Halotrichite- Thiết Mậu
Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị Liệu, Thạch
Học Trị Liệu dịch từ chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ.
Lithotherapy phân thành Litho đến từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá,
therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ] tức là chữa trị, lithotherapy tức là
chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với đá ở ngoài da. Lithotherapy là một
môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận huyền học và thần bí học. Mặc dù
có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả năng của nó, đã được ứng dụng từ lâu
trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại, nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức màn
bí mật của những điều thần kỳ giống như nền Đông Y của người Trung Quốc hay Nam
Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc biệt trình bày về những lý luận
căn bản trong Thạch Lý Học đối với Halotrichite, nằm trong chuỗi khảo
cứu, viết riêng cho tuần báo UNESCO.
Giới thiệu về đá Halotrichite
Giới thiệu về các thuyết: Giá trị thạch lý học của Halotrichite được trình bày thành
các thuyết cơ bản: thuyết Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học
(Chromotherapy), thuyết Linh Khí (Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng
Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of
Octaves), thuyết Thái Lặc Mã (Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết
Hoa Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié).
Thuyết Bản Mệnh Phương Đông người ta căn cứ vào địa chi của tháng
sinh, theo như sau: tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu, cùng phối hợp với ngũ hành
của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có tông
màu trắng, xám, ánh bạc). Và theo đó, Thuyết Bản Mệnh phương đông xếp loại đá
này vào năm Ất Dậu, thuộc Mộc Cục, về Âm Phần. Thích hợp cho người nữ/nam, sinh
năm Ất Dậu sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu trắng, thuộc về hành Kim, ứng
về tháng Thân và Dậu, tức tháng 7 và 8.
Thuyết
Bản Mệnh Phương Tây được định nghĩa theo tháng như sau: tháng
tư màu trắng trong.
Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo hoàng đạo như sau: Song Tử màu
trắng trong. Đá này màu trắng trong được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng tư,
mùa hạ và xếp vào đá bản mệnh của cung Song Tử, thuộc hệ Khí. Vì vậy, những ai
sinh vào giữa 21 tháng 5 đến 21 tháng 6 hằng năm, hoặc vào tháng 6 thì được xem
là có lợi khi đeo loại đá này.
Theo Thuyết Quang Lý Học thì đá Halotrichite có trắng. Ý nghĩa của
màu sắc này được biểu hiện ở các nên văn hóa khác nhau. Là một trong những màu đầu tiên
được sử dụng trong nghệ thuật. Hang động Lascaux ở Pháp bảo tồn những bức tranh
tường với hình ảnh những chú bò đực và các động vật khác được vẽ bởi các nghệ
sĩ thời kỳ đồ đá cách đây 18000 – 17000 năm. Họ đã sử dụng Calcite và đá vôi. Đôi
khi nó được dùng làm nền, đôi khi thì làm điểm nhấn. Cùng với than củi, màu đỏ
và màu vàng trong những bức tranh làm cho chúng sinh động hơn rất nhiều. Ở Ai Cập cổ, màu
trắng được kết nối với thần Isis. Các nữ tu và thầy tế của đền thờ Isis chỉ
được mặc đồ bằng vải lanh trắng, và nó cũng được sử dụng để bọc xác ướp. Ở Hy
Lạp và các thành phố khác thì màu trắng tượng trưng cho sữa mẹ. Trong thần
thoại Hy Lạp, thần Zues đã nược nuôi nấng bằng sữa của những nữ thần sông
Amalthea. Trong Talmud, sữa là một trong 4 chất thánh cùng với rượu vang, mật
ong và hoa hồng. Ở Roma, các nữ tu của nữ thần Vesta mặc áo choàng lanh
trắng, áo phong hoặc áo khăn choàng trắng. Họ bảo vệ cho ngọn lửa thiên và
những vị giáo sĩ của thành Rome. Màu trắng đại diện cho sự thanh khiết, trung
thành và trinh tiết của họ. Nhà thờ Cơ Đốc giáo La Mã đã chọn màu trắng là màu
của sự tinh khiết, sự hy sinh mà đức hạnh. Con kỳ lân trắng là một chủ đề phổ
biến của bản thảo lịch sử, các bức tranh và thảm trang trí. Đó là một biểu
tượng của sự thanh khiết, trinh khiết và ân sủng, chỉ có thể bị bắt bởi một
trinh nữ. Nó thường được miêu tả trong lòng của Đức Trinh Nữ Maria. Màu Trắng Trong đại
diện cho sự điều hòa và cân bằng. Loại đá này tăng cường sự trầm tĩnh, cân bằng
trong tâm hồn. Nó được tin là có tác dụng thanh lọc, thanh tẩy tinh thần. Loại
đá này dành cho những người bị trầm cảm, áp lực hoặc nhiều tâm sự. Nó cũng dành
chủ yếu cho nhũng người làm việc trí óc như nhân viên văn phòng, nhân viên kế
toán hay các ngành nghề viết lách như nhà văn hay báo chí.
Keter hay còn được
gọi là Kether, là một trong những nút Sephirot quan trọng nhất của Cây Sự
Sống. Nó được hiểu như “Vương Miện”; có
bậc và vị trí cao nhất các Sephirot. Nó nằm giữa Chokmah với Binah (với Chokmah
bên phải và Binah bên trái) và nằm bên trên Tiphereth. Từ nó có 3 đường dẫn đến
3 Sephirot khác là Chokmah, Tephereth và Binah. Keter rất tuyệt vời, nó được
gọi là Zohar – “Thứ bí ẩn nhất trong các thứ bí ẩn” và con người không thể nào
hiểu được nó. Nó thường được miêu tả là sự độ lượng vô biên. Rabbi Moshe
Cordovero miêu tả nó như là 13 thuộc tính siêu vượt của đạo đức. Sepharah đầu tiên này
đại diện cho những ý nghĩ hành động nguyên sơ trong nhận thức của Ein Soph hoặc
là sự kích thích của mong muốn đi khám phá thế giới muôn dạng. Nhưng theo nghĩa
này, mặc dù nó bao hàm tất cả các nội hàm về niềm vui nhưng nó lại không tự mang niềm vui, nó được
gọi là “Nothing – Không gì cả”, “The Hidden Light – Ánh sáng bí ẩn”, “The air
that cannot be grasped – Không khí không thê nắm bắt”. Mong muốn mang vào thế
giới hoàn hảo, Keter là sự độ lượng vô biên. Tên của vị thần gắng kết với Keter
là Ehyeh Asher Ehyeh, cái tên mà thông qua đó Ngài tiết lộ bản thân mình với
Moses trong bụi cỏ cháy. Cái tên Ehyeh này là nguồn gốc của các loại đồ ăn,
những thứ vô hạn. Tên của Thiên Chúa được ban cho là Eheieh, thiên thần
bảo trợ nó là Metatron, thiên thần của trật tự, trong đó là các sinh vật
Thánh cư ngụ (Chaioth ha Qadesh, Hebrew: חיות הקדש) và chakra của nó được nói
là Swirlings đầu tiên của vũ trụ (Primum Mobile, Rashith ha Gilgalin). AE Waite
đề cập đến Rabbi Azariel ben Menachem, một học sinh của Isaac the Blind, trong
cuốn Commentary của ông nói về Sephiroth đã cho đặt màu sắc đặc biệt cho mỗi
Sephira, nhưng nó không đồng quan điểm với màu sắc được đưa ra trong Zohar, nơi
mà Kether (mà theo với anh ta, cũng tương quan với Yechidah) được cho là không
có màu, Tiphareth màu tím, và Malkuth xanh sapphire. Keter cũng được xác định
với các hành tinh Neptune hoặc Pluto, Atma trong Theosophy và Raja Yoga, và
Khabs am Pek trong Ai cập thần bí.
Thuyết Chakra cho rằng loại đá này thuộc Chakra Sahara ( tiếng
Phạn : सहस्रार , IAST : Sahasrāra ,
tiếng Anh: "nghìn cánh hoa") hoặc chakra đỉnh đầu thường được coi là chakra nguyên thủy thứ bảy, theo hầu hết các tantric (hệ thống) yoga truyền thống.
Sahasrara được mô tả như một hoa sen với 1.000 cánh hoa màu khác nhau. Những
cánh hoa này được bố trí trong 20 lớp, mỗi lớp với khoảng 50 cánh hoa. Phần
vỏ quả màu vàng và bên trong vùng mặt trăng tròn là tam giác màu sáng có thể hướng
lên hoặc hướng xuống. Thường được gọi là hoa sen nghìn cánh, nó được cho là
chakra tinh tinh tế nhất trong hệ thống, liên quan đến ý thức thuần túy, và từ
chakra này phát ra đến những chakra khác. Khi một yogi (chuyên gia về yoga) có
thể nâng kundalini (luồng xà hỏa) của mình lên năng lượng của ý thức, cho đến cảnh
giới đó được gọi là trạng thái của Nirvikalpa Samādhi (ý thức cá nhân hòa nhập
với vũ trụ) là trạng thái của sự lão luyện. Giai đoạn này được cho là mang lại
sự tái sanh hay siddhis (năng lực siêu nhiên) - quyền năng biến đổi thành
thần thánh, và có thể làm bất cứ điều gì muốn. Nó được tượng trưng bởi một mặt
trăng lưỡi liềm trên một đêm trăng sáng, với một chấm hoặc điểm nhỏ phía trên.
Đó được gọi là bindu trắng, cái mà những người yoga cố gắng hợp nhất với binbu
đỏ ở bên dưới. Nó được gọi là điểm mà qua đó linh hồn đi vào cơ thể, tạo ra các
chakra khi nó hạ xuống và chấm dứt trong luồng năng lượng hỏa xà kundalini hình
xoắn ở chân cột sống. Nó thường được mô tả như là nguồn gốc của dòng chảy thần
thánh, hoặc amrita (sự bất tử), mặc dù đôi khi nó được cho là đến từ chakra
ajña hoặc chakra lalita. Dòng chảy này đi xuống vùng bụng (samana) nơi nó bị đốt
cháy. Việc bảo vệ giữ gìn dòng chảy này được gọi là "urdhva retas"
(nghĩa đen là sự đi lên của tinh dịch). Giọt màu trắng có liên kết đến kết tinh
của tinh dịch, trong khi chấm màu đỏ có liên quan đến dịch tiết (kinh nguyệt)
hàng tháng. Nó gồm có một vòng tròn như mặt trăng, trong đó là một tam
giác hướng xuống có chứa một bàn thờ bằng đá quý, với trăng lưỡi liềm phía dưới
và chấm tròn ở trên. Bên trong chấm tròn là một chổ ngồi, gần đó là gurus, ở
trên đó là những bước chân guru. Vị trí này được coi là rất quan trọng trong thực
hành mật ngữ Tây Tạng của tinh thần yoga, nơi mà vị đạo sư hay vị thần thường
được hình dung như thấy được hào quang rên đầu, ban phước lành cho bên dưới (ví
dụ trong thiền Vajrasattva). Ở
phương Tây, nó đã được nhiều người ghi nhận (như Charles Ponce trong cuốn sách
Kabbalah của ông) rằng Sahasrara thể hiện một ý tưởng nguyên thủy tương tự như
ý tưởng của Kether, trong Cây Sự Sống (Kabbalistic Tree of Life), nằm ở đầu
cây, và thể hiện ý thức thuần túy và hiệp nhất với Thần linh. Trong hệ thống
Sufi của Lataif-e-sitta có một Lataif gọi là Akhfa, "bí ẩn tinh tế nhất
", cái nằm trên đỉnh đầu. Đó là điểm hiệp nhất nơi thấy được phúc lành của
Thánh A-La biểu lộ ra trực tiếp.
Đá Halotrichite có màu
trắng, là bổn sắc của Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairochana). Ngài là sự chuyển hóa
của vô minh thành trí huệ. Màu trắng đại diện cho thanh tịnh tướng ứng với mắt.
Đeo Halotrichite sẽ
được Tỳ Lô Giá Na Như Lai Phật hộ trì, hỗ trợ về mắt và sự tinh anh. Vì đây
cũng là màu của cõi trời, đá Halotrichite được
coi là bùa hộ về sắc dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về sắc dục. Tử Thư nói
về màu trắng như sau: Phật Tỳ Lô Giá Na hiện thân ở dạng có bốn mặt cùng
lúc nhận biết tất cả các phương hướng. Ngài có màu trắng bởi vì sự nhận biết đó
không cần sự pha màu nào cả, đích thị là màu chánh gốc, màu trắng. Ngài đang
cầm một bánh xe có tám nan hoa, nó thể hiện sự vượt lên trên mọi nhận thức về
phương hướng và thời gian. Toàn bộ sự biểu tượng hóa Ngài Phật Tỳ Lô Giá Na thể
hiện khái niệm của cái thấy không gian toàn cảnh cùng khắp; cả hai: trung tâm
và chu vi đều có khắp nơi. Đó là sự mở toang trọn vẹn của thức, siêu việt khỏi
thức uẩn. Vượt lên trên sắc uẩn là những tia sáng có hình như cái gương, màu
trắng, lấp lánh, rõ từng chi tiết, chiếu ra từ tim của Phật Kim Cương Tát Đỏa.
Phật Mẫu mặc áo choàng trắng – liên tưởng đến sự hình tượng hóa câu chuyện thần
thoại Ấn Độ về loại quần áo được dệt bằng sợi làm bằng đá, chỉ được tẩy sạch
bằng lửa. Phật Mẫu Pandaravasini thể hiện bản chất của lửa là tiêu hủy mọi thứ
và cũng là kết quả của quá trình tiêu hủy, sự tịnh hóa, lòng đại bi vẹn toàn.
Tiến trình trọn vẹn của trí đại bi có ánh sáng và nhịp điệu, nó có trí huệ sâu
sắc và sự hiệu quả sắc nét, và nó có bản chất tịnh hóa của vị Phật Mẫu Gita
mang áo choàng trắng cũng như bản chất soi sáng đến vô tận của Phật A Di Đà. Vị
gauri áo trắng nhảy múa quanh một tử thi, bà muốn dập tắt tiến trình các niệm,
cho nên bà ta cầm một tích trượng làm bằng thi thể một đứa bé. Thông thường,
một thi thể tượng trưng trạng thái vô ký căn bản của chúng sanh; một thi thể đã
không còn sống là một thể không còn những niệm được khởi lên nữa, chẳng có niệm
thiện, niệm ác – đó là trạng thái bất nhị của tâm. Cùng lúc, có ánh sáng trắng
êm dịu của chư thiên cũng sẽ hướng về con. Vào ngày thứ hai, một ánh sáng
trắng, thành phần tinh khiết của nước sẽ chiếu sáng. Ánh sáng trắng của sắc uẩn
trong tánh thanh tịnh căn bản của nó là Đại Viên Cảnh Trí (trí huệ giống như
cái gương), thứ ánh sáng trắng chói chang, quang minh, trong suốt, từ tim của
Phật Kim Cương Tát Đỏa. Pháp giới thể tánh trí, đó là một tấm vải đan bằng các
tia ánh sáng trắng quang minh, rực rỡ đáng kinh ngạc, từ tim của đức Phật Tỳ Lô
Giá Na. Pháp giới thể tánh trí, đó là một tấm vải đan bằng các tia ánh sáng
trắng quang minh, rực rỡ đáng kinh ngạc, từ tim của đức Phật Tỳ Lô Giá Na.
Đá Halotrichite trong
hành Thổ và thuộc vào Kinh Túc Thái Âm Tỳ, Kinh Túc Dương Minh Vị. Kinh Túc Thái Âm Tỳ liên
quan đến các triệu chứng người ê ẩm, nặng nề, da vàng, lưỡi cứng đau,
mặt trong chi dưới phù, cơ ở chân ở tay teo, bụng trên đau, bụng đầy, ăn không
tiêu, nôn, nuốt khó, vùng tâm vị đau cấp, tiêu chảy, tiểu không lợi, ở dạ dày, ruột, hệ sinh dục,
tiết niệu. Ví dụ như huyệt Ẩn Bạch
(Huyệt Tỉnh thuộc Mộc)
liên quan đến các chứng chân lạnh, liệt chân do di chứng trúng phong, đầy
bụng, không muốn ăn, nôn, tiêu chảy, băng lậu, điên cuồng, mạn kinh phong. Đại Đô
(Huyệt Hùynh thuộc Hỏa) liên quan đến đau bàn chân, đau quanh mắt cá trong, đầy bụng, ăn
không tiêu, nôn mửa, táo bón, tiêu chảy, người nặng nề, sốt không có mồ hôi. Thái Bạch
(Huyệt Du thuộc Thổ, Huyệt Nguyên) liên quan đến đau, sưng bàn chân, đầy bụng, đau bụng, ăn không
tiêu, nôn, kiết lî, táo bón, thổ tả, người nặng nề, khó chịu, sốt không có mồ
hôi. Kinh
Túc Dương Minh Vị liên quan đến các triệu chứng
mũi chảy máu, miệng môi mọc mụn, họng đau, cổ sưng, mồm méo, ngực đau, chân
sưng đau hoặc teo lạnh; tà khí thịnh; sốt cao, ra mồ hôi có thể phát cuồng, ăn
nhiều, tiểu vàng, bồn chồn có thể phát cuồng, đầy bụng, ăn ít, bệnh ở đầu, mặt,
mũi, răng, họng. Bệnh ở não, dạ dày, ruột, sốt cao. Ví dụ như huyệt Thừa Khấp (Huyệt Hội của Kinh Dương minh ở chân với mạch
Dương kiểu và Nhâm mạch) liên quan đến đau mắt đỏ,
sưng mắt, chảy nước mắt, quáng gà, liệt mặt., giật mi. Tứ Bạch liên quan đến đau mắt đỏ (viêm màng tiếp hợp, viêm cũng
mạc), mi mắt co giật, hoa mắt, liệt mặt. Cự Liêu (Huyệt Hội của kinh
Dương minh ở chân với mạch Dương kiểu) liên quan đến liệt mặt, giật mi mắt,
sưng má, đau răng.
Theo Thuyết Can Chi Tứ Trụ, đá ngọc thuộc mệnh Thổ rất hạp với mệnh Mộc sinh mùa
thu,thông thường không được sự trợ giúp của nguyệt lệnh,Kim nặng quay
quanh,phần lớn thuộc thân yếu. Nếu là Mộc mùa suy yếu,ưa được Thổ dưỡng, tương
trợ. Đá ngọc thuộc mệnh Thổ cũng rất hạp với mệnh Thổ sinh mùa đông. Mùa đông,
bên ngoài lạnh, bên trong ấm. Nếu có Thổ với lực lượng lớn phù trợ thì có thể
được khỏe mạnh, trường thọ. Đá ngọc thuộc mệnh Thổ cũng rất hạp với mệnh Kim
sinh mùa xuân. Mùa xuân, do vừa qua mùa đông vẫn còn chút khí lạnh, do đó Kim
cần Hỏa sưởi ấm mới có thể loại bỏ khí lạnh mà được phú quý. Kim sinh vào mùa
xuân sẽ khá yếu mềm, do đó cần có Thổ sinh trợ, nhưng không ưa Thủy quá vượng,
Thủy sẽ tăng thêm khí lạnh, làm cho Kim không thể tái hiện được khí thế của nó.
Đá ngọc thuộc mệnh Thổ rất hạp với mệnh Kim sinh mùa đông. Kim của mùa đong có
tính chất hàn lạnh, nếu Mộc nhiều cũng không thể điêu khắc mà tái hiện công
hiệu của Kim. Thổ có thể khắc Thủy, làm cho Kim không chịu ảnh hưởng của hàn
lạnh, mà Hỏa có thể sinh trợ Thổ, Thổ có thể sinh trợ Kim, Thổ Kim là mẹ con
tương sinh, có thể thành công.
Thuyết Ngũ Hành Can Chi cho rằng Halotrichite thuộc về Thổ (Trong) phối Mộc (Dài), tức Thổ Cục.
Do đó, Halotrichite giúp khắc chế các bản mệnh Kim – Hỏa như Bính Thân,
Đinh Dậu, Canh Ngọ, Tân Tỵ, vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại
ngọc này. Halotrichite cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Kim (Thổ sinh
Kim), gồm có mệnh thuộc Thổ Kim và thuần Kim: Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Thìn, Canh
Tuất, Tân Mùi, Tân Sửu, Canh Thân, Tân Dậu, các bản mệnh này có lợi khi tiếp
xúc với loại ngọc này.
Thuyết Ngũ Hành Khí
Tiết
nói, người có mệnh cục Kim (sinh vào ngày Canh-Tân, Thân-Dậu) gặp vào những
ngày thuộc hành Hỏa (như các ngày Bính-Đinh, Tỵ-Ngọ) thì, bởi Kim khắc Hỏa, nên
đại tràng, phổi dễ sinh bệnh, biểu hiện ở hay ho, đọng đàm, đau ruột, bệnh trĩ,
tim đập nhanh, dễ hoảng sợ, lo lắng, mắc bệnh lao. Biểu hiện ra ngoài là da
khô, mũi đỏ sưng, lưng mụn nhọt ung mủ, da đốm tụ huyết. Sách mệnh lý nói: Kim
nhược tại Hỏa Vượng, tất có bệnh về máu huyết. Muốn khắc chế, phải lấy Thổ giải
độc, Halotrichite thuộc Thổ, có tác dụng
tốt với thể trạng người Kim cục (Thổ sinh Kim), đề phòng cho những ngày Hỏa thịnh
(Bính-Đinh, Tỵ-Ngọ) hay tháng hành Hỏa như tháng tư và tháng năm. Người đeo đá Halotrichite, có thể dùng Thổ khắc
chế được Hỏa hại.
Dựa Trên Thuyết Orthotherapy và công thức cấu tạo của đá Halotrichite
(FeAl2(SO4)4 · 22H2O) gồm: Nguyên tố Iron (Fe) chỉ số nguyên tử là 26, trong cơ
thể người đạt tỉ trọng là 60*10-4, khối lượng trung bình 0.0042kg
chiếm tỷ lệ 0.00067%. Tác động vừa tích cực cho sức khỏe do sắt là nguyên tố chủ
đạo trong máu (Hemoglobin, Cytochromes) và vài loại hóc-môn trong cơ thể. Tác dụng
lên hệ tuần hoàn, máu huyết. Được coi là có tác dụng tốt trong việc cầm máu, chữa
các chứng xuất huyết, và các chứng liên quan đến máu. Nguyên tố Aluminum
(Al) số hiệu nguyên tử là 13, tỉ trọng của nguyên tố Nhôm trong cơ thể chúng ta
là 870×10-7 đạt khối lượng trung bình 0.00006kg chiếm tỷ lệ so với
các nguyên tố khác là 0.000015%. Nguyên tố Sulfur (S) có nguyên tử khối là 16,
tỉ trọng cơ thể là 0.25, khối lượng trung bình 0.14kg, tỷ lệ nguyên tố là
0.038% trong không khí. Tác động tích cực cho sức khỏe do lưu huỳnh là thành phần
chủ yếu của cơ bắp của sinh vật. Lưu huỳnh cũng cấu thành nên nhiều chất hóc
môn trong cơ thể như Cysteine, Methionine, Biotin, Thiamine.Tác dụng lên cơ bắp,
hỗ trợ khả năng vận động, cử động. Được cho là có tác dụng hỗ trợ điều trị
thương tích ở cơ và phục hồi cơ. Nguyên tố Oxygen (O) có số nguyên tử là 8, chiếm tỉ trọng
trong cơ thể người là 0.65. Thành phần của nguyên tố này trong cơ thể trung
bình là 43kg chiếm tỷ lệ là 24%. Tác động đến sức khỏe và sự sống của hầu hết
các loài động thực vật trên thế giới.
Dựa trên công thức hóa học của đá Halotrichite, Theo Thuyết Hài Hòa Bộ Tám loại đá này
mang yếu tố Primius với nguyên tố chủ đạo là nguyên tố Đất, vì vậy tác động lên
hệ cơ bắp, búi cơ tay chân, cơ hoành, da răng và các lông tóc bên ngoài. Có tác
dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến các yếu tố tóc, lông và cơ như
chứng rụng tóc, đau răng, bị da liễu, hoặc các chứng liên quan đến cơ như chuột
rút, teo cơ, phù thủng... Ngoài ra còn tăng cường vật chất và sở hữu, đặc biệt
là sự đột phá, cấp tiến, cách mạng, cải biên xã hội, đẩy mạnh tự do, bất cần,
vô chính phủ... nhấn mạnh đến yếu tố sở hữu. Về mặt tinh thần, loại đá này được
cho là không trấn giữ cung nào theo Chiêm Tinh Cổ, nhưng trấn giữ vị trí con rồng
(Dragons), ở hai vị trí đầu rồng và đuôi rồng, Chiêm tinh gọi là Caput Draconis
và Cauda Draconis, tiếng Việt hay dịch là La Hầu và Kế Đô. Không có quan niệm
chính thức cho hai vị trí này. Thông thường, người ta coi nó là đại diện cho
tính tốt và xấu trong mỗi con người. Vì vậy, nó thúc đẩy các mối quan hệ về con
người và bản chất con người. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố này bảo
trợ về không gian và thời gian nói chung. Dành cho những người làm trong lĩnh vực
liên quan đến các không gian và thời gian như người làm đồng hồ, những người
rung chuông, gác cổng, những người canh giờ tàu hỏa,... hoặc những người cảnh
báo tư tưởng (gọi là những người tiền vệ - avantgarde).
Thuyết Bát Quái Kinh
Dịch dựa
vào hình thái tinh hệ của tinh thể gồm tám loại, được phân định thành tám quái
thuộc nội quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập Phương (cubic
- isometric) ứng Càn , Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam Phương (rhombohedral)
ứng Ly, Lục Phương (hexagonal - trigonal) ứng Đoài, Tam Tà (triclinic) ứng
Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic) ứng Tốn, Phi Tinh
(noncrystallinic) ứng Khôn. Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng khác: Lập
Phương ứng Càn, Tam Tà ứng Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn, Tam
Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở đây
chỉ trình bày thuyết của Thông Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm tám
màu, ứng với tám quái thuộc ngoại quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính, đều
nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ nhất được trình bày trong I-ching: Binary
Numbers, Astrology, And Chakras, dựa trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng,
Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ,
Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành ứng
bát quái cho rằng: Càn ứng dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn ứng
cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề xuất
dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam, Cấn
ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên
thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại quái tương ứng với hình dạng và màu sắc của
tinh thể, từ đó tính ra được quái trong 64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại
ứng một bộ phận cơ thể theo y lý trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể. Đá
Halotrichite có màu trắng tương ứng
quẻ ngoại quái Càn, có tinh hệ Đơn Tà tương ứng quẻ nội quái Khảm, ghép lại
chính là quẻ quái số 6: quẻ Thiên Thủy Tụng. Quái số 6 ứng
với vị trí cằm trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh
liên quan đến đỉnh đầu như là do một số bệnh nội khoa gây nên như viêm xoang mũi, đau đầu
căng cơ, dị dạng động mạch não, thiếu máu não. Quẻ Thiên Thủy Tụng có nghĩa là Tụng là tranh kiện. Trên Kiền dưới Khảm, Kiền
cứng Khảm hiểm, người trên dùng sự cứng để chê kẻ dưới, kẻ dưới dùng sự hiểm để
nhòm người trên, lại là mình hiểm mà nó mạnh, đều là đạo kiện. Quẻ này hào Chín
Hai giữa đặc mà không có kẻ ứng cùng, lại là thêm lo. Vả, theo quái biến, nó tự
quẻ Độn mà hại, tức là kẻ cứng đến ở hào Hai mà nhằm vào giữa thể dưới, có tượng
có sự thật bị lấp, biết sợ mà hợp với lẽ vừa phải; hào Chín Trên quá cứng ở cuối
sự kiện, có tượng theo đuổi việc kiện đến cùng! Hào Chín Năm cứng mạnh, trung
chính ở ngôi tôn, có tượng người lớn; lấy tư cách Dương cương cưỡi lên chỗ hiểm,
ấy là sự đầy đặc xéo vào chỗ hãm, có tượng không lợi về sự sang sông lớn, cho
nên mới răn kẻ xem ắt có sự tranh biện và tuỳ theo chỗ của họ ở mà thành ra
lành hay dữ,
người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy.
Nơi tìm thấy đá: Halotrichite có thể được tìm thấy ở
Trans-Nzoia County (Kenya), Western Australia
(Australia), British Columbia (Canada),...
Lời
cảm ơn: bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến
sĩ Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu
tập Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm
Hoàng Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments