Bravoite
(硫铁镍矿) Lưu Thiết Niết Khoáng
Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị Liệu, Thạch Học Trị Liệu dịch từ chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ. Lithotherapy phân thành Litho đến từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá, therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ] tức là chữa trị, lithotherapy tức là chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với đá ở ngoài da. Lithotherapy là một môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận huyền học và thần bí học. Mặc dù có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả năng của nó, đã được ứng dụng từ lâu trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại, nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức màn bí mật của những điều thần kỳ giống như nền Đông Y của người Trung Quốc hay Nam Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc biệt trình bày về những lý luận căn bản trong Thạch Lý Học đối với Bravoite , nằm trong chuỗi khảo cứu, viết riêng cho tuần báo UNESCO.
Giới thiệu về đá: Bravoite được đặt theo tên nhà khoa học người Peru, Jose J. Bravo (1874-1928).
Giới thiệu về các thuyết: Giá trị thạch lý học của Bravoite được trình bày thành các thuyết cơ bản: thuyết Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học (Chromotherapy), thuyết Linh Khí – Luân Xa (Reiki Chakra), thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết Can Chi Tứ Trụ, thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves), thuyết Thái Lặc Mã (Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết Ngũ Hành Hoa Giáp, thuyết Ngũ Hành Khí Tiết.
Thuyết bản mệnh Phương Đông người ta căn cứ vào địa chi của tháng
sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần, tháng 2 là Mão, tháng 3 là Thìn, tháng
4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi, tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu, tháng
9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu, cùng phối hợp với
ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng dùng đá
có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ thuộc Hỏa (ứng dùng đá có tông màu cam đỏ
hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có tông màu trắng, xám, ánh bạc), Tý Hợi
thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu đen, chàm, tím), Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ
(ứng dùng đá có tông màu vàng, trong, ánh kim). Và theo đó, Thuyết Bản Mệnh
phương đông xếp loại đá này vào năm Nhâm Tuất, thuộc Thủy Cục, về Dương Phần.
Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Nhâm Tuất sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá
này màu đen, thuộc về hành thủy, ứng về tháng Tý và Hợi, tức tháng 10, 11.
Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo tháng như sau: tháng một
màu đỏ cam, tháng hai màu tím tươi, tháng ba màu xanh lam, tháng tư màu trắng
trong, tháng năm màu lục đen, tháng sáu màu trắng đục, tháng bảy màu đỏ tươi,
tháng tám màu xanh chuối, tháng chín màu xanh lá, tháng mười màu đen, tháng mười
một màu vàng, tháng mười hai màu chàm. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định
nghĩa theo hoàng đạo như sau: Bạch Dương màu xanh đen, Kim Ngưu màu xanh dương
đậm, Song Tử màu trắng trong, Cự Giải màu xanh lá mạ, Sư Tử màu đen, Xử Nữ màu
cam, Thiên Bình màu lục nhạt, Thiên Yết màu lam, Nhân Mã màu vàng, Ma Kết màu đỏ
tươi, Bảo Bình màu đỏ sậm, Song Ngư màu tím. Đá này màu đen được xếp vào loại
đá bản mệnh của tháng mười, mùa đông và xếp vào đá bản mệnh của cung Sư Tử, thuộc
hệ lửa. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 23 tháng 7 đến 22 tháng 8 hằng năm, hoặc
vào tháng 8 thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này.
Theo
thuyết Quang Lý học thì đá Bravoite có màu đen. Ý nghĩa của màu sắc này được biểu
hiện ở các nên văn hóa khác nhau. Đối với người Ai Cập cổ đại, màu đen có sự
liên kết với tích cực; là màu sắc của sự sinh sản và đất màu đen đầy phù sa bị
ngập nước bởi sông Nile. Đó là màu sắc của Anubis, thần của thế giới âm ti,
người mang hình dạng của một con chó sói đen, và bảo vệ chống lại quỹ dữ từ cái
chết. Đối với người Hy Lạp cổ đại, màu đen cũng là màu sắc của thế giới âm ti,
tách ra khỏi thế giới của cuộc sống bên dòng sông Acheron, có nước đen. Những
ai đã phạm tội tồi tệ nhất đã được gửi đến ngục Tartarus, ngục sâu nhất và tối
tăm nhất. Ở trung tâm là cung điện của Hades, vua của thế giới người chết, nơi
ông ngồi trên một ngai vàng bằng gỗ mun màu đen. Ở Nhật, màu đen có liên
quan đến sự huyền bí, ban đêm, cái chưa biết, siêu nhiên, sự vô hình và cái
chết. Kết hợp với màu trắng, nó có thể biểu tượng cho trực giác. Tại Indonesia,
màu đen có liên quan đến chiều sâu, thế giới ngầm, quỷ dữ, thiên tai, và bàn
tay trái. Tuy nhiên, khi kết hợp màu đen với màu trắng, nó tượng trưng cho sự
hài hòa và cân bằng. Màu đen mang lại sự huyền bí nhưng sang trọng là màu đi
liền với quyền lực. Trong cuộc sống màu đen luôn có một sức hấp dẫn, lôi cuốn
và vô cùng bí ẩn. Nó có khả năng che lấp mọi cái xấu, mọi cái không tốt của con
người. Màu đen còn là biểu tượng của cái ác, của những thế lực xấu xa, đen tối.
Nếu coi cuộc sống này là một bộ phim thì màu đen là những nhân vật phản diện.
Khi ngắm nhìn màu đen con người ta vừa có cảm giác run sợ, vừa có cảm giác bị
lôi cuốn kích thích trí tò mò.
Thuyết Thelema cho rằng Bravoite thuộc Sepherot Yesod (tiếng Hebrew: יסוד
"nền tảng") là một sephirah hay một nút trong cây Cây Sự sống, một hệ
thống triết học Do Thái. Yesod, nằm gần gốc cây, là sephirah dưới Hod và
Netzach, và trên Malkuth (vương quốc). Nó được xem như là một chất dẫn cho phép
chuyển động từ một dạng hoặc điều kiện này sang điều khác (sức mạnh của sự kết
nối). Yesod, Kabbalah, và Cây Sự sống là những khái niệm của người Do thái được
áp dụng bởi các hệ thống triết học khác nhau bao gồm Kitô giáo, thuyết thần bí
vùng Đông New Age, và các tập quán bí truyền phương Tây. Theo quan niệm của người Do Thái, Yesod là nền tảng mà
Thiên Chúa đã xây dựng lên thế giới. Nó như là một đốt truyền dẫn giữa sephirot
ở trên và thực thể dưới đáy. Ánh sáng của sephirot trên cùng tập trung ở Yesod
và được chuyển đến Malkuth dưới đáy. Theo cách này, Yesod có liên quan đến các
cơ quan sinh dục. Yesod của nam tính thu thập các nguồn lực quan trọng của
sephirot ở trên, và chuyển các năng lực sáng tạo và sống còn vào Malkuth nữ
tính dưới đáy. Yesod là đường dẫn, Malkuth thì tiếp thu. Ngược lại, thông qua
Malkuth là trái đất có thể tương tác với thần thánh. Yesod đóng vai trò thu thập và cân bằng các năng lượng khác
và đối nhau của Hod và Netzach, cũng như từ Tiferet ở trên nó, lưu trữ và phân
phối trên toàn thế giới. Nó được so sánh với "phòng động cơ" của sự
sáng tạo. Cherubim là dấu ấn thiên thần kết nối với Yesod, đứng đầu bởi Archangel
Gabriel. Ngược lại, cấp bậc ma quỷ trong bầu trời Qliphothic đối nghịch với
Yesod là Gamaliel, được cầm quyền bởi Archdemon Lilith. Theo triết lý
Kabbalistic của người Do Thái, Yesod chịu trách nhiệm về các năng lực truyền
thông, kết nối và liên lạc giữa thực tế bên ngoài với tâm hồn, hợp nhất thế
giới vật chất của Malkuth với Sephiroth khác. Do đó, một số Kitô hữu so sánh
Yesod với người thứ ba của Chúa Ba Ngôi, Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần được
xác định bởi một số Kitô hữu như một khía cạnh của Thiên Chúa Ba Ngôi. Những
Kitô hữu tin rằng Chúa Thánh Thần là khía cạnh của thần hợp nhất Thiên Chúa với
nhân loại. So với các tập quán thần bí phương
Đông, Yesod thường liên quan đến chakra Swadhisthana, có liên quan đến mặt
trăng, với tình dục, và với vô thức. Theo các triết gia huyền bí phương Tây,
Yesod được xem là "có tầm quan trọng tối cao đối với các bí ẩn gia ... Nhà
Kho báu của những Bức tranh, khu vực của người Maya, sự ảo tưởng".
Thuyết Chakra cho rằng Bravoite thuộc Chakra Muladhara
(tiếng Phạn: मूलाधार, IAST: Mūlādhāra, Hồng
Kông, tiếng Anh: "root support") hoặc chakra gốc là một trong bảy
chakras chính theo hệ thống Hindu. Nó được tượng trưng bởi một hoa sen với bốn
cánh hoa và màu đỏ. Thần của mooladhar là thần Shri Ganesha. Muladhara nằm gần
xương cụt ngay tại xương mông, đôi khi ở kshetram (vị trí thiêng liêng), hoặc
điểm kích hoạt trên bề mặt, nằm giữa đáy chậu và xương cụt hoặc xương chậu. Do
vị trí và kết nối với hoạt động bài tiết, nó liên quan đến hậu môn. Muladhara được cho là nền tảng mà từ đó ra ba
kênh tâm linh chính hoặc hiện lên mạch máu: Ida, Pingala và Sushumna. Người ta
cũng tin rằng Muladhara là nơi ở tinh tế của Thần Ganapati của Hindu. Trong lời
cầu nguyện cao quý nhất đối với Ganapati, Ganapati Atharvashirsha, người ta nói
rằng "một người tôn thờ Thần Ganapati sẽ dễ dàng nắm bắt được khái niệm và
nhận ra Brahman". Thần Indra gắn liền với Muladhara. Trong miêu tả, ông ta
màu vàng, có bốn trang bị , và giữ một vajra hay búa thiên lôi và một hoa sen
màu xanh trong tay ông ta. Ông ngồi trên con voi trắng Airavata, nó có bảy cái vòi biểu thị số bảy yếu tố cần thiết trong cuộc sống.
Thỉnh thoảng, Ganesha cũng được liên kết với Muladhara. Trong những miêu tả
này, ông ta có da màu cam, mặc dhoti hay trang phục truyeeng thống ấn độ màu
vàng, và chiếc khăn quàng bằng vải lụa màu xanh phủ trên vai. Trong ba tay, ông
giữ một laddu (kẹo hình cầu của ấn độ), một bông hoa sen, và một rìu nhỏ, và
cái thứ tư là mọc lên trong mudra hay thủ ấn xua tan sự sợ hãi.Nguồn gốc thần
chú là âm tiết लं laṃ. Trong bindu, những điểm đó tạo thành một
phần của kí tự, là Brahma hay thần sáng tạo. Ông ấy có màu đỏ đậm, với bốn
khuôn mặt và bốn cánh tay, giữ một cây gậy, một bình rượu thần, và một japa
mala hay chuỗi hạt cầu nguyện, và thực hiện cử chỉ để xua tan nỗi sợ hãi. Thay
vào đó, thay vì giữ một cây gậy và một bình rượu thần, ông ta có thể giữ hoa
sen và thánh thư. Ông ta ngồi trên một con thiên nga. Shakti của ông là nữ thần
Dakini được miêu tả cùng với anh ta. Cô ấy xinh đẹp, với ba mắt và bốn cánh
tay. Dakini thường được miêu có làn da màu đỏ hoặc trắng, giữ một cây đinh ba,
một cây gậy hình sọ người, một con thiên nga và một bình nước uống, và ngồi
trên một con thiên nga. Đôi khi, thay vì một con thiên nga và bình nước uống,
bà cầm thanh kiếm và lá chắn.Ở giữa ô vuông, dưới nguồn gốc âm tiết, là một tam
giác ngược màu đỏ đậm. Shakti Kundalini được cho là ngủ ở đây, chờ đợi để được
đánh thức và mang đến cho Brahman, đây là nơi nguồn gốc bắt đầu. Nó được đại diện
bởi biểu tượng Lingam được bao bọc bởi ba con rắn có một nửa màu xám khói. Muladhara được coi là nền tảng của "năng lượng cơ thể".
Các hệ thống Yogic nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ổn định các chakra này.
Kundalini bắt đầu được đánh thức ở đây. Nó còn được gọi là vị trí của
"bindu đỏ" hay điểm tinh tế, điểm này khi tăng lên đến "bindu trắng"
trong đầu thì sẽ kết hợp các nguồn năng lượng nữ tính và nam tính, như Shakti
và Shiva. Nó liên kết với các yếu tố của trái đất, khứu giác và hoạt động của
bài tiết."Bằng cách thiền định về Đấng tỏa sáng trong Chakra Muladhara, với
ánh sáng của mười triệu mặt trời, con người có thể trở thành chúa tể của lời
nói và vua của nhân loại, và một Adept hay người thông thạo tất cả các loại học
thức. Ông trở sẽ nên miễn dịch trước tất cả các loại bệnh tật, và trong sâu thẳm
tâm hồn của anh ta trở nên tràn ngập niềm vui to lớn, ý muốn thuần khiết bằng
những lời nói sâu sắc và âm nhạc, ông ta ưu tiên phục vụ cho Devas hay thánh thần".
Chakra này cũng có thể được kích hoạt bằng cách tụng thần chú gốc. Người ta nói
rằng có thể tụng thần chú gốc của Chakra Muladhara hơn 100.000.000 lần có thể đạt
được tất cả các Siddhis (năng lực thần bí) của Muladhara Chakra. Khi so sánh với
hệ thống Tantric quan trọng khác của Kim Cương Thừa ở Tây Tạng, chakra
Muladhara không tìm thấy sự tương đồng ở nơi giống như vậy, không giống như các
chakra khác. Thay vào đó, hệ thống Tây Tạng đặt hai chakra vào cơ quan tình dục:
vòng ngọc ở giữa, gần đầu và phần đầu của cơ quan tình dục. Những chakra này cực
kỳ quan trọng cho việc tạo ra phúc lành to lớn và đóng một vai trò quan trọng
trong thực hiện hành vi tình dục tantric cao trào nhất. Một đặc điểm duy nhất,
giọt màu đỏ, còn được gọi là bồ đề tâm đỏ, không nằm ở đây, mà nằm ở vòng tròn
rốn.
Đá Bravoite có màu đen, theo thuyết
Phật giáo Mật tông là bổn sắc của A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya). Ngài là sự
chuyển hóa của sân hận thành từ bi. Màu lam và đen đại diện cho phẫn nộ tướng
ứng với tai. Đeo Bravoite sẽ được A Súc Bệ Như Lai
Phật hộ trì, hỗ trợ về tai và sự điềm tĩnh. Vì đây cũng là màu của cõi người,
đá Bravoite được coi là bùa hộ về thính dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về
thính dục thông qua vị phật phẫn nộ. Tử thư nhắc đến màu đen như sự mượn tạm
hình tướng phẫn nộ để biểu thị sự từ bi, cũng là sự hiển lộ của sân hận cần hóa
giải thông qua các biệt xảo. Tử Thư Tây Tạng viết: Đến lượt ở phương bắc là
Vetali, màu đen, cầm một kim cương sử và một cái tách bằng sọ người, bà tượng
trưng phẩm chất bất biến của pháp tánh kim cương sử là bất hoại và cái tách
bằng sọ người là một biểu tượng khác nữa của phương tiện thiện xảo. Từ hướng
tây thiên nữ Srgalamukha màu đen, đầu con cáo cầm lưỡi dao cạo bên tay phải và
chùm ruột bên tay trái đang ăn chùm ruột và liếm máu. từ hướng tây thiên nữ Srgalamukha
màu đen, đầu con cáo cầm lưỡi dao cạo bên tay phải và chùm ruột bên tay trái
đang ăn chùm ruột và liếm máu. từ phía tây bắc thiên nữ Kakamukha màu đen, đầu
quạ, cầm tách sọ người bên tay trái một thanh kiếm bên tay phải đang ăn tim và
phổi. Con hãy nhận ra bất cứ cái gì xuất hiện đều là vở tuồng diễn kịch của
tâm, đó là những phóng tưởng của tự con. cơn lốc xoáy rất lớn của nghiệp, một
cơn lốc đáng sợ, không thể chịu đựng được, quay cuồng dữ dội, từ phía sau đẩy
con tới. Con đừng sợ cơn lốc đó, đó chính là phóng tưởng mê lầm của con. Bóng
tối đen dày đặc rất kinh hãi, không chịu nổi, sẽ đi đằng trước mặt con cùng với
những tiếng kêu rùng rợn như tiếng thét „Đánh và Giết‟. con sẽ kinh nghiệm
giống như mô tả trước, như là gió xoáy, bão tuyết, mưa đá, xung quanh tối đen
và nhiều người săn đuổi con. Nếu con sắp sanh ra làm một quỷ đói, con sẽ thấy
những thân cây cụt ngọn và những hình dáng màu đen chỉa đầu nhọn lên, những
động và hang cạn và những đụn đất nhỏ màu đen. Nếu con sắp sanh ra làm một
chúng sanh ở địa ngục, con sẽ nghe những chúng sanh có nghiệp ác hát những bài
hát, hoặc con sẽ phải đi vào một cách bất lực, hoặc con sẽ cảm thấy rằng con đã
đi vào một vùng đất tối tăm, với những căn nhà có màu đen màu đỏ, những cái hố
đen và những con đường màu đen. Những người thường xuyên gặp hoàn cảnh gây sân
hận, cần được thanh lọc, có thể dùng loại đá màu đen để giải trừ.
Theo thuyết Reki (Linh Khí) đá Bravoite trong hành Thủy và thuộc vào Kinh Túc Thiếu Âm Thận, Kinh Túc Thái Dương Bàng Quang. Kinh Túc Thiếu âm Thận liên
quan các chứng ở hệ sinh dục, tiết niệu, ruột, họng, ngực. Ví dụ như huyệt
dũng tuyền (huyệt tỉnh thuộc mộc) có tác dụng liên quan đến nóng hay lạnh gan
bàn chân, đau mặt trong đùi, thoát vị, đau sưng họng, đẻ xong không tiểu được,
tim đập nhanh, chảy máu mũi, cấp cứu chết đuối, hôn mê, váng đầu hoa mắt; huyệt
Nhiên cốc (huyệt huỳnh thuộc hỏa) có tác dụng liên quan đến đau sưng khớp bàn chân,
tiểu đục, di tinh, liệt dương, kinh nguyệt không đều, ngứa âm hộ, đau bụng, trẻ
em kinh phong, cấm khẩu, ho ra máu, sốt rét, tiêu khát, tự ra mồ hôi,
ra mồ hôi trộm, ù điếc tai; huyệt Thái
khê (huyệt nguyên, huyệt du thuộc thổ) có tác dụng liên quan đến đau cổ chân,
liệt dương, kinh nguyệt không đều, đau sưng vú, đau răng, đau vùng tim, sốt
không ra mồ hôi, thích nằm, tiêu khát, chân tay quyết lạnh do trúng hàn; huyệt Đại chung (huyệt lạc nối với
kinh thái dương bàng quang) có tác dụng liên quan đến đau gót chân, đau cứng lưng, tiểu rắt,
đau bụng, ho, hen suyễn, thích nằm, táo bón, đần độn, huyệt Thủy tuyền (huyệt khích) có tác dụng liên quan đến đau sưng mặt
trong gót chân, kinh nguyệt không đều, đau bụng kinh, tiểu gắt. Ví dụ như huyệt Chiếu hải (huyệt giao
hội của kinh thiếu âm thận với mạch âm kiểu) có tác dụng liên quan đến đau sưng mắt
cá trong, kinh nguyệt không đều, táo bón, đau bụng do thoát vị, ngứa sinh dục
ngoài, khô họng; huyệt Phục lưu
(huyệt kinh thuộc kim) có tác dụng liên quan đến liệt cơ, teo cơ, lạnh cẳng chân, tiểu
rắt, lưỡi khô, mồm khô, sôi bụng, phù thũng, ra mồ hôi trộm, cảm không có mồ
hôi và mạch yếu nhỏ; huyệt Giao tín
(huyệt khích của mạch âm kiểu) có tác dụng liên quan đến kinh nguyệt không đều, băng huyết, sa dạ con, tinh
hoàn sưng đau, tiêu chảy, bí tiểu; huyệt Trúc tân (huyệt khích của mạch âm duy) có tác dụng liên
quan đến đau mặt trong cẳng chân, điên cuồng. Ví dụ như huyệt Trung chú (huyệt hội của kinh thiếu âm ở chân với
mạch xung) có
tác dụng liên quan đến đau bụng dưới, kinh nguyệt không đều, táo bón; huyệt Hoang du (huyệt hội của kinh thiếu
âm ở chân với mạch xung) có tác dụng liên quan đến đau bụng,
nôn mửa, đầy bụng, táo bón; huyệt
Thương khúc (huyệt hội của kinh thiếu âm ở chân với mạch xung) có tác dụng liên
quan đến nôn mửa, đau bụng, táo bón, sau
khi sinh đau bụng, vô sinh; huyệt
Thạch quan (huyệt hội của kinh thiếu âm ở chân với mạch xung) có tác dụng liên
quan đến nôn mửa, đau bụng, táo bón, sau
khi đẻ đau bụng, vô sinh; huyệt
Âm đô (huyệt hội của kinh thiếu âm ở chân với mạch xung) có tác dụng liên
quan đến đau bụng, sôi bụng, đầy bụng,
đau nóng cạnh sườn. Kinh Túc Thái Dương Bàng Quang liên quan đến
bệnh ở mắt, mũi, đầu, gáy, thắt lưng, hậu môn, não, sôt, bệnh các tạng phủ
(dùng các huyệt Du sau lưng). Ví dụ
như huyệt Tinh Minh có tác dụng liên quan đến Đau mắt đỏ, mắt có màng có mộng, ngứa mắt, mờ mắt,
quáng gà, liệt dây thần kinh VII ngoại biên, teo thần kinh thị; huyệt Toản
Trúc có tác dụng liên quan đến Đau mắt đỏ, hoa mắt, chảy nước mắt, mờ mắt, giật mắt,
đau nhức vùng trán, đau đầu; huyệt
Mi Xung có tác dụng liên quan đến
đau đầu, hoa mắt; huyệt Khúc Sai
có tác dụng liên quan đến đau trước
trán và đỉnh đầu, hoa mắt, đau mắt, ngạt mũi, chảy nước mũi; huyệt Ngũ Xứ có tác dụng liên quan đến đau
đầu, hoa mắt, co giật. Ví dụ như huyệt Đại Trữ có
tác dụng liên quan đến cứng cổ gáy, đau nhức vai, đau đầu, cảm
phong hàn, ho, sốt không có mồ hôi, nhức xương; huyệt Phong Môn (Nhiệt phủ - Huyệt Hội của kinh Thái dương ở chân
với mạch Đốc) có
tác dụng liên quan đến đau phần trên lưng, đau cứng gáy, đau đầu, cảm mạo,
ho, sốt, nóng vùng ngực, cứu có thể phòng bệnh cảm mạo; huyệt Phế Du (Huyệt Du
của Phế) có tác dụng liên quan đến đau lưng, cứng gáy, vẹo cổ, lao phổi,
ho, ho ra máu, hen suyễn, sốt âm, ra mồ hôi trộm; huyệt Quyết Âm Du (Huyệt Du của Tâm bào) có tác dụng liên quan đến Ho, đau tim, nôn mửa, tức ngực. Ví dụ như huyệt Tâm Du (Huyệt Du của
Tâm) có tác
dụng liên quan đến tim đập mạnh, hồi hộp,
hoảng hốt, hay quên, trẻ em chậm nói, ho ra máu, ho lao, nôn, nuốt khó, động
kinh; huyệt Đốc Du có tác dụng liên quan đến đau
lưng trên, cứng gáy, vẹo cổ, vùng tim, nấc; huyệt Cách Du (Huyệt Hội của Huyết) có tác dụng liên quan đến đau thắt
lưng, nấc, kém ăn, sốt không có mồ hôi,ra mồ hôi trộm, ra nhiều mồ hôi, huyết
hư, huyết nhiệt, ho lao; huyệt Can Du
(Huyệt Du của Can) có tác dụng liên quan đến đau lưng, đau cột sống, hoa mắt, sưng
đau mắt, mắt có màng, chảy máu mũi, ho kèm đau tức ngực, ho do tích tụ, hoàng đản,
cuồng.
Theo thuyết Can Chi Tứ Trụ, đá
ngọc thuộc mệnh Thủy rất hạp với mệnh Mộc sinh vào ngày xuân,được nguyệt lệnh
mà phần lớn là thân mạnh,vì vừa qua mùa đông lạnh,có chút lạnh lẽo,mượn Hỏa sưởi
ấm cơ thể tự do phát triển vươn xa,có Thủy nuôi dưỡng sẽ sinh trưởng nhanh. Mộc
sinh vào cuối xuân,do thời tiết đã ấm,dương khí đã vượng thịnh,cần nhiều Thủy
hơn để điều hòa nếu không sẽ vì thiếu Thủy mà thành khô héo. Tóm lại, Mộc mùa
xuân tốt nhất nên có Thủy,Hỏa đến điều hòa mới phát triển tốt.Nếu lực của Thủy
vừa phải,Mộc có thể duy trì cân bằng,sẽ được tài phú. Đá ngọc thuộc mệnh Thủy
cũng rất hạp với mệnh Mộc xuân mùa hạ,không được nguyệt lệnh thì thuộc thân yếu,thời
tiết khô nóng,hơn nửa sinh trưởng nhanh,phải có nhiều Thủy mới có thể duy trì
thịnh vượng. Đá ngọc thuộc mệnh Thủy cũng rất hạp với mệnh Thổ sinh mùa hạ. Mùa
hạ, bởi vì Hỏa khí oi nóng, Thổ khô nên cần có Thủy điều hậu để giảm bớt khí Hỏa
nóng, kỵ nhất lại gặp Hỏa thịnh vượng, Thổ sẽ bị đốt cháy, không có sức sống. Mộc
nhiều mà thịnh vượng sẽ sinh trợ Hỏa, cần có Thủy khắc Hỏa thì không tạo thành
nguy hại. Kim nhiều mà thịnh vượng, Kim có thể sinh trợ Thủy, có thể được cả vợ
và của cải.
Thuyết Ngũ Hành Can Chi cho rằng Bravoite thuộc về Thủy (đen) phối Thổ (vuông), tức
Thủy Cục. Do đó, Bravoite
giúp khắc chế các bản mệnh Kim – Mộc như Giáp Thân, Ất Dậu, Canh Dần, Tân Mão,
vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Bravoite cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Mộc
(Thủy sinh Mộc), gồm có mệnh thuộc Thủy Mộc và thuần Mộc: Giáp Tý, Ất Hợi, Nhâm
Dần, Quý Mão, Giáp Dần, Ất Mão, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại
ngọc này.
Thuyết Ngũ Hành Khí Tiết nói, người có mệnh cục Mộc (sinh vào ngày Giáp-Ất,
Dần Mão) gặp vào những ngày thuộc hành Kim (như các ngày Canh-Tân, Thân-Dậu) và
những tháng hành Kim (như tháng bảy, tháng tám) thì bởi Kim khắc Mộc, sinh ra bệnh
ở gan và mật. Bên trong, biểu hiện ở bệnh lương tinh, lao phổi, thổ huyết,
đau đầu, suyễn, trúng phong, phù nề tê liệt, chứng phong, đau gân cốt.
Bên ngoài biểu hiện da khô, đau mắt, chân tay run rẩy... Sách mệnh lý nói: gân
cốt đau nhức, là do Mộc bị Kim thương hại, phải lấy Thủy giải độc, Bravoite thuộc Thủy, có tác dụng tốt
cho thể trạng người Mộc Cục (Thủy sinh Mộc), nhất là vào những ngày hay tháng
Kim thịnh (Canh-Tân, Thân-Dậu) và các tháng hành Kim như tháng bảy, tháng tám.
Người đeo đá Bravoite, có thể dùng Thủy khắc chế được Kim hại.
Dựa trên thuyết Orthotherapy và
công thức cấu tạo của đá Bravoite ((Fe,Ni)S2)
gồm: Nguyên tố Iron (Fe) chỉ số nguyên tử là 26, trong cơ thể người đạt tỉ trọng
là 60*10-4, khối lượng trung bình 0.0042kg chiếm tỷ lệ 0.00067%. Tác
động vừa tích cực cho sức khỏe do sắt là nguyên tố chủ đạo trong máu
(Hemoglobin, Cytochromes) và vài loại hóc-môn trong cơ thể. Tác dụng lên hệ tuần
hoàn, máu huyết. Được coi là có tác dụng tốt trong việc cầm máu, chữa các chứng
xuất huyết, và các chứng liên quan đến máu. Nguyên tố Nickel (Ni) số hiệu
nguyên tử là 28, tỉ trọng cơ thể là 140×10-7, khối lượng trung bình
0.000015kg, tỷ lệ nguyên tố là 0.0000015% trong không khí. Nguyên tố Sulfur (S)
có nguyên tử khối là 16, tỉ trọng cơ thể là 0.25, khối lượng trung bình 0.14kg,
tỷ lệ nguyên tố là 0.038% trong không khí. Tác động tích cực cho sức khỏe do
lưu huỳnh là thành phần chủ yếu của cơ bắp của sinh vật. Lưu huỳnh cũng cấu
thành nên nhiều chất hóc môn trong cơ thể như Cysteine, Methionine, Biotin,
Thiamine.Tác dụng lên cơ bắp, hỗ trợ khả năng vận động, cử động. Được cho là có
tác dụng hỗ trợ điều trị thương tích ở cơ và phục hồi cơ.
Dựa trên công thức hóa học của
đá Bravoite, theo thuyết Hài Hòa Bộ Tám loại đá
này mang yếu tố kim tinh với nguyên tố chủ đạo là nguyên tố Nước, vì vậy tác động
lên vùng thắt lưng, các tĩnh mạch, âm đạo, cổ họng, bả vai và thận, eo. Có tác
dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến các bệnh liên quan sản khoa, và
sự sinh sản, (sẩy thai, đẻ sớm...) các thương tích liên quan xương sống và
hông, liệt nửa người. Mặt khác, nó còn làm tăng cường tình cảm và cảm xúc, đặc
biệt là sự cảm nhận vẻ đẹp, cảm xúc của phụ nữ, nữ tính, hài hòa, đồng cảm,
thân thiện, tình dục nữ,... Nhấn mạnh yếu tố cảm xúc. Về mặt tinh thần, loại đá
này được cho là trấn giữ các mối quan hệ của nhà chiêm tinh thứ 5 và 12: hậu duệ
(nhà Nati) và tù đày (nhà Carcer). Dành hỗ trợ cho những người có mối quan hệ với
con cái không được như ý để cải thiện tình hình của mối quan hệ. Hàn gắng các rạng
vỡ của mối quan hệ. Và hỗ trợ các mối quan hệ liên quan đến luật pháp, cai trị.
Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố kim tinh bảo trợ về ngôn ngữ và văn
chương nói chung (Dante Alighieri). Dành cho những người làm trong lĩnh vực
liên quan đến các ngành ngôn ngữ và văn chương như giáo viên, nhà thơ, nhà văn,
biên kịch, thư ký, nhà nghiên cứu, thủ thư...
Thuyết Bát Quái Kinh Dịch dựa
vào hình thái tinh hệ của tinh thể gồm tám loại, được phân định thành tám quái
thuộc nội quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập Phương (cubic
- isometric) ứng Càn , Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam Phương (rhombohedral)
ứng Ly, Lục Phương (hexagonal - trigonal) ứng Đoài, Tam Tà (triclinic) ứng
Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic) ứng Tốn, Phi Tinh
(noncrystallinic) ứng Khôn. Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng khác: Lập
Phương ứng Càn, Tam Tà ứng Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn, Tam
Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở đây
chỉ trình bày thuyết của Thông Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm tám
màu, ứng với tám quái thuộc ngoại quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính, đều
nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ nhất được trình bày trong I-ching: Binary
Numbers, Astrology, And Chakras, dựa trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng,
Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ,
Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành ứng
bát quái cho rằng: Càn ứng dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn ứng
cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề xuất
dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam, Cấn
ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên
thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại quái tương ứng với hình dạng và màu sắc của
tinh thể, từ đó tính ra được quái trong
64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại ứng một bộ phận cơ thể theo y lý
trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể. Đá Bravoite có màu đen tương ứng quẻ
ngoại quái Khôn, có tinh hệ Lập phương tương ứng quẻ nội quái Càn, ghép lại
chính là quẻ quái số 11: quẻ Địa Thiên Thái. Quái số 11 ứng với vị trí dương vật
trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên quan đến cơ
quan sinh sản như rận mu, nấm, viêm da tiếp xúc, viêm nhiễm cơ quan sinh dục,
viêm nan lông,… Quẻ Địa Thiên Thái có nghĩa Thái là hanh thông, nó là quẻ trời
đất giao nhau mà hai khí thông nhau, cho nên là thái, quẻ tháng giêng đó. Nhỏ
là Âm, lớn là Dương, ý nói Khôn đi ở ngoài, Kiền đến ở trong. Quẻ Thái, nhỏ đi
lớn lại, tốt và hanh thông, trời đất giao nhau mà muôn vật hanh thông vậy; trên
dưới giao nhau mà chí giống nhau vậy. Trong Dương mà ngoài Âm, trong mạnh mà
ngoài thuận., người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy.
Nơi tìm ra đá: Bravoite có thể tìm thấy ở Argentina, Úc, Trung Quốc, Cộng hòa Congo, Ai Cập,...
Lời cảm ơn: bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến sĩ Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu tập Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments