Jamesonite
(脆硫锑铅矿) Thúy
Lưu Đễ Diên Khoán
Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị Liệu, Thạch
Học Trị Liệu dịch từ chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ.
Lithotherapy phân thành Litho đến từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá,
therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ] tức là chữa trị, lithotherapy tức là
chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với đá ở ngoài da. Lithotherapy là một
môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận huyền học và thần bí học. Mặc dù
có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả năng của nó, đã được ứng dụng từ lâu
trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại, nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức màn
bí mật của những điều thần kỳ giống như nền Đông Y của người Trung Quốc hay Nam
Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc biệt trình bày về những lý luận
căn bản trong Thạch Lý Học đối với Jamesonite, nằm trong chuỗi khảo cứu, viết
riêng cho tuần báo UNESCO.
Giới thiệu về đá Jamesonite
Giới thiệu về các thuyết: Giá trị thạch lý học của Jamesonite được trình bày thành
các thuyết cơ bản: thuyết Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học
(Chromotherapy), thuyết Linh Khí (Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng
Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of
Octaves), thuyết Thái Lặc Mã (Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết
Hoa Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié).
Thuyết Bản Mệnh Phương Đông người ta căn cứ vào địa chi của tháng
sinh, theo như sau: tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu, cùng phối hợp với ngũ hành
của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có tông
màu trắng, xám, ánh bạc). Và theo đó, Thuyết Bản Mệnh phương đông xếp loại đá
này vào năm Giáp Thân, thuộc Mộc Cục, về Dương Phần. Thích hợp cho người nữ/nam,
sinh năm Giáp Thân sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu trắng, thuộc về hành
Kim, ứng về tháng Thân và Dậu, tức tháng 7 và 8.
Thuyết
Bản Mệnh Phương Tây được định nghĩa theo tháng như sau: tháng
sáu màu trắng đục. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo hoàng đạo
như sau: Song Tử màu trắng trong. Đá này màu trắng đục được xếp vào loại đá bản mệnh của
tháng sáu, mùa hạ và xếp vào đá bản mệnh của
cung Song Tử, thuộc hệ Khí. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 21 tháng 5 đến 21
tháng 6 hằng năm, hoặc vào tháng 6 thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này.
Theo Thuyết Quang Lý Học thì đá Jamesonite có trắng. Ý nghĩa của
màu sắc này được biểu hiện ở các nên văn hóa khác nhau. Là một trong những màu đầu tiên
được sử dụng trong nghệ thuật. Hang động Lascaux ở Pháp bảo tồn những bức tranh
tường với hình ảnh những chú bò đực và các động vật khác được vẽ bởi các nghệ
sĩ thời kỳ đồ đá cách đây 18000 – 17000 năm. Họ đã sử dụng Calcite và đá vôi. Đôi
khi nó được dùng làm nền, đôi khi thì làm điểm nhấn. Cùng với than củi, màu đỏ
và màu vàng trong những bức tranh làm cho chúng sinh động hơn rất nhiều. Ở Ai Cập cổ, màu trắng được kết
nối với thần Isis. Các nữ tu và thầy tế của đền thờ Isis chỉ được mặc đồ bằng
vải lanh trắng, và nó cũng được sử dụng để bọc xác ướp. Ở Hy Lạp và các thành
phố khác thì màu trắng tượng trưng cho sữa mẹ. Trong thần thoại Hy Lạp, thần
Zues đã nược nuôi nấng bằng sữa của những nữ thần sông Amalthea. Trong Talmud,
sữa là một trong 4 chất thánh cùng với rượu vang, mật ong và hoa hồng. Ở Roma, các nữ tu của nữ thần
Vesta mặc áo choàng lanh trắng, áo phong hoặc áo khăn choàng trắng. Họ bảo vệ
cho ngọn lửa thiên và những vị giáo sĩ của thành Rome. Màu trắng đại diện cho
sự thanh khiết, trung thành và trinh tiết của họ. Nhà thờ Cơ Đốc giáo La Mã đã
chọn màu trắng là màu của sự tinh khiết, sự hy sinh mà đức hạnh. Con kỳ lân
trắng là một chủ đề phổ biến của bản thảo lịch sử, các bức tranh và thảm trang
trí. Đó là một biểu tượng của sự thanh khiết, trinh khiết và ân sủng, chỉ có
thể bị bắt bởi một trinh nữ. Nó thường được miêu tả trong lòng của Đức Trinh Nữ
Maria. Màu Trắng đục đại diện cho sự
điều hòa và cân bằng. Loại đá này tăng cường sự trầm tĩnh, cân bằng trong tâm
hồn. Nó được tin là có tác dụng thanh lọc, thanh tẩy tinh thần. Loại đá này
dành cho những người bị trầm cảm, áp lực hoặc nhiều tâm sự. Nó cũng dành chủ
yếu cho nhũng người làm việc trí óc như nhân viên văn phòng, nhân viên kế toán
hay các ngành nghề viết lách như nhà văn hay báo chí.
Keter hay còn được
gọi là Kether, là một trong những nút Sephirot quan trọng nhất của Cây Sự
Sống. Nó được hiểu như “Vương Miện”; có
bậc và vị trí cao nhất các Sephirot. Nó nằm giữa Chokmah với Binah (với Chokmah
bên phải và Binah bên trái) và nằm bên trên Tiphereth. Từ nó có 3 đường dẫn đến
3 Sephirot khác là Chokmah, Tephereth và Binah. Keter rất tuyệt vời, nó được
gọi là Zohar – “Thứ bí ẩn nhất trong các thứ bí ẩn” và con người không thể nào
hiểu được nó. Nó thường được miêu tả là sự độ lượng vô biên. Rabbi Moshe
Cordovero miêu tả nó như là 13 thuộc tính siêu vượt của đạo đức. Theo Bahir: “Mười
điều răng là gì? Điều đầu tiên là vương miện tối cao, cái được ban phước trong tên
Ngài và con dân Ngài”. Sephirah đầu tiên được gọi là Crown – Vương miện, kể từ
đó vương miện được đội trên đầu. Nó đại diện cho Vương quyền, thứ mà vượt qua
cả khả năng của sự thấu hiểu tâm trí. Các Sephirot khác được ví như các
bộ phận trên cơ thể, nó bắt đầu từ trên đỉnh và đi xuống các nút khác thông qua
đường dẫn là các hành động. Vương miện của một vị vua nằm trên đỉnh đầu và kết
nối với khái niệm “chế độ quân chủ”, nó mang tính trừu tượng và vô hình, biểu
thị cho sự hiện diện và quyền lực của nhà vua. Keter mặc dù là Sephirah cao nhất
của thế giới, nó vẫn phải nhận mình thấp với Malkuth thuộc miền trên nó. Phía
trên Keter không có Sephirah nào khác, mặc dù vậy, nó vẫn nằm dưới Or Ein Soph,
nơi bắt nguồn mọi Sephirah. Theo Rabbi Moshe Cordovero, trong “The Palm Tree of
Devorah”, bàn về hành vi đạo đức mà con người nên tuân theo, liên quan đến các
đặc tính của các Sephirot, để con người có thể bắt chước Ngài, Đấng Toàn năng.
Tính khiêm tốn là trước tiên nhất, vì dù cho Keter là cao nhất, nó vẫn cảm thấy
hổ thẹn khi nhìn nhận lại chính mình, và nhìn vào những Sephirah cấp dưới nó. Ý
nghĩa của nó là hãy làm bản thân trở nên thuần khiết, như việc đôi tai bạn chỉ
nghe những điều tốt, đôi mắt bạn nên tránh xa những điều xấu, luôn nhìn vào
những lợi ích, mũi của bạn sẽ được thoát khỏi mùi của sự giận dữ, miệng của bạn
chỉ cần nói những điều tươi đẹp.
Thuyết Chakra cho rằng loại đá này thuộc Chakra Sahara ( tiếng
Phạn : सहस्रार , IAST : Sahasrāra ,
tiếng Anh: "nghìn cánh hoa") hoặc chakra đỉnh đầu thường được coi là chakra nguyên thủy
thứ bảy, theo hầu hết các tantric (hệ thống) yoga truyền thống.
Sahasrara được mô tả như một hoa sen với 1.000 cánh hoa màu khác nhau. Những
cánh hoa này được bố trí trong 20 lớp, mỗi lớp với khoảng 50 cánh hoa. Phần
vỏ quả màu vàng và bên trong vùng mặt trăng tròn là tam giác màu sáng có thể hướng
lên hoặc hướng xuống. Thường được gọi là hoa sen nghìn cánh, nó được cho là
chakra tinh tinh tế nhất trong hệ thống, liên quan đến ý thức thuần túy, và từ
chakra này phát ra đến những chakra khác. Khi một yogi (chuyên gia về yoga) có
thể nâng kundalini (luồng xà hỏa) của mình lên năng lượng của ý thức, cho đến cảnh
giới đó được gọi là trạng thái của Nirvikalpa Samādhi (ý thức cá nhân hòa nhập
với vũ trụ) là trạng thái của sự lão luyện. Giai đoạn này được cho là mang lại
sự tái sanh hay siddhis (năng lực siêu nhiên) - quyền năng biến đổi thành
thần thánh, và có thể làm bất cứ điều gì muốn. Nó thường được mô tả như là nguồn
gốc của dòng chảy thần thánh, hoặc amrita (sự bất tử), mặc dù đôi khi nó được cho
là đến từ chakra ajña hoặc chakra lalita. Dòng chảy này đi xuống vùng bụng
(samana) nơi nó bị đốt cháy. Việc bảo vệ giữ gìn dòng chảy này được gọi là
"urdhva retas" (nghĩa đen là sự đi lên của tinh dịch). Giọt màu trắng
có liên kết đến kết tinh của tinh dịch, trong khi chấm màu đỏ có liên quan đến
dịch tiết (kinh nguyệt) hàng tháng. Chakra này nằm trên đỉnh đầu. Nó có màu trắng
và có 100 cánh hoa màu trắng. Nó đánh dấu sự kết thúc của sushumna ở trung tâm
của eo. Nó chịu trách nhiệm cho các cấp độ khác nhau của sự tập trung: dharana,
dhyana và savikalpa samadhi. Chakra Guru nằm ở trên đầu, ngay dưới Sahasrara.
Nó màu trắng, với 12 cánh hoa màu trắng, ở trên đó có ghi chữ guru. Ở phương
Tây, nó đã được nhiều người ghi nhận (như Charles Ponce trong cuốn sách
Kabbalah của ông) rằng Sahasrara thể hiện một ý tưởng nguyên thủy tương tự như
ý tưởng của Kether, trong Cây Sự Sống (Kabbalistic Tree of Life), nằm ở đầu
cây, và thể hiện ý thức thuần túy và hiệp nhất với Thần linh. Trong hệ thống
Sufi của Lataif-e-sitta có một Lataif gọi là Akhfa, "bí ẩn tinh tế nhất
", cái nằm trên đỉnh đầu. Đó là điểm hiệp nhất nơi thấy được phúc lành của
Thánh A-La biểu lộ ra trực tiếp.
Đá Jamesonite có màu
trắng, là bổn sắc của Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairochana). Ngài là sự chuyển hóa
của vô minh thành trí huệ. Màu trắng đại diện cho thanh tịnh tướng ứng với mắt.
Đeo Jamesonite sẽ được Tỳ Lô Giá Na Như Lai Phật hộ trì, hỗ
trợ về mắt và sự tinh anh. Vì đây cũng là màu của cõi trời, đá Jamesonite được coi là bùa hộ về sắc dục, giúp thoát
khỏi các nguy hiểm về sắc dục. Tử Thư nói về màu trắng như sau: Phật Tỳ
Lô Giá Na hiện thân ở dạng có bốn mặt cùng lúc nhận biết tất cả các phương
hướng. Ngài có màu trắng bởi vì sự nhận biết đó không cần sự pha màu nào cả,
đích thị là màu chánh gốc, màu trắng. Ngài đang cầm một bánh xe có tám nan hoa,
nó thể hiện sự vượt lên trên mọi nhận thức về phương hướng và thời gian. Toàn
bộ sự biểu tượng hóa Ngài Phật Tỳ Lô Giá Na thể hiện khái niệm của cái thấy
không gian toàn cảnh cùng khắp; cả hai: trung tâm và chu vi đều có khắp nơi. Đó
là sự mở toang trọn vẹn của thức, siêu việt khỏi thức uẩn. Vượt lên trên sắc
uẩn là những tia sáng có hình như cái gương, màu trắng, lấp lánh, rõ từng chi
tiết, chiếu ra từ tim của Phật Kim Cương Tát Đỏa. Phật Mẫu mặc áo choàng trắng
– liên tưởng đến sự hình tượng hóa câu chuyện thần thoại Ấn Độ về loại quần áo
được dệt bằng sợi làm bằng đá, chỉ được tẩy sạch bằng lửa. Phật Mẫu
Pandaravasini thể hiện bản chất của lửa là tiêu hủy mọi thứ và cũng là kết quả
của quá trình tiêu hủy, sự tịnh hóa, lòng đại bi vẹn toàn. Tiến trình trọn vẹn
của trí đại bi có ánh sáng và nhịp điệu, nó có trí huệ sâu sắc và sự hiệu quả
sắc nét, và nó có bản chất tịnh hóa của vị Phật Mẫu Gita mang áo choàng trắng
cũng như bản chất soi sáng đến vô tận của Phật A Di Đà. Vị gauri áo trắng nhảy
múa quanh một tử thi, bà muốn dập tắt tiến trình các niệm, cho nên bà ta cầm
một tích trượng làm bằng thi thể một đứa bé. Thông thường, một thi thể tượng
trưng trạng thái vô ký căn bản của chúng sanh; một thi thể đã không còn sống là
một thể không còn những niệm được khởi lên nữa, chẳng có niệm thiện, niệm ác –
đó là trạng thái bất nhị của tâm. Cùng lúc, có ánh sáng trắng êm dịu của chư
thiên cũng sẽ hướng về con. Vào ngày thứ hai, một ánh sáng trắng, thành phần
tinh khiết của nước sẽ chiếu sáng. Ánh sáng trắng của sắc uẩn trong tánh thanh
tịnh căn bản của nó là Đại Viên Cảnh Trí (trí huệ giống như cái gương), thứ ánh
sáng trắng chói chang, quang minh, trong suốt, từ tim của Phật Kim Cương Tát
Đỏa. Pháp giới thể tánh trí, đó là một tấm vải đan bằng các tia ánh sáng trắng
quang minh, rực rỡ đáng kinh ngạc, từ tim của đức Phật Tỳ Lô Giá Na. Pháp giới
thể tánh trí, đó là một tấm vải đan bằng các tia ánh sáng trắng quang minh, rực
rỡ đáng kinh ngạc, từ tim của đức Phật Tỳ Lô Giá Na.
Theo Thuyết Reki, Đá Jamesonite trong hành Kim và thuộc vào Kinh Thủ Thái Âm Phế, Kinh Thủ
Dương Minh Đại Tràng. Kinh Thủ Thái Âm Phế liên
quan đến các triệu chứng hố trên đòn đau, đau kịch liệt thì hai tay bắt chéo ôm
ngực, mắt tối sầm, tim loạn lên, mặt trong chi trên đau, ngực phổi đầy tức, ho,
suyễn, khó thở, khát, tiểu rắt, tiểu vàng, ngực bồn chồn, gan tay nóng, nếu cảm
phong hàn có sốt, gai rét, có hoặc không có mồ hôi, sốt, bệnh ở phổi, ngực,
họng, khí huyết ứ trệ, tiểu ít khó, có tác dụng hành khí hoạt huyết, lợi tiểu Ví dụ như huyệt Thái Uyên (Huyệt Du thuộc Thổ,
Huyệt Nguyên, Huyệt Hội của mạch) liên quan đến đau cổ tay, đau phía trước
ngoài cẳng tay, cánh tay, đau vai có kèm theo đau ngực. Ho ra máu,hen suyễn,
ho gà, đau sưng họng. Ngư Tế (Huyệt Huỳnh thuộc Hỏa) liên quan đến đau bàn tay,
nóng bàn tay, ho, ho ra máu, sốt, đau đầu, đau sưng họng. Thiếu Thương (Huyệt Tỉnh
thuộc Mộc) liên quan đến đau ngón tay, ngón tay co rút, ho, khí nghịch, trúng
phong, hôn mê, sốt cao, co giật, đau họng, sưng hàm, sưng lưỡi, chảy máu mũi. Kinh Thủ Dương Minh Đại
Tràng liên quan đến các triệu chứng
cổ sưng, răng hàm dưới, vai, cẳng tay đau; ngón trỏ, cái khó vận động. Nếu tà
khí ở kinh thịnh, có thể sưng đau. Nếu kinh khí suy, sợ lạnh ở chỗ đường kinh
đi qua, mắt vàng, mồm khô, đau họng, chảy máu
mũi, bụng đau, sôi bụng. Nếu hàn: tiêu chảy. Nếu nhiệt: tiêu nhão, dính hoặc
táo bón. Tà khí thịnh, sốt cao có thể phát cuồng. Ở đầu, mặt, tai, mắt, mũi,
răng, họng, ruột và sốt. Ví
dụ như huyệt Thương Dương (Huyệt
Tỉnh thuộc Kim) liên quan đến ngón tay tê hoặc co giật, đau vai kèm đau hố trên
đòn, đau họng, đau răng,sưng đau hàm, hoa mắt, điếc tai, ù tai, trúng phong hôn
mê, sốt không ra mồ hôi. Nhị Gian (Huyệt Huỳnh thuộc Thủy) liên quan đến đau bàn
tay, ngón tay, đau cánh tay, đau vai, đau họng, đau răng, sưng hàm, méo mồm, chảy
máu mũi, hoa mắt, sốt nóng. Tam Gian (Huyệt Du thuộc Mộc) liên quan đến sưng đau ngón
tay, bàn tay, đau răng, đau hàm dưới, đau bụng, đau mắt cấp.
Theo Thuyết Can Chi Tứ Trụ, đá Jamesonite thuộc mệnh Kim rất hạp với mệnh
Hỏa sinh vào mùa xuân, Mộc là ấn tinh, càng nhiều thì Hỏa càng vượng, phối hợp
Mộc đến phù trì, phần lớn là thân mạnh; nhưng nếu Mộc Hỏa quá vượng là cách cục
chuyên vượng, thần hỷ kỵ và thân mạnh tương phản. Chỉ riêng Hỏa sinh mùa xuân
có thân mạnh gặp Kim, con đường công danh và tình duyên như ý, mọi sự hanh
thông. Đá ngọc thuộc mệnh Kim cũng rất hạp với mệnh Thổ sinh mùa xuân. Mùa xuân
thì Mộc tư lệnh đương quyền, Thổ ở chỗ tử tuyệt, hư phù không có lực, ưa Hỏa
đến sinh trợ, kỵ Mộc đến khắc.
Thuyết Hoa Giáp cho rằng Jamesonite thuộc về Kim (Trắng)
phối Mộc (Dài), tức Kim Cục. Do đó, Jamesonite giúp khắc chế các bản
mệnh Thủy-Thổ như Nhâm Thìn, Nhâm Tuất, Quý Mùi, Quý Sửu, Mậu Tý, Kỷ Hợi, vì
vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Jamesonite cũng phù trợ cho các
bản mệnh thuộc Kim (Kim sinh Thủy), gồm có mệnh thuộc Kim-Thủy và thuần Thủy:
Canh Tý, Tân Hợi, Nhâm Thân, Quý Dậu, Nhâm Tý Quý Hợi, các bản mệnh này có lợi
khi tiếp xúc với loại ngọc này.
Thuyết Ngũ Hành Khí
Tiết
nói, người có mệnh cục Thủy (sinh vào ngày Nhâm-Quý, Tý-Hợi) gặp vào những ngày
thuộc hành Thổ (như các ngày Mậu-Kỷ, Thìn-Mùi-Tuất-Sửu) và những tháng hành Thổ
(như tháng ba, tháng sáu, tháng chín, tháng chạp) thì bởi Thủy khắc Thổ, sinh
ra bệnh ở bàng quang và thận. Bên trong, đổ mồ hôi trậm, cơ thể hư tổn, tai nghễnh
ngãng, thương hàn cảm mạo. Bên ngoài biểu hiện đau răng, sa nang, thoát vị, đau
lưng, tràn dịch, thổ tả... Sách mệnh lý nói: mệnh Thủy băng lãnh, sắc mặt tối
tăm, do Thủy bị Thổ khắc chế, phải lấy Kim giải độc, Jamesonite thuộc Kim, có tác dụng
tốt cho thể trạng người Thủy Cục (Kim sinh Thủy), nhất là vào những ngày hay
tháng Thổ thịnh (Mậu-Kỷ, Thìn-Mùi-Tuất-Sửu) và các tháng hành Thổ như tháng ba,
tháng sáu, tháng 9, tháng chạp. Người đeo đá Jamesonite, có thể dùng Kim khắc
chế được Thổ hại.
Dựa Trên Thuyết Orthotherapy và công thức cấu tạo của đá Jamesonite (Pb 4 FeSb 6 S 14) gồm: Nguyên tố Lead (Pb) số
hiệu nguyên tử là 82, tỉ trọng Chì trong cơ thể là 1.7×10-4 và đạt
khối lượng trung bình 0.00012kg chiếm tỷ lệ nguyên tố là 0.0000045% so với những
nguyên tố khác. Nguyên tố Iron (Fe) chỉ số nguyên tử là 26, trong cơ
thể người đạt tỉ trọng là 60*10-4, khối lượng trung bình 0.0042kg
chiếm tỷ lệ 0.00067%. Tác động vừa tích cực cho sức khỏe do sắt là nguyên tố chủ
đạo trong máu (Hemoglobin, Cytochromes) và vài loại hóc-môn trong cơ thể. Tác dụng
lên hệ tuần hoàn, máu huyết. Được coi là có tác dụng tốt trong việc cầm máu, chữa
các chứng xuất huyết, và các chứng liên quan đến máu. Nguyên tố Sulfur (S)
có nguyên tử khối là 16, tỉ trọng cơ thể là 0.25, khối lượng trung bình 0.14kg,
tỷ lệ nguyên tố là 0.038% trong không khí. Tác động tích cực cho sức khỏe do
lưu huỳnh là thành phần chủ yếu của cơ bắp của sinh vật. Lưu huỳnh cũng cấu
thành nên nhiều chất hóc môn trong cơ thể như Cysteine, Methionine, Biotin,
Thiamine.Tác dụng lên cơ bắp, hỗ trợ khả năng vận động, cử động. Được cho là có
tác dụng hỗ trợ điều trị thương tích ở cơ và phục hồi cơ.
Dựa trên công thức hóa học của đá Jamesonite, Theo Thuyết Hài Hòa Bộ Tám loại đá này mang yếu tố của thủy tinh với
nguyên tố chủ đạo là nguyên tố Khí. Vì vậy
nó tác động lên hệ thống não bộ và thần kinh, hệ thống hô hấp, cổ họng, dây
thanh quản, giọng nói. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến
việc hít thở và nói chuyện, nói lắp, hoặc bị câm, ho hen siễng, các bệnh về tâm
thần và não, chứng căng thẳng thần kinh. Loại đá này còn giúp tăng cường giao
tiếp và quan hệ, đặc biệt là sự trao đổi, tranh luận, ứng biến, trao đổi thông
tin, truyền cảm hứng.... nhấn mạnh yếu tố giao tiếp. Về mặt tinh thần, loại đá
này được cho là trấn giữ các mối quan hệ của nhà chiêm tinh thứ 6: sức khỏe
(nhà Valentudo). Dành hỗ trợ cho những người có sức khỏe không được như ý để cải
thiện tình hình. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố thủy tinh bảo trợ
về tranh luận và nghệ thuật giao tiếp nói chung (Dante Alighieri). Dành cho những
người làm trong lĩnh vực liên quan đến thương thuyết như các ngành chính trị,
luật sư, ngoại giao, truyền thông, nhà báo, nhà văn,...
Thuyết Bát Quái Kinh
Dịch dựa
vào hình thái tinh hệ của tinh thể gồm tám loại, được phân định thành tám quái
thuộc nội quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập Phương (cubic
- isometric) ứng Càn , Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam Phương (rhombohedral)
ứng Ly, Lục Phương (hexagonal - trigonal) ứng Đoài, Tam Tà (triclinic) ứng
Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic) ứng Tốn, Phi Tinh
(noncrystallinic) ứng Khôn. Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng khác: Lập
Phương ứng Càn, Tam Tà ứng Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn, Tam
Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở đây
chỉ trình bày thuyết của Thông Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm tám
màu, ứng với tám quái thuộc ngoại quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính, đều
nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ nhất được trình bày trong I-ching: Binary
Numbers, Astrology, And Chakras, dựa trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng,
Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ,
Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành ứng
bát quái cho rằng: Càn ứng dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn ứng
cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề xuất
dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam, Cấn
ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên
thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại quái tương ứng với hình dạng và màu sắc của
tinh thể, từ đó tính ra được quái trong 64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại
ứng một bộ phận cơ thể theo y lý trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể. Đá
Jamesonite có màu trắng tương ứng quẻ ngoại quái Càn, có tinh hệ
Đơn Tà tương ứng quẻ nội quái Khảm, ghép lại chính là quẻ quái số 6: quẻ Thiên Thủy Tụng. Quái số 6 ứng với vị
trí cằm trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên
quan đến đỉnh đầu như là do một
số bệnh nội khoa gây nên như viêm xoang mũi, đau đầu căng cơ, dị dạng động mạch
não, thiếu máu não.
Quẻ Thiên Thủy Tụng có nghĩa là Tụng
là tranh kiện. Trên Kiền dưới Khảm, Kiền cứng Khảm hiểm, người trên dùng sự cứng
để chê kẻ dưới, kẻ dưới dùng sự hiểm để nhòm người trên, lại là mình hiểm mà nó
mạnh, đều là đạo kiện. Quẻ này hào Chín Hai giữa đặc mà không có kẻ ứng cùng, lại
là thêm lo. Vả, theo quái biến, nó tự quẻ Độn mà hại, tức là kẻ cứng đến ở hào
Hai mà nhằm vào giữa thể dưới, có tượng có sự thật bị lấp, biết sợ mà hợp với lẽ
vừa phải; hào Chín Trên quá cứng ở cuối sự kiện, có tượng theo đuổi việc kiện đến
cùng! Hào Chín Năm cứng mạnh, trung chính ở ngôi tôn, có tượng người lớn; lấy
tư cách Dương cương cưỡi lên chỗ hiểm, ấy là sự đầy đặc xéo vào chỗ hãm, có tượng
không lợi về sự sang sông lớn, cho nên mới răn kẻ xem ắt có sự tranh biện và tuỳ
theo chỗ của họ ở mà thành ra lành hay dữ, người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy.
Nơi tìm thấy đá: Jamesonite có thể được tìm thấy ở
Huancavelica (Peru), Sverdlovsk Oblast (Russia), Sabah
(Malaysia),...
Lời
cảm ơn: bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến
sĩ Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu
tập Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm
Hoàng Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments