Apatite




Apatite
磷灰石 - Lân Khôi Thạch



Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị Liệu, Thạch Học Trị Liệu dịch từ chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ. Lithotherapy phân thành Litho đến từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá, therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ] tức là chữa trị, lithotherapy tức là chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với đá ở ngoài da. Lithotherapy là một môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận huyền học và thần bí học. Mặc dù có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả năng của nó, đã được ứng dụng từ lâu trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại, nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức màn bí mật của những điều thần kỳ giống như nền Đông Y của người Trung Quốc hay Nam Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc biệt trình bày về những lý luận căn bản trong Thạch Lý Học đối với Apatite, nằm trong chuỗi khảo cứu, viết riêng cho tuần báo UNESCO.


Giới thiệu đá: Apatite có tên gọi bắt nguồn từ từ tiếng Pháp Apatite, còn được viết là a-pa-tít, là một nhóm các khoáng vật phosphat bao gồm các thành phần như hidroxylapatit, floroapatit và cloroapatit. Hidroxylapatit là thành phần chủ yếu tạo thành men răng. Floroapatit có khả năng chống lại sự tấn công của axit tốt hơn hidroxylapatit, vì vậy trong thành phần của kem đánh răng có chứa một lượng các ion flo dưới dạng natri florua hoặc natri monofloroapatit. Khoáng chất được đặt tên là Apatite bởi nhà địa chất Đức Abraham Gottlob Werner năm 1786, nhưng khoáng mà ông mô tả được phân loại lại thuộc nhóm fluorapatite vào năm 1860 bởi nhà khoáng vật học người Đức Karl Friedrich August Rammelsberg. Trong tiếng Hán Apatite được gọi là Lân Khôi Thạch (磷灰石) trong đó Lân  ám chỉ lân tinh, Khôi có nghĩa là giống đá vôi. Vì loại đá khi được tìm thấy rất giống đá vôi và phát quang giống đá lân tinh. Apatit là một khoáng chất thường bị nhầm lẫn với các khoáng chất khác. Việc này đã được nói lên trong tên của khoáng vật, được bắt nguồn  từ Hy Lạp απατείν (apatein), có nghĩa là lừa dối hoặc gây hiểu nhầm. Apatite màu vàng có khả năng tác động đến toàn bộ cơ thể. Đặc biệt, nó có tác động đến đám rối dương. Giống với Aquamarine, Apatite có tác động đến cơ quan hô hấp qua đó tác động tốt đến họng và thanh quản. Nó còn cò tác dụng tốt lên tuyến giáp. Cùng với Pha lê, Apatite giúp điều hòa tình trạng thể lực. Apatite màu xanh da trời giúp làm giảm cơn giận dữ, tạo cho người đeo nó trạng thái bình yêu và lơ mơ buồn ngủ, vì vậy nó được gọi là “đá bình yên”. Apatite màu xanh lá giúp tạo ra trạng thái hưng phấn và trau dồi quan điểm lạc quan.


Với cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh, thì Apatite được sử dụng chủ yếu trong phong thủy và trong trị liệu, ít được dùng làm trang sức bởi Lân thạch dễ bị ăn mòn và dễ vỡ. Lân thạch có tác dụng  khuyếch đại nguồn năng lượng, giúp bạn cảm thấy an toàn và bình tĩnh hơn. Lân thạch còn cho bạn sự tự tin, giúp giấc mơ thành sựu thật không sợ khó, không sợ cản trở. Ngoài ra, nếu bạn đang cảm thấy khó khăn trong việc giảm cân thì Lân thạch có thể giúp bạn. Đặc biệt, năng lượng Lân thạch cho bạn sự tươi trẻ, Lân thạch có khả năng tác động lên các tế bào bé nhỏ đưa tế bào trở lại trạng thái hoạt động tốt. Theo như Anthony C.Dweck với cuốn Minerals Earths Metals Semi Precious Stones And Gems In Personal Care Products, thì Apatite có khả năng để phòng chống các bệnh về viêm nhiễm virus, Apatite còn cải thiện khả năng giao tiếp. Còn với cuốn Crystal Therapy Healing Chart của Crystal Angel, thì Apatite giúp chữa các bệnh về xương, các bệnh liên quan đến khớp, nó giúp hấp thụ canxi tốt hơn có lợi cho răng, xương và cơ thể tốt hơn trong khả năng vận động. Apatite là hòn đá đầy cảm hứng, phù trợ về mặt tâm linh và tình thần. Đối với cuốn Tableau des Pierres của Annonymous, thì Apatite có tác dụng chống bệnh viêm tai giữa, làm chậm quá trình của bệnh loãng xương. Về mặt tinh thần, Apatite giảm nổi buồn và kích thích ham muốn. 

Giới thiệu các thuyết: Giá trị thạch lý học của Amethyst được trình bày thành các thuyết cơ bản: thuyết Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học (Chromotherapy), thuyết Linh Khí (Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves), thuyết Thái Lặc Mã (Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết Hoa Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié).

Thuyết Đông Phương Bản Mệnh có nhiều  luận thuyết khác nhau. Theo phép tính theo năm, Phương Đông dựa trên Can Chi, lập luận dựa trên ngũ hành, phối màu tạo nên bộ hoa giáp sắc pháp. Từ Giáp Tý là sắc đỏ ban mai, chuyển dần cho đến Quý Hợi là sắc tím trời khuya, tạo nên hơn 60 màu khác nhau. Theo phép tính theo tháng, người ta căn cứ vào địa chi của tháng sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần, tháng 2 là Mão, tháng 3 là Thìn, tháng 4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi, tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu, tháng 9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu, cùng phối hợp với ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng dùng đá có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ thuộc Hỏa (ứng dùng đá có tông màu cam đỏ hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có tông màu trắng, xám, ánh bạc), Tý Hợi thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu đen, chàm, tím), Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ (ứng dùng đá có tông màu vàng, trong, ánh kim). Thuyết về tháng bản mệnh này được dùng nhiều rộng rãi vì đơn giản, dễ tính ra. Ở Việt Nam, cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh đều có nói đến thuyết này. Tuy nhiên, sự phân định màu sắc và ngũ hành không giống nhau. Ví dụ như Ts Hoàng Thế Ngữ trong cuốn Đá Quý Việt Nam đưa ra Hỏa ứng màu đỏ, Thủy ứng màu xanh, Thổ ứng màu nâu, Mộc ứng màu lục, Kim ứng màu vàng trắng đen. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định khác Hỏa ứng màu đỏ hồng tím, Thủy ứng màu đen sẫm, Thổ ứng vàng nâu, Mộc ứng lam lục, Kim ứng trắng bạc.

Thuyết Bản Mệnh phương đông xếp loại đá này vào năm Quý Dậu, thuộc Thủy Cục, về Âm Phần. Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Quý Dậu sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu đỏ hồng, thuộc về hành Hỏa, ứng về tháng Tỵ Ngọ, tức tháng 4, 5.

Thuyết Tây Phương Bản Mệnh là thuyết rất cơ bản của Thạch Lý Học Phương Tây, dựa trên Cung Hoàng Đạo, mười hai cung mỗi cung chủ chế một màu, tùy vào ngày bản sinh mà màu sắc đậm nhạt khác nhau theo thời gian, từ đó luận về đá bản sinh (Birthstones) được dùng nhiều trong văn hóa phương tây. Mặc dù vậy, hầu hết các tài liệu đều xếp tương đối bất đồng, từ thế kỷ 16 trở đi, hầu hết không được thống nhất. Ở đây, chỉ trích dẫn những quan điểm được công nhận rộng rãi. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo tháng như sau: tháng một màu đỏ cam, tháng hai màu tím tươi, tháng ba màu xanh lam, tháng tư màu trắng trong, tháng năm màu lục đen, tháng sáu màu trắng đục, tháng bảy màu đỏ tươi, tháng tám màu xanh chuối, tháng chín màu xanh lá, tháng mười màu đen, tháng mười một màu vàng, tháng mười hai màu chàm. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo hoàng đạo như sau: Bạch Dương màu xanh đen, Kim Ngưu màu xanh dương đậm, Song Tử màu trắng trong, Cự Giải màu xanh lá mạ, Sư Tử màu đen, Xử Nữ màu cam, Thiên Bình màu lục nhạt, Thiên Yết màu lam, Nhân Mã màu vàng, Ma Kết màu đỏ tươi, Bảo Bình màu đỏ sậm, Song Ngư màu tím. Thuyết bản mệnh Phương Tây được ứng dụng rộng rãi trong đời sống từ thế kỷ 18, có tương đối nhiều các dị biệt tùy vào sách. Ở Việt Nam, thuyết này cũng được sử dụng khá nhiều, nhưng không hiểu vì sao trong tất cả các cuốn Thạch Lý Học của Việt Nam, ngoại trừ cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc và cuốn Tất Cả Về Khoáng Vật Chữa Bệnh Mầu Nhiệm (dịch của Jasper Stones của Nga), đều không nhắc đến thuyết này.

Đá này màu đỏ hồng được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng một, mùa xuân và xếp vào đá bản mệnh của cung Ma Kết, thuộc hệ Đất. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 22 tháng 12 đến 20 tháng 1 hằng năm, hoặc vào tháng 1 thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này.

Thuyết Quang Lý Học (Chromatherapy) được ra đời rất lâu từ giả kim thuật, nhưng chính thức định hình đặt tên bởi tiến sĩ Christian Agrapart. Thạch Lý Học sử dụng lại thuật ngữ này, nhưng không sử dụng liệu pháp ánh sáng như Agrapart mà lý luận dựa trên màu của loại đá. Nó gồm một phần nghiên cứu về màu sắc trong y học của Agrapart và một phần nghiên cứu về màu sắc trong tâm lý học. Màu sắc trong tâm lý học đã được nghiên cứu lâu đời như bảng phân chia màu sắc và tâm trạng "rose of temperaments" (Temperamenten Rose) của Goethe và Schiller (1798). Nhưng nghệ thuật này chỉ thăng hoa nhờ nghiên cứu của Carl Jung khi ghép tính biểu tượng của màu sắc vào tâm lý con người. Từ đó, những người nghiên cứu sau này sử dụng sự tương ứng màu sắc đó trong viên đá và đặt nền tảng lý thuyết cho Thạch Lý Học. Dựa vào bảng màu sắc đó, cho phép gợi ý đến tác động chữa bệnh hoặc lên tinh thần con người.

Ở Việt Nam, thuyết Quang Lý Học này cũng được sử dụng rộng rãi. Hầu hết các sách đều có đề cập trừ cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Trong đó cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh có thể coi là chi tiết nhất về thuyết này.

Thuyết Quang Lý Học (Chromatherapy) cho rằng màu hồng đại diện cho sức mạnh và bảo vệ. Màu hồng đã được mô tả trong văn học từ thời cổ đại. Khoảng 800BCE, Trong Odyssey, đã được ghi chép lại "Then, when the child of morning, rosy-fingered dawn appeared...". Một số nhà thơ La Mã cũng được sơn màu này. Roseus là từ Latin có nghĩa là "hồng" hoặc "màu hồng". Loại đá này tăng cường khả năng chiến đấu, bảo vệ sức mạnh và sự bền bỉ, tác dụng phát triển dành cho những người yếu đuối, hoặc những người hung hãn nhằm tăng hay giảm bớt sức mạnh để điều hòa cơ thể. Dành cho những người trong các ngành nghề liên quan cơ bắp như công nhân, nông dân, người lao động hoặc các ngành liên quan hoạt động thể chất như thể thảo, vận động viên, thể hình viên,...

Thuyết Luân Xa (Chakra) được trình bày trong trào lưu Thời Đại Mới (New Age) bởi các lãnh tụ Thông Thiên Học như Johann Georg Gichtel, hoặc Yoga như Swami Sivananda. Vẫn vận dụng chủ yếu là màu sắc của viên đá, được dịch nghĩa theo hình ảnh các luân xa trong văn hóa Ấn Độ trong Áo Nghĩa Thư. Từ nguyên thủy trong tiếng Sanskrit cakra mang ý nghĩa là "bánh xe" hay "vòng tròn", các luân xa được miêu tả như là xếp thành một cột thẳng từ gốc của cột sống lên đến đỉnh đầu, liên quan tới một số chức năng tâm sinh lý, một khía cạnh của nhận thức, đánh dấu bởi một màu sắc nào đó. Chúng thường được hình tượng hóa bằng các hoa sen với số cánh khác nhau cho mỗi luân xa. Các luân xa được cho là đem lại năng lượng cho cơ thể và có liên quan đến các phản ứng của cơ thể, tình cảm hay tâm lý của một người, là các điểm chứa năng lượng sống (prana, cũng được gọi là shakti) lưu chuyển giữa các điểm đó dọc theo các đường chảy (gọi là nadis). Chức năng của các chakra là xoay tròn để thu hút vào năng lượng sống từ viên đá để giữ cân bằng cho sức khỏe về tâm linh, tâm lý, tình cảm và sinh lý của cơ thể.

Ở Việt Nam, thuyết Luân Xa được biết đến rộng rãi nhất trong số các thuyết về thạch lý học. Tất cả các sách đều có đề cập đến thuyết này trừ cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Sự nhận định cũng ít nhiều sai khác. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định Luân xa gốc ứng màu đỏ đen, luân xa xương cùng ứng màu cam phấn hồng, luân xa thái dương ứng màu vàng, luân xa tim ứng màu xanh lá, luân xa họng ứng màu xanh lam, luân xa trán ứng màu chàm tím, luân xa vương miện ứng màu trắng và tím nhạt.

Thuyết Luân Xa (Chakra) cho rằng loại đá này màu tím ứng với luân xa vương miện Sahasrara (hoa sen ngàn cánh). Chakra đỉnh đầu thường được coi là chakra nguyên thủy thứ bảy, theo hầu hết các tantric (hệ thống) yoga truyền thống. Sahasrara được mô tả như một hoa sen với 1.000 cánh hoa màu khác nhau. Những cánh hoa này được bố trí trong 20 lớp, mỗi lớp với khoảng 50 cánh hoa. Nó  gồm có một vòng tròn như mặt trăng, trong đó là một tam giác hướng xuống có chứa một bàn thờ bằng đá quý, với trăng lưỡi liềm phía dưới và chấm tròn ở trên. Bên trong chấm tròn là một chổ ngồi, gần đó là gurus, ở trên đó là những bước chân guru. Vị trí này được coi là rất quan trọng trong thực hành mật ngữ Tây Tạng của tinh thần yoga, nơi mà vị đạo sư hay vị thần thường được hình dung như thấy được hào quang rên đầu, ban phước lành cho bên dưới (ví dụ trong thiền Vajrasattva). Tương ứng là năng lực giúp tăng cường tư tưởng, nhận thức và suy nghĩ. Loại đá này cho tác động lên tuyến yên, nội tiết tố, não bộ. Từ đó mang lại tác dụng cải thiện điểm yếu trong tư tưởng nhận thức hay suy nghĩ. Dành cho những người bị căng thẳng thần kinh, hoặc có hoạt động trí não không tốt. Dành cho các ngành nghề liên quan đến việc suy nghĩ, tư duy như nhà nghiên cứu, nhà kinh doanh, xã hội chính trị gia... Theo cuốn “Tất cả vế khoáng vật chữa bệnh màu nhiệm” của Jasper Stone, ông cho rằng ảnh hưởng đến luân xa: Luân xa vùng họng: kiểm soát cơ quan hô hấp, họng, hệ thống thính giác và da, hoạt tính của luân xa này giúp tự khẳng định trong hoạt động xã hội về nghề nghiệp, điều khiển cảm xúc, giúp đem đến cảm giác mãn nguyện. Luân xa vùng đám rối dương: ảnh hưởng đến gan, lá lách và những cơ quan khác của hệ tiêu hóa; luân xa này có liên quan đến ý chí, chi phối cảm xúc và trí tưởng tượng.

Thuyết Hoa Giáp (Hwangap) dựa trên lý học phương đông, canh theo can chi bản mệnh của một người theo ngày tháng năm sinh, rồi tính sự xung khắc hay tương hợp trong ngũ hành. Từ đó đưa ra nguyên tắc vận dụng trong thạch học, nhờ vào ngũ hành trong khoáng thạch đối chế lại với bản mệnh, nhằm điều hòa bản thân. Thuyết Ngũ Hành quy định theo thiên can: Giáp Ất thuộc Mộc, Bính Đinh thuộc Hỏa, Mậu Kỷ thuộc Thổ, Canh Tân thuộc Kim, Nhâm Quý thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành quy định theo địa chi: Dần Mão thuộc Mộc, Ngọ Mùi thuộc Hỏa, Thân Dậu thuộc Kim, Hợi Tý thuộc Thủy, Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ. Từ thiên can, địa chi, quy định nên phối hành của bản mệnh: Mậu Thìn thuộc về Thổ phối Thổ,… Khoáng thạch được phân theo ngũ hành dựa trên màu sắc và hình dạng. Thuyết Ngũ Hành quy định màu sắc: Lục và Lam thuộc Mộc, Đỏ và Cam thuộc Hỏa, Vàng và Trong thuộc Thổ, Trắng và Xám thuộc Kim, Đen và Tím thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành quy định theo thể dạng: trụ và dài thuộc Mộc, nhọn và góc thuộc Hỏa, vuông và cân thuộc Thổ, cong và tròn thuộc Kim, uốn và lượn thuộc Thủy. Từ đó suy ra được phối hành của khoáng thạch: ví dụ Huyền Thiết Thạch (Hematite) đen có thể dạng khối tròn (Botryoidal) được xem là Thủy phối Kim. Thuyết Ngũ Hành quy định tương sinh như sau: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Thuyết Ngũ Hành quy định tương khắc như sau: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc. Dựa vào tương sinh tương khắc của Ngũ Hành để khắc chế hay phù trợ cho bản mệnh thông qua việc đeo những khoáng thạch khác nhau trên cơ thể.

Ở Việt Nam, thuyết Hoa Giáp (Ngũ Hành Can Chi) được trình bày trong hầu hết các sách về Thạch Lý Học, nhưng hầu hết chỉ dừng lại ở lý luận về màu sắc theo ngũ hành. Cá biệt có cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm là có nhắc đến thuyết này ứng dụng lý luận lên hình dạng của tinh thể, tuy nhiên không có khai triển đầy đủ. Thuyết này các phái đạo gia phong thủy khai thác và phát triển rất hoàn chỉnh, được trình bày tóm tắt như bên trên đây.

Thuyết Hoa Giáp cho rằng Lân Khôi Thạch thuộc về Hỏa (hồng đỏ) phối Hỏa (nhọn), tức Hỏa Cục. Do đó, Lân Khôi Thạch giúp khắc chế các bản mệnh Mộc-Thổ như Giáp Thìn, Giáp Tuất, Ất Mùi, Ất Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Lân Khôi Thạch cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Thổ (Hỏa sinh Thổ), gồm có mệnh thuộc Hỏa-Thổ và thuần Thổ: Mậu Ngọ, Kỷ Tỵ, Bính Thìn, Bính Tuất, Đinh Mùi, Đinh Sửu, Mậu Thìn, Mậu Tuất, Kỷ Mùi, Kỷ Sửu, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại ngọc này.

Thuyết Khí Tiết (Qìjié), dựa trên Ngũ Hành và sự vận hành của Khí Tiết tác động lên con người. Khí Tiết và Bản Mệnh không hòa hợp, tất sinh ra bệnh tật đau yếu. Bệnh tật chính là do tinh khí huyết trong cơ thể bị tổn mà nên, trong là lục phủ ngũ tạng, ngoài là thân thể tứ chi, đều có liên quan đến ngũ hành tương sinh tương khắc. Nếu can chi ngũ hành quá vượng, trong khi khí tiết bất hòa, tất nhiên gây bệnh cho người. Y lý phương đông nói về Thiên Can: Giáp chủ Gan, Ất chủ Mật, Bính chủ Ruột, Đinh chủ Tim, Mậu chủ dạ dày, Kỷ chủ Lách, Canh chủ ruột già, Tân chủ Phổi, Nhâm chủ Bàng Quang, Quý chủ Thận. Y Lý Phương Đông nói về Địa Chi: Tý bệnh về Sa Mang, Sửu bệnh về Bụng, Dần bệnh về Chân, Mão bệnh về Mắt, Thìn bệnh về Lưng, Tỵ bệnh về Mặt, Ngọ bệnh về Tim, Mùi bệnh về Ngực, Thân bệnh về Cổ, Dậu bệnh về Phổi, Hợi bệnh về Da. Sự hương thịnh hay suy tàn của ngũ hành trong khí tiết của thiên can địa chi đều có quan hệ. Người sinh vào bản mệnh Mộc quá vượng, tự khắc tỳ vị có bệnh, nếu nhằm ngay lúc ngày tháng thuộc về khắc tinh của Mộc thì bệnh phát.

Ở Việt Nam, thuyết Khí Tiết được trình bày tương đối cụ thể trong cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Các cuốn Thạch Lý Học khác hầu như không nhắc đến thuyết này.

Thuyết Ngũ Hành Khí Tiết nói, người có mệnh cục Hỏa (sinh vào ngày Bính Đinh, Tỵ Ngọ) gặp vào những năm tháng ngày thuộc Nhâm Quý, Tý Hợi (thuộc hành Thủy) thì bởi Thủy khắc Hỏa, sinh ra bệnh ở Ruột Tim, biểu hiện ở tiểu tràng và tâm kinh: câm đau miệng, co giật ngưng mủ, đậu mùa, ung nhọt, ghẻ lở, mặt đỏ, nóng nảy. Sách mệnh lý nói: mắt mờ, do Hỏa bị Thủy khắc chế, phải lấy Mộc giải độc, Lân Khôi Thạch thuộc Mộc, có tác dụng tốt cho thể trạng người Hỏa Cục, nhất là vào những ngày hay tháng Thủy thịnh (Nhâm Quý, Tý Hợi).

Thuyết Tứ Trụ (Sìzhù) có thể ứng dụng từ Bát Tự trong Thuyết Tứ Trụ để bổ cứu, dựa vào màu của đá để tương hỗ lấy mệnh. Chủ yếu dựa vào thiên can, lấy âm dương và ngũ hành của thiên can để tính lấy bốn phép Kiêu Ấn, Thực Thương, Tỷ Kiếp, Quan Sát và Tài, dụng vào địa chi mà thành Thập Thần. Từ đó luận ra được Nhật Can và Nguyệt Lệnh, dựa vào sự phối hợp của nó trong sinh thời mà dự biết lợi yếu của bản mệnh. Biết được lợi yếu của bản mệnh rồi, mới dùng ngũ hành trong đá ngọc mà điều hòa. Có sách viết: Nhật Can mạnh yếu cần có sự tương trợ của Nguyệt Lệnh. Trong trường hợp không có Nguyệt Lệnh hỗ trợ, các can chi trong trụ liền suy yếu. Có thể dùng phương pháp đá phong thủy để bổ cứu, điều hậu cho Nhật Can.


Ở Việt Nam, thuyết Tứ Trụ được sử dụng cực kỳ nhiều, tất cả các sách Thạch Lý Học tại Việt Nam đều có dẫn xuất như cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh , cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc. Tuy nhiên, có khá nhiều sai biệt giữa các sách với nhau về cách tính, điều này cũng dễ hiểu vì đây là ứng dụng tùy thuộc vào cách luận Tứ Trụ. Ở đây chỉ giữ lại một thuyết để thống nhất là sử dụng sách của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm.


Theo thuyết Tứ Trụ, đá ngọc thuộc mệnh Hỏa rất hạp với mệnh Mộc sinh vào ngày xuân,được nguyệt lệnh mà phần lớn là thân mạnh,vì vừa qua mùa đông lạnh,có chút lạnh lẽo,mượn Hỏa sưởi ấm cơ thể tự do phát triển vươn xa,có Thủy nuôi dưỡng sẽ sinh trưởng nhanh.Tóm lại,Mộc mùa xuân tốt nhất nên có Thủy,Hỏa đến điều hòa mới phát triển tốt.  Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Mộc sinh mùa thu,thông thường không được sự trợ giúp của nguyệt lệnh,Kim nặng quay quanh,phần lớn thuộc thân yếu. Nếu là Mộc mùa suy yếu,ưa được Hỏa tiết,Thổ dưỡng,Kim khắc không ưa Thủy đến tương trợ. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Hỏa sinh mùa thu. Hỏa mùa thu phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh mới có thể thịnh vượng, chuyển nguy thành yên bình đồng thời đạt được tài lợi, sẽ không bị khốn đốn. Nếu gặp Hỏa đến phù trì, có thể phát huy tài cáng, dựa vào nổ lực của bản thân có thể được thù lao xứng đáng. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Hỏa sinh mùa đông. Hỏa mùa đông phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh, nếu không Thủy vượng sẽ tiêu diệt Hỏa, mãi mãi khó có thể đứng dậy. Hỏa mùa đông thân yếu có Hỏa đến giúp thì Tỷ Kiếp khác Tài tinh, có thể nhìn thấy tiền tài phát triển thịnh vượng, nhưng duyên với vợ bạc, quan hệ không thân mật, hoặc vợ có tình trạng sức khỏe không tốt.  Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Thổ sinh mùa xuân. Mùa xuân thì Mộc tư lệnh đương quyền, Thổ ở chỗ tử tuyệt, hư phù không có lực, ưa Hỏa đến sinh trợ, kỵ Mộc đến khắc. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Thổ sinh mùa đông. Mùa đông, bên ngoài lạnh, bên trong ấm. Hỏa nhiều mà thịnh vượng thì quý khí hiển vinh. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa xuân. Mùa xuân, do vừa qua mùa đông vẫn còn chút khí lạnh, do đó Kim cần Hỏa sưởi ấm mới có thể loại bỏ khí lạnh mà được phú quý. Nếu Mộc thịnh vượng, Kim sẽ chịu tổn thương. Lúc này cần Kim đến phù trì. Nếu là thiếu Hỏa sưởi ấm thì Kim không thể phát huy tác dụng.


Thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy) đề xuất bởi bác sĩ Jacques Ménétrier và Gabriel Bertrand, vào giữa thế kỷ 20. Những người thực hành Thạch Lý Học áp dụng lý thuyết này trong việc trị liệu thông qua cơ sở giống như Thuyết Vi Lượng Đồng Căn (Homeopathy) của Samuel Hahnemann. Christian Friedrich Samuel Hahnemann (1755-1843), một nhà vật lý học, hóa học và y học người Đức, đã đưa ra một lý thuyết liên quan đến sự quan hệ yếu tố trong chứng và chất của cơ thể người, sau này phát triển thành hệ thống Vi Lượng Đồng Căn. Mỗi vi lượng trong đá được cho là sẽ tác động đến vi lượng tương ứng trong cơ thể người, và nhờ đó bộ phận chứa vi lượng đó được chữa khỏi. Mỗi viên đá, bằng vi lượng chứa trong nó, được tin là sẽ tác động lên phần sinh lý cơ thể, giúp gợi ý cho việc chữa bệnh hoặc tác động lên tinh thần. Các loại apatit này được gọi tên do trong thành phần tinh thể của chúng có chứa các ion OH-, F- và Cl-. Công thức chung của apatit thường được biểu diễn theo dạng nhóm thành phần như Ca5(PO4)3(OH, F, Cl), hoặc theo công thức riêng của từng loại khoáng vật riêng lẻ tương ứng như: Ca5(PO4)3(OH), Ca5(PO4)3F và Ca5(PO4)3Cl. Hidroxylapatit là thành phần chủ yếu tạo thành men răng. Trong thành phần của Apatite hồng có thành phần hóa học Ca5(PO4)3(F,Cl,OH).



Ở Việt Nam, thuyết Vi Lượng được nhắc đến duy nhất trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh, nhưng khá sơ khai, vì cho rằng đây là thuyết phức tạp, chuyên sâu. Các cuốn khác, hầu như không hề biết gì về thuyết này.


Thuyết Vi Lượng Trị Liệu cho rằng Nguyên tố Calcium (Ca) có số nguyên tử là 20, tỉ trọng Canxi trong cơ thể là 0.014 và khối lượng trung bình trong cơ thể người là 1kg đạt tỷ lệ là 0.22%. Tác động tích cực cho sức khỏe do Can xi là thành phần chủ yếu của răng và hệ xương, đặc biệt là trong các thành phần Calmodulin và Hydroxylapatite. Tác dụng lên hệ xương, chiều cao, sự vận động và phục hồi xương. Được coi là có tác dụng tốt cho chứng gãy xương, hay tăng chiều cao ở trẻ em. Được sử dụng nhiều cho các vận động viên, hoặc các ngành nghề cơ bắp. Nguyên tố Phosphorus (P) có số nguyên tử là 15, tỉ trọng trong cơ thể là 0.011, đạt khối lượng trung bình 0.78kg chiếm tỷ lệ 0.22%. Tác động tích cực cho sức khỏe do phốt pho là thành phần chủ yếu của răng và hệ xương, đặc biệt trong quá trình phosphorylation. Tác dụng lên hệ xương, chiều cao, sự vận động và phục hồi xương. Được coi là có tác dụng tốt cho chứng gãy xương, hay tăng chiều cao ở trẻ em. Được sử dụng nhiều cho các vận động viên, hoặc các ngành nghề cơ bắp. Nguyên tố Chlorine (Cl) là nguyên tố có số nguyên tử là 17, trong cơ thể người đạt 0.15 tỉ trọng và có khối lượng trung bình là 0.095kg chiếm tỷ lệ 0.024% trong cơ thể chúng ta. Tác động tích cực do Clo là thành phần tạo nên dịch ngoại bào. Tác dụng lên tế bào, hỗ trợ điều trị chung trong cơ thể. Nguyên tố Flourine (F) số hiệu nguyên tử là 9, đạt tỉ trọng trong cơ thể người là 0.034 và có khối lượng trung bình đạt 0.0026kg chiếm tỷ lệ là 0.0012% so với các nguyên tố khác. Tác động tích cực cho sức khỏe do có liên hệ với sự phát triển của răng. Tác dụng lên các chứng bệnh về răng như đau răng, sưng nướu, các bệnh răng vàng, hôi miệng.


Thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves) của Newlands ứng dụng trong giả kim thuật, cho phép tính toán sự liên hệ của khoáng chất trong đá và chiêm tinh,từ đó suy dẫn đến các ứng dụng của đá lên cơ thể con người. Vào năm 1864, John Alexander Reina Newlands (1837-1898), nhà hóa học người Anh, tìm ra quy luật bát bội: Mỗi nguyên tố hóa học đều thể hiện tính chất tương tự như nguyên tố thứ 8 khi xếp các nguyên tố theo khối lượng nguyên tử tăng dần. Điều này kích thích các nhà huyền học giả kim thuật vì giả kim từ lâu không thể tạo ra bất kỳ quy luật nào tương xứng phù hợp với khoa học hiện đại. Quy luật số 8 ứng với tám hành tinh (gồm cả trái đất) mà nền tảng của nó đã có từ lâu, và còn tương ứng nhiều hình thức tâm linh huyền học khác liên đới với con số 8 như Geomancy (bói đất). Từ đó người ta (mà nổi tiếng nhất là nhà huyền học George Ivanovich Gurdjieff, người cực kỳ yêu quý thuyết Law of Octaves) xây dựng nên hệ tính để tìm ra nguyên tố chủ đạo và hành tinh chủ đạo trong một viên đá. Từ đó, dẫn suy ra những đặc tính chữa bệnh hoặc tác động lên tinh thần.

Ở Việt Nam, hầu như không có sách nào đề cập đến thuyết này. Ngay cả ở những sách nước ngoài cũng rất hiếm gặp. Thường ở các sách huyền học như các tạp bản của George Gurdjieff, và người kế thừa dưới dạng các enneagram (bát tố đồ).

Thuyết Hài Hòa Bộ Tám cho rằng loại đá này mang yếu tố mộc tinh, vì vậy có tác động lên vùng bụng, gan, tuyến yên, lớp mỡ quanh eo, đùi. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến sự nghèo khó (suy dinh dưỡng) và cả giàu có (béo phì), các chứng liên quan đến bụng, gan (đau bụng). Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là trấn giữ các mối quan hệ của nhà chiêm tinh thứ 2 và 9: tài sản, tiền bạc (nhà Lucrum) và du hành, du lịch (nhà Iter). Dành hỗ trợ cho những người có vấn đề với tiền bạc hay gặp vận rủi, những người muốn đi du lịch, hay di cư không được xuông sẻ, thúc đẩy tiền bạc và thường xuyên du hành. tăng cường vật chất và sở hữu, đặc biệt là sự phát triển, thịnh vượng, may mắn, tự do, du hành, luật pháp, nhân đạo,... nhấn mạnh đến yếu tố giàu có vật chất. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố mộc tinh bảo trợ về địa lý và cấu trúc nói chung (Dante Alighieri). Vì vậy, đá này dành cho những người làm trong lĩnh vực liên quan đến các địa lý và du lịch như hướng dẫn viên du lịch, phi công, hoa tiêu, tài xế, cục địa dư, tàu hỏa, khảo cổ, xây dựng cầu đường ... Ngoài ra nó còn mang yếu tố của hỏa tinh với nguyên tố chủ đạo là nguyên tố Lửa. Vì vậy nó tác động lên hệ sinh dục, bộ phận sinh dục, tuyến thượng thận. Dành hỗ trợ cho những người có mối quan hệ đã nêu không được suông sẻ để cải thiện tình hình. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố hỏa tinh bảo trợ về toán và suy luận nói chung (Dante Alighieri). Dành cho những người làm trong lĩnh vực liên quan đến tính toán như các ngành toán, vật lý, kỹ sư, cơ giới, thủ quỹ, thủ kho, buôn bán, kế toán...

Thuyết Thái Lặc Mã (Thelema) đề xuất bởi nhà huyền học Aleser Crowley, đầu thế kỷ 20, mặc dù bản thệ thống của nó, được thừa hưởng thừ Hội Kín Kim Bình Minh ra đời vào thế kỷ 19. Hệ thống Thelema được ứng dụng trong Thạch Lý Học thông qua mối liên hệ với Sinh Thụ (Tree of Life), một lý thuyết của người Do Thái ra đời cùng thời với Kinh Cựu Ước. Hệ thống dựa trên các sách tương ứng do sự đóng góp của nhiều nhà huyền học khác nhau: McGregors Mathers, Paul Foster Case… đặc biệt được tổng hợp trong cuốn Kinh Liber 777.

Ở Việt Nam, thuyết Thelema hầu như chưa bao giờ được nhắc đến trong tất cả các sách về Thạch Lý Học đã xuất bản. Tuy nhiên, rất nhiều tài liệu về huyền học phương tây do những du học sinh tại Hải Ngoại được đăng trên các trang mạng, sử dụng hệ thống này của Thelema. Thuyết này được các nhóm huyền học phương tây sử dụng rộng rãi ở thời kỳ Internet nở rộ khoảng năm 2012, bởi các nhóm nghiên cứu Huyền Bí Học và Ma Thuật Học, như nhóm Huyền Học Phương Tây, Hội Tarot Huyền Bí...

Thuyết Thelema cho rằng Apatite màu hồng gắng liền với Planets số 21 Kaph (Jupiter). Một trong hai từ thường dùng cho cánh tay (chữ kia là chữ thứ 10). Danh từ (kap) biểu thị bàn tay mở ra, cầu xin và yếu đuối. Từ cơ bản bao gồm bất cứ thứ gì rỗng hoặc mở ra để nhận được một cái gì đó: món ăn, đĩa, vv Các ký tự kap được viết khi nó nằm ở cuối một từ, và khi nó nằm ở đầu hoặc giữa một từ ...Như một tiền tố, chữ (kaph) thể hiện sự so sánh ("giống như" trong tên Mi-ka-el, Thiên Chúa giống như thế nào?), Và như postfix chi phối các đại từ của người thứ hai. Lưu ý sự chuyển đổi duyên dáng giữa cái nắm tay tự định hướng của ký tự Yod và phần mở ra của ký tự Kaph. Kaph chuyển đổi trực tiếp thành "lòng bàn tay hoặc cây" và là biểu tượng của sự hoàn thiện Crowning - với một ý nghĩa kép bao gồm cả sự khởi đầu và kết thúc. Kaph cũng liên quan đến nguyên tắc của "bốn vương miện": chức tư tế; vua; Tora hoặc Lời Chúa; và một cái tên tốt. Trong Liber 777, nó được coi là chữa trị cho các biểu hiện bệnh tật của hệ tiêu hóa và có tác dụng chữa trị bênh gout.

Thuyết Reiki (Linh Khí), dựa trên sự kết hợp của hệ thống Kinh Lạc trong Y Thuật Trung Hoa, hệ thống Luân Xa trong Y Thuật Ấn Độ và thuyết Ngũ Hành trong thạch học, dùng trong xoa bóp, ấn huyệt, được đề xuất bởi Mikao Usui năm 1922. Nếu hệ thống luân xa thật sự ít khi được áp dụng trong Reiki thực hành, hệ thống Kinh Lạc lại được sử dụng trong ấn huyệt rất rộng rãi. Kinh lạc là đường khí huyết vận hành trong cơ thể, đường chính của nó gọi là kinh, nhánh của nó gọi là lạc, kinh với lạc liên kết đan xen ngang dọc, liên thông trên dưới trong ngoài, là cái lưới liên lạc toàn thân. Kinh lạc phân ra hai loại kinh mạch và lạc mạch.Trong kinh mạch gồm chính kinh và kỳ kinh, chính kinh có mười hai sợi, tả hữu đối xứng, tức thủ túc tam âm kinh và thủ túc tam dương kinh, gọi chung mười hai kinh mạch, mỗi kinh thuộc một tạng hoặc một phủ. Kỳ kinh có tám sợi, tức đốc mạch, nhâm mạch, xung mạch, đái mạch, âm duy mạch, dương duy mạch, âm kiểu mạch, dương kiểu mạch. Thông thường nhắc đến mười hai kinh mạch và thêm vào hai mạch nhâm đốc gọi chung mười bốn kinh mạch chính. Bệnh tật đều do sự vận hành bế tắc của khí luân chuyển trong 12 kinh mạch này, nếu được khơi thông, ắt sẽ hết bệnh tật. Y Tông Tâm Lĩnh bàn về Kinh Lạc nói, mười hai kinh lạc, có Thủ thái âm phế kinh (手太阴肺) thuộc về hành Kim, Thủ thiếu âm tâm kinh ( 手少阴心) thuộc về hành Hỏa, Thủ quyết âm tâm bào kinh (手厥阴心包) thuộc về hành Hỏa, Thủ thiếu dương tam tiêu kinh (手少阳三焦) thuộc về hành Hỏa, Thủ thái dương tiểu tràng kinh (手太阳小肠经) thuộc về hành Hỏa, Thủ dương minh đại tràng kinh (手阳明大肠经) thuộc về hành Kim), Túc thái âm tỳ kinh (足太阴脾) thuộc về hành Thổ, Túc thiếu âm thận kinh (足少阴肾经) thuộc về hành Thủy, Túc quyết âm can kinh (足厥阴肝) thuộc về hành Mộc, Túc thiếu dương đảm kinh (足少阳胆) thuộc về hành Mộc, Túc thái dương bàng quang kinh (足太阳膀胱) thuộc về hành Thủy, Túc dương minh vị kinh (足阳明胃) thuộc về hành Thổ. Mỗi mạch lại ứng những bệnh lý khác nhau. Cách sử dụng truyền thống là dùng đá phù hợp làm thành cây ấn huyệt để trị liệu khơi thông kinh mạch, giống với châm cứu.

Ở Việt Nam, hầu như không có tài liệu về môn này hoặc tài liệu về Reiki từng được xuất bản, tuy nhiên, nhiều học giả cho biết đã từng có sách về môn này xuất bản trước 1975 mà chúng tôi chưa có dịp khảo cứu được.


Đá Apatite trong hành Hỏa và thuộc vào Kinh Túc Thiếu Âm Tâm, Kinh Thủ Quyết Âm Tâm Bào. Kinh Thủ Thiếu Âm Tâm liên quan đến bệnh vai, mặt trong chi trên đau, gan tay nóng hoặc lạnh, mồm khô, khát muốn uống nước, đau mắt, đau vùng tim, nấc khan, sườn ngực đau tức, chứng thực thì phát cuồng, chứng hư thì bi ai, khiếp sợ, ở tim, ngực, tâm thần. Ví dụ như huyệt Thông Lý (Huyệt Lạc với kinh Tiểu trường) có tác dụng liên quan đến đau cổ tay, đau cẳng tay, đau khuỷu tay, tim đập mạnh, hồi hộp, sốt, trong ngực bồn chồn, sốt không có mồ hôi, đau đầu, hoa mắt, cứng lưỡi, không nói được; huyệt Âm Khích (Huyệt Khích) có tác dụng liên quan đến ngực đầy tức, đau vùng tim, tim đập mạnh, hồi hộp, ra mồ hôi trộm, chảy máu mũi, nôn ra máu; huyệt Thần Môn (Huyệt Du thuộc Thổ, huyệt Nguyên) có tác dụng liên quan đến lòng bàn tay nóng, đau vùng tim, tim đập mạnh, hồi hộp, mất ngủ, hay quên, ngớ ngẩn, động kinh; huyệt Thiếu Phủ (Huyệt Huỳnh thuộc Hỏa) có tác dụng liên quan đến ngón tay út co quắp, lòng bàn tay nóng, đau khó chịu trong ngực, tim đập hồi hộp, sốt rét lâu ngày, tiểu dầm; huyệt Thiếu Xung (Huyệt Tỉnh thuộc Mộc) có tác dụng liên quan đến đau vùng tim, đau cạnh sườn, tim đập mạnh, hồi hộp, cấp cứu trúng phong, sốt cao, vui giận thất thường. Kinh Thủ Quyết Âm Tâm Bào liên quan đến các chứng mặt đỏ, nách sưng, cánh tay, khuỷu tay co quắp, gan tay nóng, đau vùng tim, bồn chồn, tức ngực sườn, tim đập thình thịch, cuồng, nói lảm nhảm, hôn mê, ở ngực, tim, dạ dày, bệnh tâm thần, sốt. Ví dụ như huyệt Thiên Trì (Hội của kinh Quyết âm ở tay, chân và Thiếu dương ở chân) có tác dụng liên quan đến Tức ngực, bồn chồn, đau sườn, nách sưng đau, tràng nhạc; huyệt Thiên Tuyền có tác dụng liên quan đến đau mặt trong cánh tay, đau vùng trước tim, đau ngực; huyệt Khúc Trạch (Huyệt Hợp thuộc Thủy) có tác dụng liên quan đến đau sưng khuỷu tay, đau cẳng tay, cánh tay, đau vùng tim, Mồm khô, phiền táo, chỉ ra mồ hôi ở đầu, nôn do cảm hàn hay thai nghén, thổ tả; huyệt Khích Môn (Huyệt Khích) có tác dụng liên quan đến đau vùng trước tim có nôn mửa, tim đập hồi hộp, Ngũ tâm phiền nhiệt, tinh thần uể oải.



Thuyết Bát Quái Kinh Dịch (Iching Therapy), mặc dù được lấy từ lý thuyết của châu Á, nhưng việc áp dụng nó vào thạch lý học thì lại do các nhà huyền học Nga, gần gũi với lý thuyết Thông Thiên Học, ra đời vào những năm 1980. Ở Việt Nam, thuyết này ít được phát triển, đại diện chỉ có Ts Hoàng Thế Ngữ, Chủ Tịch Hội Đá Quý Việt Nam, tốt nghiệp tại Nga, dùng trong cuốn Đá Quý Việt Nam, nhưng chỉ dùng cấu trúc hình thái tinh hệ để luận. Cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, tuy có dẫn ra phép Bát Quái, nhưng lại chỉ dựa trên màu sắc của Ngũ Hành để luận. Cả hai đều rất sơ khai. Dựa vào hình thái tinh hệ của tinh thể gồm tám loại, được phân định thành tám quái thuộc nội quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập Phương (cubic) ứng Càn , Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam Phương (rhombohedral)  ứng Ly, Lục Phương (hexagonal) ứng Đoài, Tam Tà (triclinic) ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic) ứng Tốn, Phi Tinh (noncrystallinic) ứng Khôn. Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng khác: Lập Phương ứng Càn, Tam Tà ứng Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn, Tam Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở đây chỉ trình bày thuyết của Thông Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm tám màu, ứng với tám quái thuộc ngoại quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính, đều nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ nhất được trình bày trong I-ching: Binary Numbers, Astrology, And Chakras, dựa trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng, Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ, Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành ứng bát quái cho rằng: Càn ứng dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn ứng cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề xuất dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam, Cấn ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại quái tương ứng với hình dạng và màu sắc của tinh thể, từ đó tính ra được quái trong 64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại ứng một bộ phận cơ thể theo y lý trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể.

Theo thuyết Bát Quái Kinh Dịch, đá Apatite có màu đỏ hồng tương ứng quẻ ngoại quái Ly, có tinh hệ Lục Phương tương ứng quẻ nội quái Đoài, ghép lại chính là quẻ quái số 38: quẻ Hỏa Trạch Khuê. Quái 38 ứng với vị trí đường hô hấp trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên quan đến hệ hô hấp như viêm phế quảng, viêm phổi, lao, hen xuyễn, ho, viêm phổi cộng đồng,... Quẻ Hỏa Trạch Khuê có nghĩa: Khuê là trái khác. Là quẻ trên lửa dưới chằm, tính trái khác nhau; con gái giữa, con gái út, chí không cùng về với nhau, cho nên là lìa. Nhưng lấy quẻ mà nói, thì trong đẹp lòng mà ngoài sáng sủa; lấy sự biển đối của quẻ mà nói, thì: ở quẻ Ly lại, là hào mềm tiến lên ở ngôi Ba; ở quẻ Trung Phu lại, là hào mềm tiến lên ở ngôi Năm, ở quẻ Gia Nhân lại, thì gồm cả hai kiểu đó; lấy thể quẻ mà nói thì hào Sáu Nam được chỗ giữa mà phía dưới ứng với hào Chín Hai là hào cứng, cho nên lời Chiêm của nó không thể làm việc lớn mà nhỏ còn có cách tốt, người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy.

Thuyết Phật Giáo Mật Tông là phái phật giáo duy nhất có ứng dụng trong Thạch Lý Học. Lý thuyết dựa trên hình ảnh của Ngũ Trí Như Lai và Tử Thư. Ngũ Phật còn gọi là Ngũ Trí Như Lai, Ngũ Trí Phật, Ngũ Phương phật, hay còn được gọi Ngũ Thiền Định Phật; là tên gọi chỉ năm vị Phật trong Mật Tông, lấy Đại Nhật Như Lai làm chủ tôn, có sự khu biệt giữa Ngũ Phật giới Kim Cương và Ngũ Phật giới Thai Tạng. Năm đức Phật này đại diện cho 5 phẩm chất của con người và tạo ra sự tuyệt mỹ và hay nhất để phá bỏ những sai trái trong 5 phẩm chất đó. Mỗi đức Phật là một con đường tuyệt diệu để đi đến cảnh giới Niết Bàn và Vô sanh. Tu theo những vị đó sẽ mau chóng vào được cung điện Niết Bàn. Ngũ trí Như Lai là 5 vị Phật tối cao của Phật giáo Tây Tạng. Năm vị phật này đại diện bởi năm màu, gọi là Ngũ Sắc Trí (pancha-varna): Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairochana) đại diện bởi màu trắng và tím, A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya) đại diện bởi màu lam và đen, Bảo Sanh Như Lai (Ratnasambhava) đại diện bởi màu vàng và cam, A Di Đà Như Lai (Amitabha) đại diện bởi màu đỏ và hồng, Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi) đại diện bởi màu lục. Nitin Kumar căn cứ vào kinh điển Chandamaharosana Tantra dẫn ra những quy tắc sử dụng màu săc trong mật tông, đáng chú ý cho rằng: màu lam đại diện cho phẫn nộ tướng ứng vị trí tai, màu vàng đại diện cho sinh dưỡng tướng ứng vị trí mũi, màu đỏ đại diện cho vô úy tướng ứng miệng, màu lục đại diện cho uy đức tướng ứng vị trí đầu. Trong Tử Thư Tây Tạng cũng tuyên về màu sắc tương ứng lục đạo: ánh sáng trắng là của cõi trời, ánh sáng đỏ là của cõi Atula, ánh sáng lam là của cõi người, ánh sáng lục là của cõi súc sanh, ánh sáng vàng là của cõi quỷ đói, ánh sáng xám là của cõi địa ngục. 

Ở Việt Nam, thuyết này hầu như chưa bao giờ được nhắc đến trong các sách Thạch Lý Học đã xuất bản. Tuy nhiên một số kinh sách về ngũ sắc trí đã được dịch và xuất bản những năm gần đây như Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe Trong Bardo của Guru Rinpoche, Những Giáo Pháp Bí Mật Của Tử Thư Tây Tạng của Detlef Ingo Lauf.

Đá Apatite có màu đỏ, là bổn sắc của A Di Đà Như Lai (Amitabha) . Ngài là sự chuyển hóa của sự hỗn độn thành sự phân minh. Màu đỏ đại diện cho vô úy tướng ứng với miệng. Đeo Apatite sẽ được A Di Đà Như Lai Phật hộ trì, hỗ trợ về miệng và sự phân minh. Vì đây cũng là màu của cõi atula, đá Apatite được coi là bùa hộ về vị dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về vị dục thông qua vị phật phân minh. Tử thư nhắc đến màu đỏ như biểu hiện cho sự phân minh, trí huệ, đồng thời sự tỵ nạnh ganh ghét. Tử Thư Tây Tạng viết rằng: Vào ngày thứ tư, một ánh sáng đỏ – đó là yếu tố tinh khiết của lửa, sẽ chiếu sáng và đồng thời đức Phật A Di Đà từ cõi phương Tây màu đỏ, Cõi Cực Lạc (The Blissful) sẽ xuất hiện trước mặt con. Thân ngài màu đỏ, ngài cầm hoa sen trong tay, ngài ngự trên ngai con chim công, ngài đang ôm người phối ngẫu là Phật Mẫu Pandaravasini. Ánh sáng đỏ của tưởng uẩn trong tánh thanh tịnh căn bản của nó là Diệu Quan Sát Trí (wisdom of discrimination), màu đỏ rực rỡ, được trang hoàng bởi những dĩa ánh sáng quang minh, rõ rệt, sắc bén, óng ánh từ tim của đức Phật A Di Đà. Vào ngày thứ tư, có các tia sáng của hỏa đại màu đỏ xuất phát từ phương tây. Chính giữa luồng ánh sáng đó có đức Phật A Di Đà, đứng trên tòa sen đang rộng hai tay tiếp dẫn. Luồng ánh sáng này chiếu soi khắp mười phương thế giới không chỗ nào không soi đến. Gần đó có một lớp ánh sáng màu nâu đục, tượng trưng cho cảnh giới của ngạ quỷ cũng đồng thời xuất hiện.

Nơi tìm thấy: Ở Việt Nam, quặng apatit Lào Cai được khai thác chủ yếu để sẩn xuất phân bón cho nông nghiệp. Sau quá trình khai thác các Quăng apatit Lào Cai giàu hàm lượng P2O5 được nhà máy Supe Phốt phát và hóa chất Lâm Thao sử dụng để sản xuất phân bón. Loại có hàm lượng P2O5 ít hơn được sử dụng để làm phân lân nung chảy và loại quặng nghèo có hàm lượng P2O5 dưới 18% được sử dụng để chế biến tuyển nổi làm giàu tại Nhà máy Tuyển quặng apatit ở Lào Cai. Sau khi tuyển nổi, hàm lượng quặng tinh P2O5 đạt trên 32% cũng được sử dụng để sản xuất phân bón. Một lượng nhỏ quặng apatit tại Lào Cai cũng được sử dụng trực tiếp để sản xuất phốt pho vàng.

Lời cảm ơn: bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến sĩ Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu tập Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng Giang  (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).


Reactions

Post a Comment

0 Comments