Brucite
(水镁石) Thủy Mỹ Thạch
Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị Liệu,
Thạch Học Trị Liệu dịch từ chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ.
Lithotherapy phân thành Litho đến từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá,
therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ] tức là chữa trị, lithotherapy tức là
chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với đá ở ngoài da. Lithotherapy là một
môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận huyền học và thần bí học. Mặc dù
có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả năng của nó, đã được ứng dụng từ lâu
trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại, nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức màn
bí mật của những điều thần kỳ giống như nền Đông Y của người Trung Quốc hay Nam
Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc biệt trình bày về những lý luận
căn bản trong Thạch Lý Học đối với Brucite, nằm trong chuỗi khảo cứu, viết riêng cho tuần báo UNESCO.
Giới thiệu về đá Brucite được đặt tên vào năm 1824 bởi François Sulpice Beudant để vinh danh
Archibald Bruce (tháng 2 năm 1777, New York, Hoa Kỳ - ngày 22 tháng 2 năm 1818,
New York, Hoa Kỳ), bác sĩ, nhà khai thác khoáng sản người Mỹ đầu tiên, và biên
tập viên của Tạp chí khoáng sản Mỹ , người đầu tiên mô tả các loại khoáng vật.
Giới thiệu về các thuyết: Giá trị thạch lý học
của Brucite được trình bày thành
các thuyết cơ bản: thuyết Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học
(Chromotherapy), thuyết Linh Khí (Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng
Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of
Octaves), thuyết Thái Lặc Mã (Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết
Hoa Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié).
Thuyết bản mệnh Phương Đông người ta căn cứ vào địa chi của
tháng sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần, tháng 2 là Mão, tháng 3 là Thìn,
tháng 4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi, tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu,
tháng 9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu, cùng phối hợp
với ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng dùng
đá có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ thuộc Hỏa (ứng dùng đá có tông màu cam
đỏ hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có tông màu trắng, xám, ánh bạc), Tý
Hợi thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu đen, chàm, tím), Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc
Thổ (ứng dùng đá có tông màu vàng, trong, ánh kim). Và theo đó, Thuyết Bản Mệnh
phương đông xếp loại đá này vào năm Đinh Hợi, thuộc Hỏa Cục, về Âm Phần. Thích
hợp cho người nữ/nam, sinh năm Đinh Hợi sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu
trắng trong, thuộc về hành Thổ, ứng về tháng Thìn, Tuất, Sửu và Mùi, tức tháng
3, 6, 9, 12.
Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo tháng
như sau: tháng một màu đỏ cam, tháng hai màu tím tươi, tháng ba màu xanh lam,
tháng tư màu trắng trong, tháng năm màu lục đen, tháng sáu màu trắng đục, tháng
bảy màu đỏ tươi, tháng tám màu xanh chuối, tháng chín màu xanh lá, tháng mười
màu đen, tháng mười một màu vàng, tháng mười hai màu chàm. Thuyết Bản Mệnh
phương tây được định nghĩa theo hoàng đạo như sau: Bạch Dương màu xanh đen, Kim
Ngưu màu xanh dương đậm, Song Tử màu trắng trong, Cự Giải màu xanh lá mạ, Sư Tử
màu đen, Xử Nữ màu cam, Thiên Bình màu lục nhạt, Thiên Yết màu lam, Nhân Mã màu
vàng, Ma Kết màu đỏ tươi, Bảo Bình màu đỏ sậm, Song Ngư màu tím. Đá này màu trắng
trong được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng tư, mùa hè và xếp vào đá bản mệnh
của cung Song Tử, thuộc hệ Khí. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 21 tháng 5 đến
21 tháng 6 hằng năm, hoặc vào tháng 6 thì được xem là có lợi khi đeo loại đá
này.
Theo thuyết Quang Lý học thì đá Brucite có trắng. Ý nghĩa của màu sắc này
được biểu hiện ở các nên văn hóa khác nhau. Là một trong những màu
đầu tiên được sử dụng trong nghệ thuật. Hang động Lascaux ở Pháp bảo tồn những
bức tranh tường với hình ảnh những chú bò đực và các động vật khác được vẽ bởi
các nghệ sĩ thời kỳ đồ đá cách đây 18000 – 17000 năm. Họ đã sử dụng Calcite và
đá vôi. Đôi khi nó được dùng làm nền, đôi khi thì làm điểm nhấn. Cùng với than
củi, màu đỏ và màu vàng trong những bức tranh làm cho chúng sinh động hơn rất
nhiều. Ở Ai Cập cổ, màu trắng được kết nối với thần Isis. Các nữ tu và thầy tế của
đền thờ Isis chỉ được mặc đồ bằng vải lanh trắng, và nó cũng được sử dụng để
bọc xác ướp. Ở Hy Lạp và các thành phố khác thì màu trắng tượng trưng cho sữa
mẹ. Trong thần thoại Hy Lạp, thần Zues đã nược nuôi nấng bằng sữa của những nữ
thần sông Amalthea. Trong Talmud, sữa là một trong 4 chất thánh cùng với rượu
vang, mật ong và hoa hồng. Ở Roma, các nữ tu của nữ thần Vesta mặc áo choàng lanh trắng, áo phong hoặc
áo khăn choàng trắng. Họ bảo vệ cho ngọn lửa thiên và những vị giáo sĩ của
thành Rome. Màu trắng đại diện cho sự thanh khiết, trung thành và trinh tiết
của họ. Nhà thờ Cơ Đốc giáo La Mã đã chọn màu trắng là màu của sự tinh khiết,
sự hy sinh mà đức hạnh. Con kỳ lân trắng là một chủ đề phổ biến của bản thảo
lịch sử, các bức tranh và thảm trang trí. Đó là một biểu tượng của sự thanh
khiết, trinh khiết và ân sủng, chỉ có thể bị bắt bởi một trinh nữ. Nó thường
được miêu tả trong lòng của Đức Trinh Nữ Maria. Màu Trắng Trong đại diện cho sự điều hòa và cân bằng.
Loại đá này tăng cường sự trầm tĩnh, cân bằng trong tâm hồn. Nó được tin là có
tác dụng thanh lọc, thanh tẩy tinh thần. Loại đá này dành cho những người bị
trầm cảm, áp lực hoặc nhiều tâm sự. Nó cũng dành chủ yếu cho nhũng người làm
việc trí óc như nhân viên văn phòng, nhân viên kế toán hay các ngành nghề viết
lách như nhà văn hay báo chí.
Brucite được cho rằng thuộc Keter hay còn được gọi là
Kether, là một trong những nút Sephirot quan trọng nhất của Cây Sự Sống.
Nó được hiểu như “Vương Miện”; có bậc và
vị trí cao nhất các Sephirot. Nó nằm giữa Chokmah với Binah (với Chokmah bên
phải và Binah bên trái) và nằm bên trên Tiphereth. Từ nó có 3 đường dẫn đến 3
Sephirot khác là Chokmah, Tephereth và Binah. Keter rất tuyệt vời, nó được gọi
là Zohar – “Thứ bí ẩn nhất trong các thứ bí ẩn” và con người không thể nào hiểu
được nó. Nó thường được miêu tả là sự độ lượng vô biên. Rabbi Moshe Cordovero
miêu tả nó như là 13 thuộc tính siêu vượt của đạo đức. Theo Bahir: “Mười điều răng là gì? Điều đầu tiên là vương
miện tối cao, cái được ban phước trong tên Ngài và con dân Ngài”. Sephirah đầu
tiên được gọi là Crown – Vương miện, kể từ đó vương miện được đội trên đầu. Nó
đại diện cho Vương quyền, thứ mà vượt qua cả khả năng của sự thấu hiểu tâm trí.
Các Sephirot khác được ví như các bộ phận trên cơ thể, nó bắt đầu từ trên
đỉnh và đi xuống các nút khác thông qua đường dẫn là các hành động. Vương miện
của một vị vua nằm trên đỉnh đầu và kết nối với khái niệm “chế độ quân chủ”, nó
mang tính trừu tượng và vô hình, biểu thị cho sự hiện diện và quyền lực của nhà
vua. Sepharah đầu tiên này đại diện cho những
ý nghĩ hành động nguyên sơ trong nhận thức của Ein Soph hoặc là sự kích thích
của mong muốn đi khám phá thế giới muôn dạng. Nhưng theo nghĩa này, mặc
dù nó bao hàm tất cả các nội hàm về niềm vui
nhưng nó lại không tự mang niềm vui, nó được gọi là “Nothing – Không gì
cả”, “The Hidden Light – Ánh sáng bí ẩn”, “The air that cannot be grasped –
Không khí không thê nắm bắt”. Mong muốn mang vào thế giới hoàn hảo, Keter là sự
độ lượng vô biên. Tên của vị thần gắng kết với Keter là Ehyeh Asher Ehyeh, cái
tên mà thông qua đó Ngài tiết lộ bản thân mình với Moses trong bụi cỏ cháy. Cái
tên Ehyeh này là nguồn gốc của các loại đồ ăn, những thứ vô hạn. Thông qua thảo luận trong một dòng của Michah, 13 thuộc
tính liên kết với Keter Sephirah: “Ai là đức
Chúa trời như Ngài, là Đấng tha thứ tội lỗi, cứu rỗi cho loài người? Ngài không
giữ sự giận dữ của Người mãi mãi, Ngài mang đến sự vui vẻ, lòng thương xót cho
chúng ta. Ngài sẽ mang tội lỗi của chúng ta đổ xuống đáy biển. Hãy tỏ lòng
thành kính với Ya’akov, lòng tử tế với Avraham, điều mà Đấng đã thệ ước với tổ
phụ chúng ta từ những ngày xa xưa”. Trong Mystical Qabalah Dion Fortune mô tả
Keter như một ý thức thuần túy, vượt khỏi mọi sự phân loại, vượt thời gian, một
điểm nằm ngoài Ein Soph, và bắt đầu cho quá trình kết thúc ở Malkuth. Tên của Thiên Chúa được ban cho là Eheieh, thiên thần bảo
trợ nó là Metatron, thiên thần của trật tự, trong đó là các sinh vật
Thánh cư ngụ (Chaioth ha Qadesh, Hebrew: חיות הקדש) và chakra của nó được nói
là Swirlings đầu tiên của vũ trụ (Primum Mobile, Rashith ha Gilgalin). AE Waite
đề cập đến Rabbi Azariel ben Menachem, một học sinh của Isaac the Blind, trong
cuốn Commentary của ông nói về Sephiroth đã cho đặt màu sắc đặc biệt cho mỗi
Sephira, nhưng nó không đồng quan điểm với màu sắc được đưa ra trong Zohar, nơi
mà Kether (mà theo với anh ta, cũng tương quan với Yechidah) được cho là không
có màu, Tiphareth màu tím, và Malkuth xanh sapphire. Keter cũng được xác định
với các hành tinh Neptune hoặc Pluto, Atma trong Theosophy và Raja Yoga, và
Khabs am Pek trong Ai cập thần bí.
Thuyết Chakra cho rằng loại đá
này thuộc Chakra Sahara ( tiếng Phạn : सहस्रार , IAST : Sahasrāra , tiếng Anh:
"nghìn cánh hoa") hoặc chakra
đỉnh đầu thường được coi là chakra nguyên thủy thứ bảy, theo hầu hết các tantric
(hệ thống) yoga truyền thống.
Sahasrara được mô tả như một hoa sen với 1.000 cánh hoa màu khác nhau. Những
cánh hoa này được bố trí trong 20 lớp, mỗi lớp với khoảng 50 cánh hoa. Phần
vỏ quả màu vàng và bên trong vùng mặt trăng tròn là tam giác màu sáng có thể hướng
lên hoặc hướng xuống. Thường được gọi là hoa sen nghìn cánh, nó được cho là
chakra tinh tinh tế nhất trong hệ thống, liên quan đến ý thức thuần túy, và từ
chakra này phát ra đến những chakra khác. Khi một yogi (chuyên gia về yoga) có
thể nâng kundalini (luồng xà hỏa) của mình lên năng lượng của ý thức, cho đến cảnh
giới đó được gọi là trạng thái của Nirvikalpa Samādhi (ý thức cá nhân hòa nhập
với vũ trụ) là trạng thái của sự lão luyện. Giai đoạn này được cho là mang lại
sự tái sanh hay siddhis (năng lực siêu nhiên) - quyền năng biến đổi thành
thần thánh, và có thể làm bất cứ điều gì muốn. Trong phối hợp một số các
chakra, trên thực tế có rất nhiều chakra tất cả chúng đều liên kết chặt chẽ với
nhau, ở tại đỉnh đầu. Xuất phát từ Ajna (chakra vùng trán), chúng ta có
Manas (tư lương thức) chakra trên trán nó liên kết chặt chẽ với Ajna. Trên
Manas có Bindu Visarga ở phía sau đầu; Mahanada; Nirvana
nằm ở đỉnh đầu. Guru, và Sahasrara riêng biệt nằm phía trên của đỉnh đầu. Bindu
Visarga nằm ở phía sau đầu, nơi mà nhiều người Bà la môn giữ một bó tóc ở đó. Nó
được tượng trưng bởi một mặt trăng lưỡi liềm trên một đêm trăng sáng, với một
chấm hoặc điểm nhỏ phía trên. Đó được gọi là bindu trắng, cái mà những người
yoga cố gắng hợp nhất với binbu đỏ ở bên dưới. Nó được gọi là điểm mà qua đó
linh hồn đi vào cơ thể, tạo ra các chakra khi nó hạ xuống và chấm dứt trong luồng
năng lượng hỏa xà kundalini hình xoắn ở chân cột sống.
Nó thường được mô tả như là nguồn gốc của dòng chảy thần thánh,
hoặc amrita (sự bất tử), mặc dù đôi khi nó được cho là đến từ chakra ajña hoặc
chakra lalita. Dòng chảy này đi xuống vùng bụng (samana) nơi nó bị đốt cháy. Việc
bảo vệ giữ gìn dòng chảy này được gọi là "urdhva retas" (nghĩa đen là
sự đi lên của tinh dịch). Giọt màu trắng có liên kết đến kết tinh của tinh dịch,
trong khi chấm màu đỏ có liên quan đến dịch tiết (kinh nguyệt) hàng tháng. Chakra này nằm trên đỉnh đầu. Nó có màu trắng
và có 100 cánh hoa màu trắng. Nó đánh dấu sự kết thúc của sushumna ở trung tâm
của eo. Nó chịu trách nhiệm cho các cấp độ khác nhau của sự tập trung: dharana,
dhyana và savikalpa samadhi. Chakra Guru nằm ở trên đầu, ngay dưới Sahasrara.
Nó màu trắng, với 12 cánh hoa màu trắng, ở trên đó có ghi chữ guru. Sahasrara
liên quan tới đỉnh của đầu. Nó thường liên kết với thóp và chổ cắt nhau của
xương trán và dãy liên kết ở giữa của hộp sọ. Các nguồn khác nhau cho rằng nó
liên kết nó với tuyến tùng, hypothalamus (vùng não điều khiển thân nhiệt)
hoặc tuyến yên, mặc dù chúng thường được đưa ra như là vị trí của Chakra Ajña. Vòng
hào quang rất quan trọng trong truyền thống Tantra Anuttarayoga của Kim Cương
Thừa. Nó có hình tam giác, với 32 cánh hoa hoặc các kênh hướng xuống dưới, và
trong đó chứa những giọt màu trắng hoặc bodhicitta (bồ đề tâm) trắng. Thông qua
thiền định, những người nghiên cứu yoga cố gắng liên kết giọt trắng này với bồ
đề tâm đỏ ở rốn, và để trải nghiệm sự kết hợp của thiếu thốn và hạnh phúc. Điều
rất quan trọng trong Tantric (hệ thống) thực hành của Phowa, hoặc chuyển đổi ý
thức. Vào lúc chết, một người học yoga có thể hướng tâm thức của mình lên trung
tâm và ra khỏi vòng xoay này để được
tái sinh trong Tịnh Độ, nơi mà anh ta có thể thực hiện các tantric (hệ thống)
hành động của mình, hoặc chuyển ý thức đó vào thân thể khác hoặc xác chết , để
kéo dài cuộc sống. Ở phương Tây, nó đã được nhiều người ghi nhận (như Charles
Ponce trong cuốn sách Kabbalah của ông) rằng Sahasrara thể hiện một ý tưởng
nguyên thủy tương tự như ý tưởng của Kether, trong Cây Sự Sống (Kabbalistic
Tree of Life), nằm ở đầu cây, và thể hiện ý thức thuần túy và hiệp nhất với Thần
linh. Trong hệ thống Sufi của Lataif-e-sitta có một Lataif gọi là Akhfa,
"bí ẩn tinh tế nhất ", cái nằm trên đỉnh đầu. Đó là điểm hiệp nhất
nơi thấy được phúc lành của Thánh A-La biểu lộ ra trực tiếp.
Đá Brucite có màu trắng, là bổn
sắc của Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairochana). Ngài là sự chuyển hóa của vô minh
thành trí huệ. Màu trắng đại diện cho thanh tịnh tướng ứng với mắt. Đeo Brucite sẽ được Tỳ Lô Giá Na
Như Lai Phật hộ trì, hỗ trợ về mắt và sự tinh anh. Vì đây cũng là màu của cõi
trời, đá Brucite
được coi là bùa hộ về sắc dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về sắc dục. Tử Thư
nói về màu trắng như sau: Phật Tỳ Lô Giá Na hiện thân ở dạng có bốn mặt
cùng lúc nhận biết tất cả các phương hướng. Ngài có màu trắng bởi vì sự nhận
biết đó không cần sự pha màu nào cả, đích thị là màu chánh gốc, màu trắng. Ngài
đang cầm một bánh xe có tám nan hoa, nó thể hiện sự vượt lên trên mọi nhận thức
về phương hướng và thời gian. Toàn bộ sự biểu tượng hóa Ngài Phật Tỳ Lô Giá Na
thể hiện khái niệm của cái thấy không gian toàn cảnh cùng khắp; cả hai: trung
tâm và chu vi đều có khắp nơi. Đó là sự mở toang trọn vẹn của thức, siêu việt
khỏi thức uẩn. Vượt lên trên sắc uẩn là những tia sáng có hình như cái gương,
màu trắng, lấp lánh, rõ từng chi tiết, chiếu ra từ tim của Phật Kim Cương Tát
Đỏa. Phật Mẫu mặc áo choàng trắng – liên tưởng đến sự hình tượng hóa câu chuyện
thần thoại Ấn Độ về loại quần áo được dệt bằng sợi làm bằng đá, chỉ được tẩy
sạch bằng lửa. Phật Mẫu Pandaravasini thể hiện bản chất của lửa là tiêu hủy mọi
thứ và cũng là kết quả của quá trình tiêu hủy, sự tịnh hóa, lòng đại bi vẹn
toàn. Tiến trình trọn vẹn của trí đại bi có ánh sáng và nhịp điệu, nó có trí
huệ sâu sắc và sự hiệu quả sắc nét, và nó có bản chất tịnh hóa của vị Phật Mẫu
Gita mang áo choàng trắng cũng như bản chất soi sáng đến vô tận của Phật A Di
Đà. Vị gauri áo trắng nhảy múa quanh một tử thi, bà muốn dập tắt tiến trình các
niệm, cho nên bà ta cầm một tích trượng làm bằng thi thể một đứa bé. Thông
thường, một thi thể tượng trưng trạng thái vô ký căn bản của chúng sanh; một
thi thể đã không còn sống là một thể không còn những niệm được khởi lên nữa,
chẳng có niệm thiện, niệm ác – đó là trạng thái bất nhị của tâm. Cùng lúc, có
ánh sáng trắng êm dịu của chư thiên cũng sẽ hướng về con. Vào ngày thứ hai, một
ánh sáng trắng, thành phần tinh khiết của nước sẽ chiếu sáng. Ánh sáng trắng
của sắc uẩn trong tánh thanh tịnh căn bản của nó là Đại Viên Cảnh Trí (trí huệ
giống như cái gương), thứ ánh sáng trắng chói chang, quang minh, trong suốt, từ
tim của Phật Kim Cương Tát Đỏa. Pháp giới thể tánh trí, đó là một tấm vải đan
bằng các tia ánh sáng trắng quang minh, rực rỡ đáng kinh ngạc, từ tim của đức
Phật Tỳ Lô Giá Na. Pháp giới thể tánh trí, đó là một tấm vải đan bằng các tia ánh
sáng trắng quang minh, rực rỡ đáng kinh ngạc, từ tim của đức Phật Tỳ Lô Giá Na.
Đá Brucite trong hành Thổ và
thuộc vào Kinh Túc Thái Âm Tỳ, Kinh Túc Dương Minh Vị. Kinh Túc Thái Âm Tỳ liên
quan đến các triệu chứng người ê ẩm, nặng nề, da vàng, lưỡi cứng đau, mặt trong
chi dưới phù, cơ ở chân ở tay teo, bụng trên đau, bụng đầy, ăn không tiêu, nôn,
nuốt khó, vùng tâm vị đau cấp, tiêu chảy, tiểu không lợi, ở dạ dày, ruột, hệ
sinh dục, tiết niệu. Ví dụ như huyệt Ẩn Bạch (Huyệt Tỉnh thuộc Mộc) liên quan đến
các chứng chân lạnh, liệt chân do di chứng trúng phong, đầy bụng, không muốn
ăn, nôn, tiêu chảy, băng lậu, điên cuồng, mạn kinh phong. Đại Đô (Huyệt Hùynh
thuộc Hỏa) liên quan đến đau bàn chân, đau quanh mắt cá trong, đầy bụng, ăn
không tiêu, nôn mửa, táo bón, tiêu chảy, người nặng nề, sốt không có mồ hôi. Thái
Bạch (Huyệt Du thuộc Thổ, Huyệt Nguyên) liên quan đến đau, sưng bàn chân, đầy bụng,
đau bụng, ăn không tiêu, nôn, kiết lî, táo bón, thổ tả, người nặng nề, khó chịu,
sốt không có mồ hôi. Ví dụ như huyệt Công Tôn (Huyệt Lạc nối với kinh Vị, giao
hội với mạch Xung) liên quan đến đau bụng dưới, đau dạ dày, không muốn ăn, nôn,
động kinh. Thương Khâu (Huyệt Kinh thuộc Kim) liên quan đến đau, sưng mắt cá
trong, đau mặt trong đùi, lách to, đầy bụng, sôi bụng, ăn không tiêu, nôn, tiêu
lỏng, táo bón, hoàng đản, kinh phong trẻ em, cứng lưỡi. Tam Âm Giao (Huyệt Hội
của 3 kinh Thái âm, Thiếu âm, Quyết âm ở chân) liên quan đến sưng, đau cẳng
chân đau do thóat vị, tiêu hóa kém, đầy bụng không muốn ăn, ăn không tiêu, nôn,
tiêu chảy, kinh nguyệt không đều, rong kinh, khí hư, bế kinh, di mộng tinh, đau
dương vật, tiểu khó, tiểu buốt, tiểu dầm, toàn thân đau nhức nặng nề, mất ngủ. Kinh
Túc Dương Minh Vị liên quan đến các triệu chứng mũi chảy máu, miệng môi mọc mụn,
họng đau, cổ sưng, mồm méo, ngực đau, chân sưng đau hoặc teo lạnh; tà khí thịnh;
sốt cao, ra mồ hôi có thể phát cuồng, ăn nhiều, tiểu vàng, bồn chồn có thể phát
cuồng, đầy bụng, ăn ít, bệnh ở đầu, mặt, mũi, răng, họng. Bệnh ở não, dạ dày,
ruột, sốt cao. Ví dụ như huyệt Địa Thương (Huyệt Hội của kinh Dương minh ở chân
với kinh Dương minh ở tay và mạch Dương kiểu) liên quan đến liệt mặt, đau dây
thần kinh sinh ba (dây TK số V), chảy rãi, chốc mép. Đại Nghênh liên quan đến
liệt mặt, sưng má, đau răng. Giáp Xa liên quan đến liệt mặt, cứng hàm, đau
răng, quai bị. Hạ Quan (Huyệt Hội của kinh Dương minh và Thiếu dương ở chân)
liên quan đến đau cứng hoặc trật khớp hàm, đau
răng, liệt mặt, ù tai. Đầu Duy
(Huyệt Hội của kinh Dương minh ở chân với kinh Thiếu dương ở chân và mạch Dương
duy) liên quan đến đau đầu (vùng thái dương
trán), đau mắt, chảy nước mắt, giật mi mắt.
Ví dụ như huyệt Nhân Nghênh (Huyệt Hội của các kinh Dương minh và Thiếu dương ở
chân) liên quan đến đau sưng họng, mất tiếng đột ngột, lao hạch, hen suyễn, tức
ngực, cao huyết áp. Thủy
Đột liên quan đến đau, sưng họng, tràng nhạc, ho, hen, khó thở. Khí Xá liên quan đến
đau sưng họng, tràng nhạc, bướu cổ, hen, suyễn, khó thở. Khuyết Bổn Đau liên
quan đến sưng cổ họng, đau bụng, tức ngực, ho, hen suyễn. Khí Hộ liên quan đến ho, suyễn, ngực sườn đầy tức. Khố Phòng liên quan đến ho, ngực sườn đầy tức, ít-tê-ri.
Ví dụ như huyệt Ốc Ế liên quan đến đau vú, ho, suyễn, ngực
sườn đầy tức. Ưng Song liên quan
đến đau vú, ho, suyễn, ngực sườn đau tức.
Nhũ Căn liên quan đến đau vú, ít sữa, ho suyễn, đau ngực. Bất Dung Đầy bụng, nôn mữa, đau dạ
dày, kém ăn, nôn ra máu, đau vùng tim.
Thừa Mãn đầy bụng, sôi bụng, đau dạ dày, nôn mửa, kém ăn, vàng da, nôn
ra máu, iả chảy. Lương Môn đau dạ
dày, đau vùng thượng vị, nôn mửa, kém ăn , tiêu chảy. Quan Môn sôi bụng, tiêu chảy, kém ăn, phù thủng, đau thượng vị,
đầy bụng. Thái Ất đau dạ dày, tiêu hóa kém, điên cuồng, bứt rứt không
yên. Hoạt Nhục Môn đau dạ dày, nôn mửa, điên cuồng.
Theo thuyết Tứ Trụ, đá Brucite
thuộc mệnh Thổ rất hạp với mệnh Mộc sinh mùa thu,thông thường không được sự trợ
giúp của nguyệt lệnh,Kim nặng quay quanh,phần lớn thuộc thân yếu. Nếu là Mộc
mùa suy yếu,ưa được Thổ dưỡng, tương trợ. Đá ngọc thuộc mệnh Thổ cũng rất hạp với
mệnh Thổ sinh mùa đông. Mùa đông, bên ngoài lạnh, bên trong ấm. Nếu có Thổ với
lực lượng lớn phù trợ thì có thể được khỏe mạnh, trường thọ. Đá ngọc thuộc mệnh
Thổ cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa xuân. Mùa xuân, do vừa qua mùa đông vẫn
còn chút khí lạnh, do đó Kim cần Hỏa sưởi ấm mới có thể loại bỏ khí lạnh mà được
phú quý. Kim sinh vào mùa xuân sẽ khá yếu mềm, do đó cần có Thổ sinh trợ, nhưng
không ưa Thủy quá vượng, Thủy sẽ tăng thêm khí lạnh, làm cho Kim không thể tái
hiện được khí thế của nó. Đá ngọc thuộc mệnh Thổ cũng rất hạp với mệnh Kim sinh
mùa hạ. Kim của mùa hạ càng yếu mềm, hình thể chưa hoàn thành đã bị vào chỗ tử
tuyệt của mùa hạ. Kim của mùa hạ có Thổ phù trì thì thế càng thịnh vượng, chỉ cần
một chút Thổ đến sinh trợ là được, quá nhiều Thổ ngược lại sẽ làm Kim bị chôn lấp,
không thể phát ra ánh sáng. Đá ngọc thuộc mệnh Thổ rất hạp với mệnh Thổ sinh
mùa đông. Mùa đông, bên ngoài lạnh, bên trong ấm. Nếu có Thổ với lực lượng lớn
phù trợ thì có thể được khỏe mạnh, trường thọ. Đá ngọc thuộc mệnh Thổ rất hạp với
mệnh Kim sinh mùa đông. Kim của mùa đong có tính chất hàn lạnh, nếu Mộc nhiều
cũng không thể điêu khắc mà tái hiện công hiệu của Kim. Thổ có thể khắc Thủy,
làm cho Kim không chịu ảnh hưởng của hàn lạnh, mà Hỏa có thể sinh trợ Thổ, Thổ
có thể sinh trợ Kim, Thổ Kim là mẹ con tương sinh, có thể thành công
Thuyết Hoa Giáp cho rằng
Brucite thuộc về Thổ (trong suốt) tức Thổ Cục. Do đó, Brucite giúp khắc chế các bản
mệnh Kim – Hỏa như Bính Thân, Đinh Dậu, Canh Ngọ, Tân Tỵ, vì vậy, những bản
mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Brucite cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Kim
(Thổ sinh Kim), gồm có mệnh thuộc Thổ Kim và thuần Kim: Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh
Thìn, Canh Tuất, Tân Mùi, Tân Sửu, Canh Thân, Tân Dậu, các bản mệnh này có lợi
khi tiếp xúc với loại ngọc này.
Thuyết Khí Tiết nói, người có mệnh cục Kim (sinh vào
ngày Canh-Tân, Thân-Dậu) gặp vào những ngày thuộc hành Hỏa (như các ngày
Bính-Đinh, Tỵ-Ngọ) thì, bởi Kim khắc Hỏa, nên đại tràng, phổi dễ sinh bệnh, biểu
hiện ở hay ho, đọng đàm, đau ruột, bệnh trĩ, tim đập nhanh, dễ hoảng sợ, lo lắng,
mắc bệnh lao. Biểu hiện ra ngoài là da khô, mũi đỏ sưng, lưng mụn nhọt ung mủ,
da đốm tụ huyết. Sách mệnh lý nói: Kim nhược tại Hỏa Vượng, tất có bệnh về máu
huyết. Muốn khắc chế, phải lấy Thổ giải độc, Brucite thuộc Thổ, có tác dụng tốt với thể trạng
người Kim cục (Thổ sinh Kim), đề phòng cho những ngày Hỏa thịnh (Bính-Đinh, Tỵ-Ngọ)
hay tháng hành Hỏa như tháng tư và tháng năm. Người đeo đá Brucite, có
thể dùng Thổ khắc chế được Hỏa hại.
Dựa trên thuyết Orthotherapy
và công thức cấu tạo của đá Brucite
(Mg(OH)2) gồm: Nguyên tố Oxygen (O) có số nguyên tử là 8, chiếm tỉ trọng trong cơ thể người
là 0.65. Thành phần của nguyên tố này trong cơ thể trung bình là 43kg chiếm tỷ
lệ là 24%. Tác động đến sức khỏe và sự sống của hầu hết các loài động thực vật
trên thế giới. Nguyên tố Magnesium (Mg) có số hiệu nguyên tử là 12, chiếm tỉ trọng
cơ thể là 500x10-4 và khối lượng trung bình 0.019kg đạt tỷ lệ nguyên tố là
0.007% trong cơ thể người. Tác động vừa tích cực cho sức khỏe do Magnesium là
nguyên tố chủ đạo của xương và phần cứng trong cơ thể. Tác dụng lên hệ xương,
chiều cao, sự vận động và phục hồi xương. Được coi là có tác dụng tốt cho chứng
gãy xương, hay tăng chiều cao ở trẻ em. Được sử dụng nhiều cho các vận động
viên, hoặc các ngành nghề cơ bắp.
Dựa trên công thức hóa học của
đá Brucite, theo thuyết Hài Hòa Bộ
Tám loại đá này mang yếu tố mộc tinh, vì vậy có tác động lên vùng bụng, gan,
tuyến yên, lớp mỡ quanh eo, đùi. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên
quan đến sự nghèo khó (suy dinh dưỡng) và cả giàu có (béo phì), các chứng liên
quan đến bụng, gan (đau bụng). Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là trấn
giữ các mối quan hệ của nhà chiêm tinh thứ 2 và 9: tài sản, tiền bạc (nhà
Lucrum) và du hành, du lịch (nhà Iter). Dành hỗ trợ cho những người có vấn đề với
tiền bạc hay gặp vận rủi, những người muốn đi du lịch, hay di cư không được
xuông sẻ, thúc đẩy tiền bạc và thường xuyên du hành. tăng cường vật chất và sở
hữu, đặc biệt là sự phát triển, thịnh vượng, may mắn, tự do, du hành, luật
pháp, nhân đạo,... nhấn mạnh đến yếu tố giàu có vật chất. Thuyết của Dante
Alighieri, cho rằng yếu tố mộc tinh bảo trợ về địa lý và cấu trúc nói chung
(Dante Alighieri). Vì vậy, đá này dành cho những người làm trong lĩnh vực liên
quan đến các địa lý và du lịch như hướng dẫn viên du lịch, phi công, hoa tiêu,
tài xế, cục địa dư, tàu hỏa, khảo cổ, xây dựng cầu đường.
Thuyết Bát Quái Kinh Dịch dựa vào hình thái tinh hệ của tinh thể gồm tám loại,
được phân định thành tám quái thuộc nội quái trong kinh dịch. Cụ thể
theo Thông Thiên Học: Lập Phương (cubic - isometric) ứng Càn , Tứ Phương (tetragonal)
ứng Chấn, Tam Phương (rhombohedral) ứng Ly, Lục Phương (hexagonal -
trigonal) ứng Đoài, Tam Tà (triclinic) ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm,
Chánh Giao (orthorhombic) ứng Tốn, Phi Tinh (noncrystallinic) ứng Khôn. Ts
Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng khác: Lập Phương ứng Càn, Tam Tà ứng
Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn, Tam Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng
Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở đây chỉ trình bày thuyết của Thông
Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm tám màu, ứng với tám quái thuộc ngoại
quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính, đều nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ
nhất được trình bày trong I-ching: Binary Numbers, Astrology, And Chakras, dựa
trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng, Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng
lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ, Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do
D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành ứng bát quái cho rằng: Càn ứng dương,
Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn ứng cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn
ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề xuất dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng,
Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam, Cấn ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng,
Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại
quái tương ứng với hình dạng và màu sắc của tinh thể, từ đó tính ra được quái
trong 64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại ứng một bộ phận cơ thể theo y
lý trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể. Đá Brucite màu trắng trong tương
ứng quẻ ngoại quái Càn, có tinh hệ Lục
phương tương ứng quẻ nội quái Đoài, ghép lại chính là quẻ quái số 10: quẻ Thiên
Trạch Lý. Quái số 10 ứng với vị trí Sọ trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được
cho là có lợi cho các bệnh liên quan đến tuần hoàn như cao huyết áp, hạ huyết
áp, nhồi máu cơ tim, rối loạn tuần hoàn não, suy tim, đau thắt ngực,…. Quẻ Thiên
Trạch Lý có nghĩa Lý tức là lễ, lễ là cái mà người ta xéo lên. Nó là quẻ trời
trên chầm dưới, trời mà ở trên, chầm mà ở dưới, đó là phận trên dưới, là nghĩa
tôn ty, lẽ phải như thế. Lễ là gốc của đạo làm người và là con đường người ta
thường thường xéo lên, cho nên mới là quẻ Lý. Về tượng quẻ: Trên là dương
cương, là Càn, là trời: dưới là âm nhu, là Đoài, là chằm, vậy là
trên dưới phân minh lại hợp lẽ âm dương tức là lễ, là lý. Có tính âm
nhu, vui vẻ đi theo sau dương cương thì dù người đi trước mình dữ như
cọp, cũng tỏ ra hiền từ với mình, cho nên bảo rằng dẫm lên đuôi cọp
mà cọp không cắn. Ba chữ “lý hổ vĩ” chính nghĩa là dẫm lên đuôi
cọp, chỉ nên hiểu là đi theo sau cọp, lấy sự nhu thuận, vui vẻ mà
ứng phó với sự cương cường. Quẻ Lý là mềm xéo theo cứng. Đẹp lòng mà ứng với
trời, thế cho nên xéo đuôi cọp, không cần người, hanh. Dương cương trung chính,
xéo ngôi vua mà không mỏi mệt, sáng láng vậy., người đeo đá này sẽ được các lợi
ích như vậy.
Nơi tìm thấy đá: Brucite có thể được tìm thấy ở
Trung Quốc, Hoa Kỳ, Canada, Nam Phi, Ấn Độ, Pháp, Ý, Phần Lan,…
Lời cảm ơn: bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng
nghiệp: tiến sĩ Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ
(tp.HCM), nhà sưu tập Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên
Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments