan hệ không thân mật, hoặc vợ có tình trạng sức khỏe không tốt. Đá
ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa đông. Kim của mùa đông
có tính chất hàn lạnh, nếu Mộc nhiều cũng không thể điêu khắc mà tái hiện công
hiệu của Kim. Nếu Thủy quá nhiều, Kim sẽ bị chìm vào ưu phiền. Thổ có thể khắc
Thủy, làm cho Kim không chịu ảnh hưởng của hàn lạnh, mà Hỏa có thể sinh trợ
Thổ, Thổ có thể sinh trợ Kim, Thổ Kim là mẹ con tương sinh, có thể thành công.
Kim cũng ưa Tỷ kiên nhưng cần có Hỏa xuất hiện mới có thể ôn dưỡng Quan ấn.
Thuyết
Ngũ Hành Can Chi cho rằng Lepidolite thuộc về Hỏa (Hồng) phối Thổ
(Vuông và Cân), tức Hỏa Cục. Do đó, Lepidolite giúp khắc chế các bản mệnh
Mộc-Thổ như Giáp Thìn, Giáp Tuất, Ất Mùi, Ất Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, vì vậy,
những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Lepidolite cũng phù trợ cho
các bản mệnh thuộc Thổ (Hỏa sinh Thổ), gồm có mệnh thuộc Hỏa-Thổ và thuần Thổ:
Mậu Ngọ, Kỷ Tỵ, Bính Thìn, Bính Tuất, Đinh Mùi, Đinh Sửu, Mậu Thìn, Mậu Tuất,
Kỷ Mùi, Kỷ Sửu, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại ngọc này.
Thuyết Ngũ Hành Khí Tiết nói, người có mệnh cục Thổ (sinh vào ngày Mậu-Kỷ,
Thìn-Mùi-Tuất-Sửu) gặp vào những ngày thuộc hành Mộc (như ngày Giáp-Ất, Dần-Mão)
thì , bởi Thổ khắc Mộc, mật và dạ dày dễ tổn thương, biểu hiện lên cơ thể là bị
nấc cục, đau dạ dày, tiêu chảy, hoàng thũng, khó nuốt, chán ăn, buồn nôn. Bên
ngoài sẽ biểu hiện ra da khô, tay phải mỏi. Trẻ nhỏ bị suy dinh dưỡng, vàng lá
lách. Đặc tính của Thổ là ẩm ướt, dễ bị chìm, sắc mặt vàng vọt. Sách mệnh lý
nói: Thổ tại Mộc vượng, lá lách tổn thương. Muốn khắc chế, phải lấy Hỏa giải độc,
Lepidolite thuộc Hỏa, có tác dụng tốt với thể trạng người Thổ cục (Hỏa sinh Thổ),
đề phòng cho những ngày Mộc thịnh (Giáp-Ất, Dần-Mão) hay tháng hành Mộc như
tháng giêng và tháng hai. Người đeo đá Lepidolite, có thể dùng Hỏa khắc chế được
Mộc hại.
Dựa Trên Thuyết Orthotherabi và công thức
cấu tạo của đá Lepidolite (K(Li,Al)3(Al,Si,Rb)4O10(F,OH)2) gồm: Nguyên tố Potassium (K) có nguyên tử khối là 19, tỉ trọng
cơ thể là 0.25 và có khối lượng trung bình 0.14kg đạt tỷ lệ 0.033%. Tác động vừa
tích cực do Kali là thành phần chủ chốt trong các dây thần kinh nơ ron, và các
búi co cơ trong cơ thể. Tác dụng lên các bệnh về cơ khớp, và các bệnh về thần
kinh hoặc tâm lý. Nguyên tố Silicon (Si) có số nguyên tử là 14, chiếm tỉ trọng
trong cơ thể là 20x10-4 và có khối lượng trung bình 0.001kg đạt
tỷ lệ nguyên tố là 0.0058%. Nguyên tố Aluminum (Al) số hiệu nguyên tử là 13, tỉ
trọng của nguyên tố Nhôm trong cơ thể chúng ta là 870×10-7 đạt khối
lượng trung bình 0.00006kg chiếm tỷ lệ so với các nguyên tố khác là 0.000015%. Nguyên
tố Flourine (F) số hiệu nguyên tử là 9, đạt tỉ trọng trong cơ thể người
là 0.034 và có khối lượng trung bình đạt 0.0026kg chiếm tỷ lệ là 0.0012%
so với các nguyên tố khác. Tác động tích cực cho sức khỏe do có liên hệ với sự
phát triển của răng. Tác dụng lên các chứng bệnh về răng như đau răng, sưng nướu,
các bệnh răng vàng, hôi miệng ...
Dựa trên công thức hóa học của đá Lepidolite, Theo Thuyết Hài Hòa Bộ Tám loại đá này mang mang yếu tố Primius với
nguyên tố chủ đạo là nguyên tố Đất, vì vậy tác động lên hệ cơ bắp, búi cơ tay
chân, cơ hoành, da răng và các lông tóc bên ngoài. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu
cho các bệnh liên quan đến các yếu tố tóc, lông và cơ như chứng rụng tóc, đau
răng, bị da liễu, hoặc các chứng liên quan đến cơ như chuột rút, teo cơ, phù thủng...
Ngoài ra còn tăng cường vật chất và sở hữu, đặc biệt là sự đột phá, cấp tiến,
cách mạng, cải biên xã hội, đẩy mạnh tự do, bất cần, vô chính phủ... nhấn mạnh
đến yếu tố sở hữu. Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là không trấn giữ
cung nào theo Chiêm Tinh Cổ, nhưng trấn giữ vị trí con rồng (Dragons), ở hai vị
trí đầu rồng và đuôi rồng, Chiêm tinh gọi là Caput Draconis và Cauda Draconis,
tiếng Việt hay dịch là La Hầu và Kế Đô. Không có quan niệm chính thức cho hai vị
trí này. Thông thường, người ta coi nó là đại diện cho tính tốt và xấu trong mỗi
con người. Vì vậy, nó thúc đẩy các mối quan hệ về con người và bản chất con người.
Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố này bảo trợ về không gian và thời
gian nói chung. Dành cho những người làm trong lĩnh vực liên quan đến các không
gian và thời gian như người làm đồng hồ, những người rung chuông, gác cổng, những
người canh giờ tàu hỏa,... hoặc những người cảnh báo tư tưởng (gọi là những người
tiền vệ - avantgarde).
Thuyết Bát Quái Kinh Dịch dựa vào hình thái tinh hệ của
tinh thể gồm tám loại, được phân định thành tám quái thuộc nội quái trong kinh
dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập Phương (cubic - isometric) ứng Càn , Tứ
Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam Phương (rhombohedral) ứng Ly, Lục
Phương (hexagonal - trigonal) ứng Đoài, Tam Tà (triclinic) ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic)
ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic) ứng Tốn, Phi Tinh (noncrystallinic) ứng Khôn.
Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng khác: Lập Phương ứng Càn, Tam Tà ứng
Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn, Tam Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng
Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở đây chỉ trình bày thuyết của Thông
Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm tám màu, ứng với tám quái thuộc ngoại
quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính, đều nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ
nhất được trình bày trong I-ching: Binary Numbers, Astrology, And Chakras, dựa
trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng, Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng
lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ, Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do
D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành ứng bát quái cho rằng: Càn ứng dương,
Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn ứng cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn
ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề xuất dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng,
Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam, Cấn ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng,
Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại
quái tương ứng với hình dạng và màu sắc của tinh thể, từ đó tính ra được quái
trong 64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại ứng một bộ phận cơ thể theo y
lý trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể. Đá Lepidolite có màu hồng tương ứng
quẻ ngoại quái Ly, có tinh hệ Đơn Tà tương ứng quẻ nội quái Khảm, ghép lại
chính là quẻ quái số 64: quẻ Hỏa Thủy Vị Tế. Quái số 64 ứng với vị trí lỗ
mũi trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên quan
đến hệ hô hấp như viêm phế quảng, viêm phổi, lao, hen xuyễn,
ho, viêm phổi cộng đồng, viêm tai,…. Quẻ Hỏa Thủy Vị Tế có nghĩa là Quẻ này Ly là quái thượng, cũng là ngoại quái, Khảm là
quái hạ, cũng là nội quái. Ly tượng Hoả, là lửa, Khảm tượng Thuỷ, là nước, nên
gọi là Hoả Thuỷ Vị Tế. Sau quẻ Ký Tế, đến quẻ Vị Tế. Bây giờ giải thích vị Ký
Tế và Vị Tế. Khi vào thế Tiểu Quá, hễ có tài đức quá hơn người, việc dù quá nhỏ
quá lớn mặc dầu, nhưng đã quá nhân bằng việc gì, tất làm nên việc ấy. Nên quẻ
tiếp theo là Ký Tế, Tế nghĩa là làm nên, cũng nghĩa vượt được qua. Như nói: tế
sự, tế vật là thuộc nghĩa Tế là nên, còn nói: tế xuyên, tế hiểm... nghĩa là nói
việc đã qua. Ký là việc hiện thành rồi, ở trước khi Ký Tế đã từng trải qua hai
thời kỳ: Một thời kỳ còn lộn xộn, rối ren, việc gì không ra việc gì, ấy gọi là
Vị Tế, người đeo đá này sẽ
được các lợi ích như vậy.
Nơi tìm thấy đá: Lepidolite có thể được tìm thấy ở Oromia Region
(Ethiopia), Perak (Malaysia), French Guiana (France),...
Lời cảm ơn:
bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến sĩ
Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu tập
Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng
Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments