Anorthite
钙长石: Cái Tràng Thạch
Dẫn Nhập: Thạch
Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị Liệu, Thạch Học Trị Liệu dịch từ chữ Lithotherapy,
nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ. Lithotherapy phân thành Litho đến từ chữ ‘λίθος’
[litʰos] có nghĩa là đá, therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ] tức là chữa
trị, lithotherapy tức là chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với đá ở ngoài
da. Lithotherapy là một môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận huyền học
và thần bí học. Mặc dù có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả năng của
nó, đã được ứng dụng từ lâu trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại, nhưng nó
vẫn bị bao quanh bởi bức màn bí mật của những điều thần kỳ giống như nền Đông Y
của người Trung Quốc hay Nam Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này
sẽ đặc biệt trình bày về những lý luận căn bản trong Thạch Lý Học đối với
Anorthite , nằm trong chuỗi khảo cứu, viết riêng cho tuần báo UNESCO.
Giới thiệu về đá: Anorthite
là một loại plagiocase đa dạng hiếm có. Nó được hình thành trong đá lửa có nhiệt
độ cao. Nó cũng hình thành trong sự biến tướng của đá Granulite, trong đá
cacbonat biến chất và trầm tích Corundum. Nó được mô tả lần đầu tiên vào năm
1823. Anorthite hiếm gặp hơn so với ở các loại đá bề mặt thông thường do tiềm
năng phong hóa cao. Nó cũng chiếm phần lớn vùng cao nguyên mặt trăng; các
Genesis đá được làm bằng anorthosit, trong đó bao gồm chủ yếu là ANORTHIT.
Anorthite đã được phát hiện trong các mẫu từ sao chổi Wild 2.
Giới thiệu về các thuyết: Giá trị
thạch lý học của Anorthite được trình bày thành các thuyết cơ
bản: thuyết Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học (Chromotherapy), thuyết
Linh Khí (Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng Trị Liệu
(Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves),
thuyết Thái Lặc Mã (Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết Hoa
Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié).
Thuyết Đông
Phương Bản Mệnh (Eastern Natal Stones) có nhiều luận thuyết khác nhau. Theo phép tính theo
năm, Phương Đông dựa trên Can Chi, lập luận dựa trên ngũ hành, phối màu tạo nên
bộ hoa giáp sắc pháp. Từ Giáp Tý là sắc đỏ ban mai, chuyển dần cho đến Quý Hợi
là sắc tím trời khuya, tạo nên hơn 60 màu khác nhau. Theo phép tính theo tháng,
người ta căn cứ vào địa chi của tháng sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần,
tháng 2 là Mão, tháng 3 là Thìn, tháng 4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi,
tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu, tháng 9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là
Tý, tháng 12 là Sửu, cùng phối hợp với ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá,
như sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng dùng đá có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ
thuộc Hỏa (ứng dùng đá có tông màu cam đỏ hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng
đá có tông màu trắng, xám, ánh bạc), Tý Hợi thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu
đen, chàm, tím), Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ (ứng dùng đá có tông màu vàng,
trong, ánh kim). Thuyết về tháng bản mệnh này được dùng nhiều rộng rãi vì đơn
giản, dễ tính ra.
Ở Việt Nam, cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh đều có nói đến thuyết này. Tuy nhiên, sự phân định màu sắc và ngũ hành không giống nhau. Ví dụ như Ts Hoàng Thế Ngữ trong cuốn Đá Quý Việt Nam đưa ra Hỏa ứng màu đỏ, Thủy ứng màu xanh, Thổ ứng màu nâu, Mộc ứng màu lục, Kim ứng màu vàng trắng đen. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định khác Hỏa ứng màu đỏ hồng tím, Thủy ứng màu đen sẫm, Thổ ứng vàng nâu, Mộc ứng lam lục, Kim ứng trắng bạc.
Thuyết Bản Mệnh
phương đông xếp loại đá này vào năm Quý Mùi, thuộc Thủy Cục, về Âm Phần. Thích
hợp cho người nữ/nam, sinh năm Quý Mùi sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu trắng
ngà, thuộc về hành kim, ứng về tháng Thân, Dậu tức tháng 7 và 8.
Thuyết Tây Phương Bản Mệnh (Western Natal Stones) là thuyết rất cơ bản của Thạch Lý Học Phương Tây, dựa trên Cung Hoàng Đạo, mười hai cung mỗi cung chủ chế một màu, tùy vào ngày bản sinh mà màu sắc đậm nhạt khác nhau theo thời gian, từ đó luận về đá bản sinh (Birthstones) được dùng nhiều trong văn hóa phương tây. Mặc dù vậy, hầu hết các tài liệu đều xếp tương đối bất đồng, từ thế kỷ 16 trở đi, hầu hết không được thống nhất. Ở đây, chỉ trích dẫn những quan điểm được công nhận rộng rãi. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo tháng như sau: tháng một màu đỏ cam, tháng hai màu tím tươi, tháng ba màu xanh lam, tháng tư màu trắng trong, tháng năm màu lục đen, tháng sáu màu trắng đục, tháng bảy màu đỏ tươi, tháng tám màu xanh chuối, tháng chín màu xanh lá, tháng mười màu đen, tháng mười một màu vàng, tháng mười hai màu chàm. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo hoàng đạo như sau: Bạch Dương màu xanh đen, Kim Ngưu màu xanh dương đậm, Song Tử màu trắng trong, Cự Giải màu xanh lá mạ, Sư Tử màu đen, Xử Nữ màu cam, Thiên Bình màu lục nhạt, Thiên Yết màu lam, Nhân Mã màu vàng, Ma Kết màu đỏ tươi, Bảo Bình màu đỏ sậm, Song Ngư màu tím. Thuyết bản mệnh Phương Tây được ứng dụng rộng rãi trong đời sống từ thế kỷ 18, có tương đối nhiều các dị biệt tùy vào sách.
Ở Việt Nam, thuyết này cũng được sử dụng khá nhiều, nhưng không hiểu vì sao trong tất cả các cuốn Thạch Lý Học của Việt Nam, ngoại trừ cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, đều không nhắc đến thuyết này.
Đá này màu trắng
ngà được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng sáu, mùa hè và xếp vào đá bản mệnh
của cung Nhân Mã, thuộc hệ lửa. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 22 tháng 11 đến 21
tháng 12 hằng năm, hoặc vào tháng 12 thì được xem là có lợi khi đeo loại đá
này.
Thuyết Quang Lý Học
(Chromatherapy) được ra đời rất lâu từ giả kim thuật, nhưng chính thức
định hình đặt tên bởi tiến sĩ Christian Agrapart. Thạch Lý Học sử dụng lại thuật
ngữ này, nhưng không sử dụng liệu pháp ánh sáng như Agrapart mà lý luận dựa
trên màu của loại đá. Nó gồm một phần nghiên cứu về màu sắc trong y học của
Agrapart và một phần nghiên cứu về màu sắc trong tâm lý học. Màu sắc trong tâm
lý học đã được nghiên cứu lâu đời như bảng phân chia màu sắc và tâm trạng
"rose of temperaments" (Temperamenten Rose) của Goethe và Schiller
(1798). Nhưng nghệ thuật này chỉ thăng hoa nhờ nghiên cứu của Carl Jung khi
ghép tính biểu tượng của màu sắc vào tâm lý con người. Từ đó, những người
nghiên cứu sau này sử dụng sự tương ứng màu sắc đó trong viên đá và đặt nền tảng
lý thuyết cho Thạch Lý Học. Dựa vào bảng màu sắc đó, cho phép gợi ý đến tác động
chữa bệnh hoặc lên tinh thần con người.
Ở Việt Nam, thuyết Quang Lý Học
này cũng được sử dụng rộng rãi. Hầu hết các sách đều có đề cập trừ cuốn
Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ.
Thích Minh Nghiêm. Trong đó cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh
Linh có thể coi là chi tiết nhất về thuyết này
Là một trong những màu đầu tiên
được sử dụng trong nghệ thuật. Hang động Lascaux ở Pháp bảo tồn những bức tranh
tường với hình ảnh những chú bò đực và các động vật khác được vẽ bởi các nghệ
sĩ thời kỳ đồ đá cách đây 18000 – 17000 năm. Họ đã sử dụng Calcite và đá vôi.
Đôi khi nó được dùng làm nền, đôi khi thì làm điểm nhấn. Cùng với than củi, màu
đỏ và màu vàng trong những bức tranh làm cho chúng sinh động hơn rất nhiều. Ở
Ai Cập cổ, màu trắng được kết nối với thần Isis. Các nữ tu và thầy tế của đền
thờ Isis chỉ được mặc đồ bằng vải lanh trắng, và nó cũng được sử dụng để bọc
xác ướp. Ở Hy Lạp và các thành phố khác thì màu trắng tượng trưng cho sữa mẹ.
Trong thần thoại Hy Lạp, thần Zues đã nược nuôi nấng bằng sữa của những nữ thần
sông Amalthea. Trong Talmud, sữa là một trong 4 chất thánh cùng với rượu vang,
mật ong và hoa hồng. Ở Roma, các nữ tu của nữ thần Vesta mặc áo choàng
lanh trắng, áo phong hoặc áo khăn choàng trắng. Họ bảo vệ cho ngọn lửa thiên và
những vị giáo sĩ của thành Rome. Màu trắng đại diện cho sự thanh khiết, trung
thành và trinh tiết của họ. Nhà thờ Cơ Đốc giáo La Mã đã chọn màu trắng là màu
của sự tinh khiết, sự hy sinh mà đức hạnh. Con kỳ lân trắng là một chủ đề phổ
biến của bản thảo lịch sử, các bức tranh và thảm trang trí. Đó là một biểu tượng
của sự thanh khiết, trinh khiết và ân sủng, chỉ có thể bị bắt bởi một trinh nữ.
Nó thường được miêu tả trong lòng của Đức Trinh Nữ Maria.
Màu Trắng đại diện cho sự điều
hòa và cân bằng. Loại đá này tăng cường sự trầm tĩnh, cân bằng trong tâm hồn.
Nó được tin là có tác dụng thanh lọc, thanh tẩy tinh thần. Loại đá này dành cho
những người bị trầm cảm, áp lực hoặc nhiều tâm sự. Nó cũng dành chủ yếu cho nhũng
người làm việc trí óc như nhân viên văn phòng, nhân viên kế toán hay các ngành
nghề viết lách như nhà văn hay báo chí.
Thuyết Luân Xa (Chakra) được
trình bày trong trào lưu Thời Đại Mới (New Age) bởi các lãnh tụ Thông Thiên Học
như Johann Georg Gichtel, hoặc Yoga như Swami Sivananda. Vẫn vận dụng chủ yếu
là màu sắc của viên đá, được dịch nghĩa theo hình ảnh các luân xa trong văn hóa
Ấn Độ trong Áo Nghĩa Thư. Từ nguyên thủy trong tiếng Sanskrit cakra चक्र mang
ý nghĩa là "bánh xe" hay "vòng tròn", các luân xa được miêu
tả như là xếp thành một cột thẳng từ gốc của cột sống lên đến đỉnh đầu, liên
quan tới một số chức năng tâm sinh lý, một khía cạnh của nhận thức, đánh dấu bởi
một màu sắc nào đó. Chúng thường được hình tượng hóa bằng các hoa sen với số cánh
khác nhau cho mỗi luân xa. Các luân xa được cho là đem lại năng lượng cho cơ thể
và có liên quan đến các phản ứng của cơ thể, tình cảm hay tâm lý của một người,
là các điểm chứa năng lượng sống (prana, cũng được gọi là shakti) lưu chuyển giữa
các điểm đó dọc theo các đường chảy (gọi là nadis). Chức năng của các chakra là
xoay tròn để thu hút vào năng lượng sống từ viên đá để giữ cân bằng cho sức khỏe
về tâm linh, tâm lý, tình cảm và sinh lý của cơ thể.
Ở Việt Nam, thuyết Luân Xa được
biết đến rộng rãi nhất trong số các thuyết về thạch lý học. Tất cả các sách đều
có đề cập đến thuyết này trừ cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh
Nghiêm. Sự nhận định cũng ít nhiều sai khác. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng
Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định Luân xa gốc ứng màu đỏ đen, luân xa xương cùng ứng
màu cam phấn hồng, luân xa thái dương ứng màu vàng, luân xa tim ứng màu xanh
lá, luân xa họng ứng màu xanh lam, luân xa trán ứng màu chàm tím, luân xa vương
miện ứng màu trắng và tím nhạt.
Thuyết Luân Xa (Chakra) cho rằng
loại đá này màu trắng ngà tương ứng với luân
xa Sahasrara (hoa sen ngàn cánh). Sahara (tiếng Phạn: सहस्रार, IAST : Sahasrāra ,
tiếng Anh: "nghìn cánh hoa") hoặc chakra đỉnh đầu thường
được coi là chakra nguyên thủy thứ bảy, theo hầu hết các tantric
(hệ thống) yoga truyền thống. Sahasrara được mô tả như một hoa sen với 1.000
cánh hoa màu khác nhau. Những cánh hoa này được bố trí trong 20 lớp, mỗi lớp
với khoảng 50 cánh hoa. Phần vỏ quả màu vàng và bên trong vùng mặt trăng
tròn là tam giác màu sáng có thể hướng lên hoặc hướng xuống. Nó thường được
mô tả như là nguồn gốc của dòng chảy thần thánh, hoặc amrita (sự bất tử), mặc
dù đôi khi nó được cho là đến từ chakra ajña hoặc chakra lalita. Dòng chảy này
đi xuống vùng bụng (samana) nơi nó bị đốt cháy. Việc bảo vệ giữ gìn dòng chảy
này được gọi là "urdhva retas" (nghĩa đen là sự đi lên của tinh dịch).
Giọt màu trắng có liên kết đến kết tinh của tinh dịch, trong khi chấm màu đỏ có
liên quan đến dịch tiết (kinh nguyệt) hàng tháng. Chakra này đôi khi được
gọi là Indu, Chandra, hoặc Soma Chakra. Trong các mô tả khác, nó nằm ở trán, với
16 cánh hoa - tương ứng với lòng khoan dung, sự dịu dàng, kiên nhẫn, không ràng
buộc, kiểm soát, phẩm chất xuất sắc, tâm trạng hân hoan, tình yêu thiêng liêng
sâu sắc, khiêm tốn, nghiêm túc, nỗ lực, kiểm soát cảm xúc, sự hào phóng và tập
trung. Tên của chakra này có nghĩa là "Thanh âm vĩ đại", và nó có
hình dạng của cái cày. Nó đại diện cho âm thanh ban đầu từ đó phát ra tất cả sự
sáng tạo.
Thuyết Hoa Giáp dựa
trên lý học phương đông, canh theo can chi bản mệnh của một người theo ngày
tháng năm sinh, rồi tính sự xung khắc hay tương hợp trong ngũ hành. Từ đó đưa
ra nguyên tắc vận dụng trong thạch học, nhờ vào ngũ hành trong khoáng thạch đối
chế lại với bản mệnh, nhằm điều hòa bản thân. Thuyết Ngũ Hành quy định theo
thiên can: Giáp Ất thuộc Mộc, Bính Đinh thuộc Hỏa, Mậu Kỷ thuộc Thổ, Canh Tân
thuộc Kim, Nhâm Quý thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành quy định theo địa chi: Dần Mão
thuộc Mộc, Ngọ Mùi thuộc Hỏa, Thân Dậu thuộc Kim, Hợi Tý thuộc Thủy, Thìn Mùi
Tuất Sửu thuộc Thổ. Từ thiên can, địa chi, quy định nên phối hành của bản mệnh:
Mậu Thìn thuộc về Thổ phối Thổ,… Khoáng thạch được phân theo ngũ hành dựa trên
màu sắc và hình dạng. Thuyết Ngũ Hành quy định màu sắc: Lục và Lam thuộc Mộc, Đỏ
và Cam thuộc Hỏa, Vàng và Trong thuộc Thổ, Trắng và Xám thuộc Kim, Đen và Tím
thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành quy định theo thể dạng: trụ và dài thuộc Mộc, nhọn
và góc thuộc Hỏa, vuông và cân thuộc Thổ, cong và tròn thuộc Kim, uốn và lượn
thuộc Thủy. Từ đó suy ra được phối hành của khoáng thạch: ví dụ Huyền Thiết Thạch
(Hematite) đen có thể dạng khối tròn (Botryoidal) được xem là Thủy phối Kim.
Thuyết Ngũ Hành quy định tương sinh như sau: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ
sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Thuyết Ngũ Hành quy định tương khắc như
sau: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc. Dựa
vào tương sinh tương khắc của Ngũ Hành để khắc chế hay phù trợ cho bản mệnh
thông qua việc đeo những khoáng thạch khác nhau trên cơ thể.
Ở Việt Nam, thuyết Hoa Giáp (Ngũ
Hành Can Chi) được trình bày trong hầu hết các sách về Thạch Lý Học, nhưng hầu
hết chỉ dừng lại ở lý luận về màu sắc theo ngũ hành. Cá biệt có cuốn Sổ Tay Đá
Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm là có nhắc đến thuyết này ứng dụng lý
luận lên hình dạng của tinh thể, tuy nhiên không có khai triển đầy đủ. Thuyết
này các phái đạo gia phong thủy khai thác và phát triển rất hoàn chỉnh, được
trình bày tóm tắt như bên trên đây.
Thuyết Ngũ Hành Can Chi cho rằng Anorthite thuộc về Kim (trắng ngà) phối Thổ
(vuông), tức Kim Cục. Do đó, Anorthite giúp khắc chế các bản mệnh Thủy-Thổ như
Nhâm Thìn, Nhâm Tuất, Quý Mùi, Quý Sửu, Mậu Tý, Kỷ Hợi, vì vậy, những bản mệnh
trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Anorthite cũng phù trợ cho các bản mệnh
thuộc Kim (Kim sinh Thủy), gồm có mệnh thuộc Kim-Thủy và thuần Thủy: Canh Tý,
Tân Hợi, Nhâm Thân, Quý Dậu, Nhâm Tý Quý Hợi, các bản mệnh này có lợi khi tiếp
xúc với loại ngọc này.
Thuyết Khí Tiết, dựa
trên Ngũ Hành và sự vận hành của Khí Tiết tác động lên con người. Khí Tiết và Bản
Mệnh không hòa hợp, tất sinh ra bệnh tật đau yếu. Bệnh tật chính là do tinh khí
huyết trong cơ thể bị tổn mà nên, trong là lục phủ ngũ tạng, ngoài là thân thể
tứ chi, đều có liên quan đến ngũ hành tương sinh tương khắc. Nếu can chi ngũ
hành quá vượng, trong khi khí tiết bất hòa, tất nhiên gây bệnh cho người. Y lý
phương đông nói về Thiên Can: Giáp chủ Gan, Ất chủ Mật, Bính chủ Ruột, Đinh chủ
Tim, Mậu chủ dạ dày, Kỷ chủ Lách, Canh chủ ruột già, Tân chủ Phổi, Nhâm chủ Bàng
Quang, Quý chủ Thận. Y Lý Phương Đông nói về Địa Chi: Tý bệnh về Sa Mang, Sửu bệnh
về Bụng, Dần bệnh về Chân, Mão bệnh về Mắt, Thìn bệnh về Lưng, Tỵ bệnh về Mặt,
Ngọ bệnh về Tim, Mùi bệnh về Ngực, Thân bệnh về Cổ, Dậu bệnh về Phổi, Hợi bệnh
về Da. Sự hương thịnh hay suy tàn của ngũ hành trong khí tiết của thiên can địa
chi đều có quan hệ. Người sinh vào bản mệnh Mộc quá vượng, tự khắc tỳ vị có bệnh,
nếu nhằm ngay lúc ngày tháng thuộc về khắc tinh của Mộc thì bệnh phát.
Ở Việt Nam, thuyết Khí Tiết được
trình bày tương đối cụ thể trong cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích
Minh Nghiêm. Các cuốn Thạch Lý Học khác hầu như không nhắc đến thuyết này.
Thuyết Khí Tiết nói, người có mệnh
cục Kim (sinh vào ngày Canh-Tân, Thân-Dậu) gặp vào những ngày thuộc hành Hỏa
(như các ngày Bính-Đinh, Tỵ-Ngọ) thì, bởi Kim khắc Hỏa, nên đại tràng, phổi dễ
sinh bệnh, biểu hiện ở hay ho, đọng đàm, đau ruột, bệnh trĩ, tim đập nhanh, dễ
hoảng sợ, lo lắng, mắc bệnh lao. Biểu hiện ra ngoài là da khô, mũi đỏ sưng,
lưng mụn nhọt ung mủ, da đốm tụ huyết. Sách mệnh lý nói: Kim nhược tại Hỏa Vượng,
tất có bệnh về máu huyết. Muốn khắc chế, phải lấy Thổ giải độc,
Anorthite thuộc Thổ, có tác dụng tốt với thể trạng người Kim cục (Thổ sinh
Kim), đề phòng cho những ngày Hỏa thịnh (Bính-Đinh, Tỵ-Ngọ) hay tháng hành Hỏa
như tháng tư và tháng năm. Người đeo đá Anorthite, có thể dùng Thổ khắc chế được
Hỏa hại.
Thuyết Tứ Trụ có
thể ứng dụng từ Bát Tự trong Thuyết Tứ Trụ để bổ cứu, dựa vào màu của đá để
tương hỗ lấy mệnh. Chủ yếu dựa vào thiên can, lấy âm dương và ngũ hành của
thiên can để tính lấy bốn phép Kiêu Ấn, Thực Thương, Tỷ Kiếp, Quan Sát và Tài,
dụng vào địa chi mà thành Thập Thần. Từ đó luận ra được Nhật Can và Nguyệt Lệnh,
dựa vào sự phối hợp của nó trong sinh thời mà dự biết lợi yếu của bản mệnh. Biết
được lợi yếu của bản mệnh rồi, mới dùng ngũ hành trong đá ngọc mà điều hòa. Có
sách viết: Nhật Can mạnh yếu cần có sự tương trợ của Nguyệt Lệnh. Trong trường
hợp không có Nguyệt Lệnh hỗ trợ, các can chi trong trụ liền suy yếu. Có thể dùng
phương pháp đá phong thủy để bổ cứu, điều hậu cho Nhật Can.
Ở Việt Nam, thuyết Tứ Trụ được sử
dụng cực kỳ nhiều, tất cả các sách Thạch Lý Học tại Việt Nam đều có dẫn xuất
như cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy
của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh
Linh , cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc. Tuy nhiên, có khá nhiều sai biệt
giữa các sách với nhau về cách tính, điều này cũng dễ hiểu vì đây là ứng dụng
tùy thuộc vào cách luận Tứ Trụ. Ở đây chỉ giữ lại một thuyết để thống nhất là sử
dụng sách của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm.
Theo thuyết Tứ Trụ, đá ngọc thuộc
mệnh Thổ rất hạp với mệnh Mộc sinh mùa thu,thông thường không được sự trợ giúp
của nguyệt lệnh,Kim nặng quay quanh,phần lớn thuộc thân yếu. Nếu là Mộc mùa suy
yếu,ưa được Thổ dưỡng, tương trợ. Đá ngọc thuộc mệnh Thổ cũng rất hạp với mệnh
Thổ sinh mùa đông. Mùa đông, bên ngoài lạnh, bên trong ấm. Nếu có Thổ với lực
lượng lớn phù trợ thì có thể được khỏe mạnh, trường thọ. Đá ngọc thuộc mệnh Thổ
cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa xuân. Mùa xuân, do vừa qua mùa đông vẫn còn
chút khí lạnh, do đó Kim cần Hỏa sưởi ấm mới có thể loại bỏ khí lạnh mà được
phú quý. Kim sinh vào mùa xuân sẽ khá yếu mềm, do đó cần có Thổ sinh trợ, nhưng
không ưa Thủy quá vượng, Thủy sẽ tăng thêm khí lạnh, làm cho Kim không thể tái
hiện được khí thế của nó.
Thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy) đề xuất bởi bác sĩ Jacques Ménétrier và Gabriel Bertrand, vào giữa thế kỷ 20. Những người thực hành Thạch Lý Học áp dụng lý thuyết này trong việc trị liệu thông qua cơ sở giống như Thuyết Vi Lượng Đồng Căn (Homeopathy) của Samuel Hahnemann. Christian Friedrich Samuel Hahnemann (1755-1843), một nhà vật lý học, hóa học và y học người Đức, đã đưa ra một lý thuyết liên quan đến sự quan hệ yếu tố trong chứng và chất của cơ thể người, sau này phát triển thành hệ thống Vi Lượng Đồng Căn. Mỗi vi lượng trong đá được cho là sẽ tác động đến vi lượng tương ứng trong cơ thể người, và nhờ đó bộ phận chứa vi lượng đó được chữa khỏi. Mỗi viên đá, bằng vi lượng chứa trong nó, được tin là sẽ tác động lên phần sinh lý cơ thể, giúp gợi ý cho việc chữa bệnh hoặc tác động lên tinh thần.
Ở Việt Nam, thuyết Vi Lượng được nhắc đến duy nhất trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh, nhưng khá sơ khai, vì cho rằng đây là thuyết phức tạp, chuyên sâu. Các cuốn khác, hầu như không hề biết gì về thuyết này.
Công thức hóa học của Anorthite là: Ca(Al2Si2O8) Trong đó, Nguyên tố Calcium (Ca) có số nguyên tử là 20, tỉ trọng Canxi trong cơ thể là 0.014 và khối lượng trung bình trong cơ thể người là 1kg đạt tỷ lệ là 0.22%. Tác động tích cực cho sức khỏe do Can xi là thành phần chủ yếu của răng và hệ xương, đặc biệt là trong các thành phần Calmodulin và Hydroxylapatite. Tác dụng lên hệ xương, chiều cao, sự vận động và phục hồi xương. Được coi là có tác dụng tốt cho chứng gãy xương, hay tăng chiều cao ở trẻ em. Được sử dụng nhiều cho các vận động viên, hoặc các ngành nghề cơ bắp. Trong cơ thể con người, Silic (Si) chiếm chỉ số năng lượng (MASS) là 0,0023, tỉ lệ nguyên tố là 0.0058, vì vậy nó tác động tích cực cho sức khỏe, mặc dù, tác dụng không rõ ràng ở chứng bệnh hay vị trí nào của cơ thể. Nguyên tố Aluminum (Al) số hiệu nguyên tử là 13, tỉ trọng của nguyên tố Nhôm trong cơ thể chúng ta là 870×10-7 đạt khối lượng trung bình 0.00006kg chiếm tỷ lệ so với các nguyên tố khác là 0.000015%.
Thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves) của Newlands ứng dụng trong giả kim thuật, cho phép tính toán sự liên hệ của khoáng chất trong đá và chiêm tinh,từ đó suy dẫn đến các ứng dụng của đá lên cơ thể con người. Vào năm 1864, John Alexander Reina Newlands (1837-1898), nhà hóa học người Anh, tìm ra quy luật bát bội: Mỗi nguyên tố hóa học đều thể hiện tính chất tương tự như nguyên tố thứ 8 khi xếp các nguyên tố theo khối lượng nguyên tử tăng dần. Điều này kích thích các nhà huyền học giả kim thuật vì giả kim từ lâu không thể tạo ra bất kỳ quy luật nào tương xứng phù hợp với khoa học hiện đại. Quy luật số 8 ứng với tám hành tinh (gồm cả trái đất) mà nền tảng của nó đã có từ lâu, và còn tương ứng nhiều hình thức tâm linh huyền học khác liên đới với con số 8 như Geomancy (bói đất). Từ đó người ta (mà nổi tiếng nhất là nhà huyền học George Ivanovich Gurdjieff, người cực kỳ yêu quý thuyết Law of Octaves) xây dựng nên hệ tính để tìm ra nguyên tố chủ đạo và hành tinh chủ đạo trong một viên đá. Từ đó, dẫn suy ra những đặc tính chữa bệnh hoặc tác động lên tinh thần.
Ở Việt Nam, thuyết Hài Hòa Bộ Tám hầu như chưa bao giờ được nhắc đến trong tất cả các sách về Thạch Lý Học, nhưng có một vài trang mạng của các học giả Việt ở Hải Ngoại có hướng dẫn về thuyết này.
Thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of
Octaves) cho rằng loại đá này mang yếu tố mộc tinh, vì vậy có tác động lên vùng
bụng, gan, tuyến yên, lớp mỡ quanh eo, đùi. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các
bệnh liên quan đến sự nghèo khó (suy dinh dưỡng) và cả giàu có (béo phì), các
chứng liên quan đến bụng, gan (đau bụng). Về mặt tinh thần, loại đá này được
cho là trấn giữ các mối quan hệ của nhà chiêm tinh thứ 2 và 9: tài sản, tiền bạc
(nhà Lucrum) và du hành, du lịch (nhà Iter). Dành hỗ trợ cho những người có vấn
đề với tiền bạc hay gặp vận rủi, những người muốn đi du lịch, hay di cư không
được xuông sẻ, thúc đẩy tiền bạc và thường xuyên du hành. tăng cường vật chất
và sở hữu, đặc biệt là sự phát triển, thịnh vượng, may mắn, tự do, du hành, luật
pháp, nhân đạo, ... nhấn mạnh đến yếu tố giàu có vật chất. Thuyết của Dante
Alighieri, cho rằng yếu tố mộc tinh bảo trợ về địa lý và cấu trúc nói chung
(Dante Alighieri). Vì vậy, đá này dành cho những người làm trong lĩnh vực liên
quan đến các địa lý và du lịch như hướng dẫn viên du lịch, phi công, hoa tiêu,
tài xế, cục địa dư, tàu hỏa, khảo cổ, xây dựng cầu đường ...
Thuyết Thái Lặc Mã (Thelema) đề xuất bởi nhà huyền học Aleser Crowley, đầu thế kỷ 20, mặc dù bản thệ thống của nó, được thừa hưởng thừ Hội Kín Kim Bình Minh ra đời vào thế kỷ 19. Hệ thống Thelema được ứng dụng trong Thạch Lý Học thông qua mối liên hệ với Sinh Thụ (Tree of Life), một lý thuyết của người Do Thái ra đời cùng thời với Kinh Cựu Ước. Hệ thống dựa trên các sách tương ứng do sự đóng góp của nhiều nhà huyền học khác nhau: McGregors Mathers, Paul Foster Case… đặc biệt được tổng hợp trong cuốn Kinh Liber 777.
Ở Việt Nam, thuyết Thelema hầu như chưa bao giờ được nhắc đến trong tất cả các sách về Thạch Lý Học đã xuất bản. Tuy nhiên, rất nhiều tài liệu về huyền học phương tây do những du học sinh tại Hải Ngoại được đăng trên các trang mạng, sử dụng hệ thống này của Thelema.
Thuyết Thelema cho rằng Anorthite thuộc Tiferet ("Adornment", Hebrew: תפארת
[tifʔeʁeθ]) thay thế Tifaret, Tifereth, Tyfereth hoặc Tiphereth, là sefira thứ
sáu trong Cây Sự Sống. Nó có sự kết hợp chung của "tâm linh",
"cân bằng", "hòa nhập", "sắc đẹp", "phép
lạ", và "từ bi". Trong Bahir, có nói: "Thứ sáu là ngày
tuyệt đẹp, vinh quang, ngôi nhà của thế giới phải đến. Vị trí của nó được khắc
bằng trí tuệ như đã nói" Thiên Chúa nói: Hãy chiếu sáng, và được chiếu
sáng". Tiferet là Sefirah nguồn lực tích hợp của Chesed ("từ
bi") và Gevurah ("sức mạnh, hoặc là phán quyết (din)"). Hai lực
này đối nhau, một là mở rộng (cho đi) và hai là thu hẹp (tiếp nhận). Cả hai
nguồn trong số chúng nếu không có nguồn kia thì không thể biểu lộ được luồng
năng lượng của Thiên Chúa; họ phải được cân bằng trong tỷ lệ hoàn hảo bằng cách
cân bằng lòng trắc ẩn với kỷ luật. Sự cân bằng này có thể được nhìn thấy trong
vai trò của Tiferet, trong đó các nguồn lực xung đột được hài hòa, và sáng tạo
ra hoa cùng những thứ khác. Tiferet cũng cân bằng Netzach và Hod một cách tương
tự. Trong trường hợp đó Hod có thể được xem như là trí tuệ mà Netzach được coi
là cảm xúc.
Tiferet là Sefirot duy nhất trong các Sephirot được kết nối với tất cả các
Sephirot khác (ngoại trừ Malkuth) thông qua các đường dẫn chủ quan của vô thức.
Vị trí trung tâm giữa Keter và Yesod cho thấy rằng nó là một phần của
"chuyển đổi" Sephirot giữa hình thức (Yesod) và nguồn lực (Keter).
Nói cách khác, tất cả các kết nối trung gian thông qua Tiferet đều cho ra kết
quả đối lập. Luật bảo toàn năng lượng và khối lượng có xu hướng chứng minh điều
này - trong tất cả các trường hợp biến đổi năng lượng, một sự hy sinh là cần
thiết để có thể sinh ra một dạng mới. Tiferet là trung tâm của cây. Năm Sefirot
bao quanh nó: phía trên là Chesed ở phía bên phải (phía nam) và Gevurah ở bên
trái (phía bắc), bên dưới là Netzach bên phải, Hod ở bên trái, và Yesod ngay
bên dưới. Cả sáu chiếc này đều là một thực thể duy nhất, Zer Anpin, đại diện sự
nam tính đối lập Sefira mang nữ tính Malkuth.
Thuyết Reiki (Linh Khí), dựa
trên sự kết hợp của hệ thống Kinh Lạc trong Y Thuật Trung Hoa, hệ thống Luân Xa
trong Y Thuật Ấn Độ và thuyết Ngũ Hành trong thạch học, dùng trong xoa bóp, ấn
huyệt, được đề xuất bởi Mikao Usui năm 1922. Nếu hệ thống luân xa thật sự ít
khi được áp dụng trong Reiki thực hành, hệ thống Kinh Lạc lại được sử dụng
trong ấn huyệt rất rộng rãi. Kinh lạc là đường khí huyết vận hành trong cơ thể,
đường chính của nó gọi là kinh, nhánh của nó gọi là lạc, kinh với lạc liên kết
đan xen ngang dọc, liên thông trên dưới trong ngoài, là cái lưới liên lạc toàn
thân. Kinh lạc phân ra hai loại kinh mạch và lạc mạch.Trong kinh mạch gồm chính
kinh và kỳ kinh, chính kinh có mười hai sợi, tả hữu đối xứng, tức thủ túc tam
âm kinh và thủ túc tam dương kinh, gọi chung mười hai kinh mạch, mỗi kinh thuộc
một tạng hoặc một phủ. Kỳ kinh có tám sợi, tức đốc mạch, nhâm mạch, xung mạch,
đái mạch, âm duy mạch, dương duy mạch, âm kiểu mạch, dương kiểu mạch. Thông thường
nhắc đến mười hai kinh mạch và thêm vào hai mạch nhâm đốc gọi chung mười bốn
kinh mạch chính. Bệnh tật đều do sự vận hành bế tắc của khí luân chuyển trong
12 kinh mạch này, nếu được khơi thông, ắt sẽ hết bệnh tật. Y Tông Tâm Lĩnh bàn
về Kinh Lạc nói, mười hai kinh lạc, có Thủ thái âm phế kinh (手太阴肺经) thuộc
về hành Kim, Thủ thiếu âm tâm kinh ( 手少阴心经) thuộc về hành Hỏa, Thủ quyết âm tâm bào kinh (手厥阴心包经) thuộc
về hành Hỏa, Thủ thiếu dương tam tiêu kinh (手少阳三焦经) thuộc về hành Hỏa, Thủ thái dương tiểu tràng
kinh (手太阳小肠经) thuộc
về hành Hỏa, Thủ dương minh đại tràng kinh (手阳明大肠经) thuộc về hành Kim), Túc thái âm tỳ kinh (足太阴脾经) thuộc
về hành Thổ, Túc thiếu âm thận kinh (足少阴肾经) thuộc về hành Thủy, Túc quyết âm can kinh (足厥阴肝经) thuộc
về hành Mộc, Túc thiếu dương đảm kinh (足少阳胆经) thuộc về hành Mộc, Túc thái dương bàng quang kinh (足太阳膀胱经) thuộc
về hành Thủy, Túc dương minh vị kinh (足阳明胃经) thuộc về hành Thổ. Mỗi mạch lại ứng những bệnh lý khác
nhau. Cách sử dụng truyền thống là dùng đá phù hợp làm thành cây ấn huyệt để trị
liệu khơi thông kinh mạch, giống với châm cứu. Cụ thể: Lục và Lam thuộc Mộc, Đỏ
và Cam thuộc Hỏa, Vàng và Trong thuộc Thổ, Trắng và Xám thuộc Kim, Đen và Tím
thuộc Thủy.
Ở Việt Nam, hầu như không có tài liệu về môn này hoặc tài liệu về Reiki từng được xuất bản, tuy nhiên, nhiều học giả cho biết đã từng có sách về môn này xuất bản trước 1975 mà chúng tôi chưa có dịp khảo cứu được.
Đá Anorthite trong hành Kim và
thuộc vào Kinh Thủ Thái Âm Phế, Kinh Thủ Dương Minh Đại Tràng.
Kinh Thủ Thái Âm Phế liên quan
đến các triệu chứng hố trên đòn đau, đau kịch liệt thì hai tay bắt chéo ôm ngực,
mắt tối sầm, tim loạn lên, mặt trong chi trên đau, ngực phổi đầy tức, ho, suyễn,
khó thở, khát, tiểu rắt, tiểu vàng, ngực bồn chồn, gan tay nóng, nếu cảm phong
hàn có sốt, gai rét, có hoặc không có mồ hôi, sốt, bệnh ở phổi, ngực, họng, khí
huyết ứ trệ, tiểu ít khó, có tác dụng hành khí hoạt huyết, lợi tiểu. Ví dụ như
huyệt Khồng Tối (Huyệt khích) liên quan đến ho hen, ho ra máu, viêm họng, mất
tiếng, đau do viêm quanh khớp vai, đau cánh tay, không co duỗi được cánh tay.
Liệt Khuyết (Huyệt lạc nối với kinh Dương minh ở tay. Huyệt Giao hội của mạch
Nhâm với kinh Phế) liên quan đến sưng cổ tay, đau cẳng tay, ho, đau ngực, tiểu
vàng, tiểu nhiều lần, tiểu khó, đau họng,các bệnh ở cổ gáy. Kinh Cừ (Huyệt kinh
thuộc Kim) liên quan đến sưng, đau cổ tay, ho, đau họng, đau ngực, sốt không ra
mồ hôi. Ví dụ như huyệt Thái Uyên (Huyệt Du thuộc Thổ, Huyệt Nguyên, Huyệt Hội
của mạch) liên quan đến đau cổ tay, đau phía trước ngoài cẳng tay, cánh tay,
đau vai có kèm theo đau ngực. Ho ra máu,hen suyễn, ho gà, đau sưng họng.
Ngư Tế (Huyệt Huỳnh thuộc Hỏa) liên quan đến đau bàn tay, nóng bàn tay, ho, ho
ra máu, sốt, đau đầu, đau sưng họng. Thiếu Thương (Huyệt Tỉnh thuộc Mộc) liên
quan đến đau ngón tay, ngón tay co rút, ho, khí nghịch, trúng phong, hôn mê, sốt
cao, co giật, đau họng, sưng hàm, sưng lưỡi, chảy máu mũi.
Kinh Thủ Dương Minh Đại Tràng liên quan đến các triệu chứng cổ sưng, răng hàm dưới, vai, cẳng tay đau; ngón trỏ, cái khó vận động. Nếu tà khí ở kinh thịnh, có thể sưng đau. Nếu kinh khí suy, sợ lạnh ở chỗ đường kinh đi qua, mắt vàng, mồm khô, đau họng, chảy máu mũi, bụng đau, sôi bụng. Nếu hàn: tiêu chảy. Nếu nhiệt: tiêu nhão, dính hoặc táo bón. Tà khí thịnh, sốt cao có thể phát cuồng. Ở đầu, mặt, tai, mắt, mũi, răng, họng, ruột và sốt. Ví dụ như huyệt Thương Dương (Huyệt Tỉnh thuộc Kim) liên quan đến ngón tay tê hoặc co giật, đau vai kèm đau hố trên đòn, đau họng, đau răng,sưng đau hàm, hoa mắt, điếc tai, ù tai, trúng phong hôn mê, sốt không ra mồ hôi. Nhị Gian (Huyệt Huỳnh thuộc Thủy) liên quan đến đau bàn tay, ngón tay, đau cánh tay, đau vai, đau họng, đau răng, sưng hàm, méo mồm, chảy máu mũi, hoa mắt, sốt nóng. Tam Gian (Huyệt Du thuộc Mộc) liên quan đến sưng đau ngón tay, bàn tay, đau răng, đau hàm dưới, đau bụng, đau mắt cấp. Ví dụ như các huyệt Thiên Đỉnh liên quan đến hầu họng sưng đau, khản tiếng, ăn nghẹn, lao hạch. Phù Đột họng sưng đau, khản tiếng, ăn nghẹn, lao hạch, ho, hen suyễn. Hòa Liêu chảy máu mũi, ngạt mũi, méo mồm. Nghênh Hương (Huyệt Hội của các kinh Dương minh ở tay và ở chân) ngạt mũi, chảy nước mũi, chảy máu mũi, liệt mặt.
Thuyết Bát Quái Kinh Dịch (Iching Therapy), mặc dù được lấy từ lý thuyết của châu Á, nhưng việc áp dụng nó vào thạch lý học thì lại do các nhà huyền học Nga, gần gũi với lý thuyết Thông Thiên Học, ra đời vào những năm 1980. Ở Việt Nam, thuyết này ít được phát triển, đại diện chỉ có Ts Hoàng Thế Ngữ, Chủ Tịch Hội Đá Quý Việt Nam, tốt nghiệp tại Nga, dùng trong cuốn Đá Quý Việt Nam, nhưng chỉ dùng cấu trúc hình thái tinh hệ để luận. Cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, tuy có dẫn ra phép Bát Quái, nhưng lại chỉ dựa trên màu sắc của Ngũ Hành để luận. Cả hai đều rất sơ khai. Dựa vào hình thái tinh hệ của tinh thể gồm tám loại, được phân định thành tám quái thuộc nội quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập Phương (cubic) ứng Càn , Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam Phương (rhombohedral) ứng Ly, Lục Phương (hexagonal) ứng Đoài, Tam Tà (triclinic) ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic) ứng Tốn, Phi Tinh (noncrystallinic) ứng Khôn. Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng khác: Lập Phương ứng Càn, Tam Tà ứng Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn, Tam Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở đây chỉ trình bày thuyết của Thông Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm tám màu, ứng với tám quái thuộc ngoại quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính, đều nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ nhất được trình bày trong I-ching: Binary Numbers, Astrology, And Chakras, dựa trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng, đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ, Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành ứng bát quái cho rằng: Càn ứng dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn ứng cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề xuất dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam, Cấn ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại quái tương ứng với hình dạng và màu sắc của tinh thể, từ đó tính ra được quái trong 64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại ứng một bộ phận cơ thể theo y lý trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể.
Ở Việt Nam, thuyết này ít được phát triển, đại diện chỉ có Ts Hoàng Thế Ngữ, Chủ Tịch Hội Đá Quý Việt Nam, tốt nghiệp tại Nga, dùng trong cuốn Đá Quý Việt Nam, nhưng chỉ dùng cấu trúc hình thái tinh hệ để luận. Cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, tuy có dẫn ra phép Bát Quái, nhưng lại chỉ dựa trên màu sắc của Ngũ Hành để luận. Cả hai đều rất sơ khai.
Theo thuyết Bát Quái Kinh Dịch, đá Anorthite có màu trắng ngà tương ứng quẻ ngoại quái Càn, có tinh hệ Tam Tà tương ứng quẻ nội quái Cấn, ghép lại chính là quẻ quái số 33: quẻ Thiên Sơn Độn. Quái 33 ứng với vị trí má trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên quan đến vị trí đầu như viêm xoang mũi, đau đầu căng cơ, dị dạng động mạch não, thiếu máu não. Quẻ Thiên Sơn Độn có nghĩa Độn là lui tránh, nó là quẻ hai khí Âm lớn dần, khí Dương nên lui tránh, cho nên là trốn, tức là quẻ thuộc về tháng sáu. Quẻ Độn là lúc Âm lớn Dương tiêu, đấng quân tử trốn nấp. Đấng quân tử lui nấp, là để làm cho đạo của mình thẳng ra. Đạo không bị khuất thì là hanh, cho nên quẻ Độn có nghĩa hanh. Trong việc, cũng có khi vì sự trốn lánh mà hanh thông, dẫu là lúc đạo kẻ tiểu nhân đương lớn, đấng quân tử biết cơ lui tránh vẫn phải, nhưng mà việc đời có lúc không giống nhau, phải tuỳ theo thời thế, không cần phải ắt như nhau. Âm mềm đương lớn mà nó chưa đến thịnh lắm, đấng quân tử cũng có cách từ từ ra sức, tuy không thể trinh lớn mà còn lợi cho sự trinh nhỏ vậy, người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy.
Thuyết Phật Giáo Mật Tông là phái phật giáo duy nhất có ứng dụng trong Thạch Lý Học. Lý thuyết dựa trên hình ảnh của Ngũ Trí Như Lai và Tử Thư. Ngũ Phật còn gọi là Ngũ Trí Như Lai, Ngũ Trí Phật, Ngũ Phương phật, hay còn được gọi Ngũ Thiền Định Phật; là tên gọi chỉ năm vị Phật trong Mật Tông, lấy Đại Nhật Như Lai làm chủ tôn, có sự khu biệt giữa Ngũ Phật giới Kim Cương và Ngũ Phật giới Thai Tạng. Năm đức Phật này đại diện cho 5 phẩm chất của con người và tạo ra sự tuyệt mỹ và hay nhất để phá bỏ những sai trái trong 5 phẩm chất đó. Mỗi đức Phật là một con đường tuyệt diệu để đi đến cảnh giới Niết Bàn và Vô sanh. Tu theo những vị đó sẽ mau chóng vào được cung điện Niết Bàn. Ngũ trí Như Lai là 5 vị Phật tối cao của Phật giáo Tây Tạng. Năm vị phật này đại diện bởi năm màu, gọi là Ngũ Sắc Trí (pancha-varna): Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairochana) đại diện bởi màu trắng và tím, A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya) đại diện bởi màu lam và đen, Bảo Sanh Như Lai (Ratnasambhava) đại diện bởi màu vàng và cam, A Di Đà Như Lai (Amitabha) đại diện bởi màu đỏ và hồng, Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi) đại diện bởi màu lục. Nitin Kumar căn cứ vào kinh điển Chandamaharosana Tantra dẫn ra những quy tắc sử dụng màu săc trong mật tông, đáng chú ý cho rằng: màu lam đại diện cho phẫn nộ tướng ứng vị trí tai, màu vàng đại diện cho sinh dưỡng tướng ứng vị trí mũi, màu đỏ đại diện cho vô úy tướng ứng miệng, màu lục đại diện cho uy đức tướng ứng vị trí đầu. Trong Tử Thư Tây Tạng cũng tuyên về màu sắc tương ứng lục đạo: ánh sáng trắng là của cõi trời, ánh sáng đỏ là của cõi Atula, ánh sáng lam là của cõi người, ánh sáng lục là của cõi súc sanh, ánh sáng vàng là của cõi quỷ đói, ánh sáng xám là của cõi địa ngục.
Ở Việt Nam, thuyết này hầu như
chưa bao giờ được nhắc đến trong các sách Thạch Lý Học đã xuất bản. Tuy nhiên một
số kinh sách về ngũ sắc trí đã được dịch và xuất bản những năm gần đây như Đại
Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe Trong Bardo của Guru Rinpoche, Những Giáo Pháp Bí
Mật Của Tử Thư Tây Tạng của Detlef Ingo Lauf.
Đá Anorthite có màu trắng, là bổn
sắc của Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairochana). Ngài là sự chuyển hóa của vô minh
thành trí huệ. Màu trắng đại diện cho thanh tịnh tướng ứng với mắt. Đeo
Anorthite sẽ được Tỳ Lô Giá Na Như Lai Phật hộ trì, hỗ trợ về mắt và sự tinh
anh. Vì đây cũng là màu của cõi trời, đá Anorthite được coi là bùa hộ về sắc dục,
giúp thoát khỏi các nguy hiểm về sắc dục. Tử Thư nói về màu trắng như sau:
Phật Tỳ Lô Giá Na hiện thân ở dạng có bốn mặt cùng lúc nhận biết tất cả
các phương hướng. Ngài có màu trắng bởi vì sự nhận biết đó không cần sự pha màu
nào cả, đích thị là màu chánh gốc, màu trắng. Ngài đang cầm một bánh xe có tám
nan hoa, nó thể hiện sự vượt lên trên mọi nhận thức về phương hướng và thời
gian. Toàn bộ sự biểu tượng hóa Ngài Phật Tỳ Lô Giá Na thể hiện khái niệm của
cái thấy không gian toàn cảnh cùng khắp; cả hai: trung tâm và chu vi đều có khắp
nơi. Đó là sự mở toang trọn vẹn của thức, siêu việt khỏi thức uẩn. Vượt lên
trên sắc uẩn là những tia sáng có hình như cái gương, màu trắng, lấp lánh, rõ từng
chi tiết, chiếu ra từ tim của Phật Kim Cương Tát Đỏa. Phật Mẫu mặc áo choàng trắng
– liên tưởng đến sự hình tượng hóa câu chuyện thần thoại Ấn Độ về loại quần áo
được dệt bằng sợi làm bằng đá, chỉ được tẩy sạch bằng lửa. Phật Mẫu
Pandaravasini thể hiện bản chất của lửa là tiêu hủy mọi thứ và cũng là kết quả
của quá trình tiêu hủy, sự tịnh hóa, lòng đại bi vẹn toàn. Tiến trình trọn vẹn
của trí đại bi có ánh sáng và nhịp điệu, nó có trí huệ sâu sắc và sự hiệu quả sắc
nét, và nó có bản chất tịnh hóa của vị Phật Mẫu Gita mang áo choàng trắng cũng
như bản chất soi sáng đến vô tận của Phật A Di Đà. Vị gauri áo trắng nhảy múa
quanh một tử thi, bà muốn dập tắt tiến trình các niệm, cho nên bà ta cầm một
tích trượng làm bằng thi thể một đứa bé. Thông thường, một thi thể tượng trưng
trạng thái vô ký căn bản của chúng sanh; một thi thể đã không còn sống là một
thể không còn những niệm được khởi lên nữa, chẳng có niệm thiện, niệm ác – đó
là trạng thái bất nhị của tâm. Cùng lúc, có ánh sáng trắng êm dịu của chư thiên
cũng sẽ hướng về con. Vào ngày thứ hai, một ánh sáng trắng, thành phần tinh khiết
của nước sẽ chiếu sáng. Ánh sáng trắng của sắc uẩn trong tánh thanh tịnh căn bản
của nó là Đại Viên Cảnh Trí (trí huệ giống như cái gương), thứ ánh sáng trắng
chói chang, quang minh, trong suốt, từ tim của Phật Kim Cương Tát Đỏa. Pháp giới
thể tánh trí, đó là một tấm vải đan bằng các tia ánh sáng trắng quang minh, rực
rỡ đáng kinh ngạc, từ tim của đức Phật Tỳ Lô Giá Na. Pháp giới thể tánh trí, đó
là một tấm vải đan bằng các tia ánh sáng trắng quang minh, rực rỡ đáng kinh ngạc,
từ tim của đức Phật Tỳ Lô Giá Na
Nơi tìm ra đá:
Các địa phương có thề tìm thấy
loại đá này là Monte Somma và Valle di Fassa, Ý. Anorthite có thể tìm thấy loại
đá này ở nhiều nơi khác trên thế giới, châu Mỹ (Hoa Kỳ, Canada, Brazil,…) châu
Âu (Pháp, Đức,…) Châu Á (Ấn Độ, Trung Quốc,…) và nhiều nơi khác.
Lời cảm ơn: bài
viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến sĩ
Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu tập
Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng
Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments