Chalcosine- Huy Đồng Khoán
Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị Liệu, Thạch Học Trị Liệu dịch từ
chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ. Lithotherapy phân thành Litho đến
từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá, therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ]
tức là chữa trị, lithotherapy tức là chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với
đá ở ngoài da. Lithotherapy là một môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận
huyền học và thần bí học. Mặc dù có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả
năng của nó, đã được ứng dụng từ lâu trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại,
nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức màn bí mật của những điều thần kỳ giống như nền
Đông Y của người Trung Quốc hay Nam Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc
biệt trình bày về những lý luận căn bản trong Thạch Lý Học đối với Chalcosine , nằm trong chuỗi khảo cứu, viết riêng cho tuần báo
UNESCO.
Giới thiệu về đá Chalcosine
Giới thiệu về các thuyết: Giá trị thạch lý học của Chalcosine được trình bày thành các thuyết cơ bản: thuyết Bản mệnh
(Natal Stones), thuyết Quang Lý Học (Chromotherapy), thuyết Linh Khí (Reiki),
thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ
(Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves), thuyết Thái Lặc Mã (Thelema),
thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết Hoa Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo
Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié). Thuyết bản mệnh Phương Đông người ta căn cứ vào địa chi của tháng
sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần, tháng 2 là Mão, tháng 3 là Thìn, tháng
4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi, tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu, tháng
9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu, cùng phối hợp với
ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng dùng đá
có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ thuộc Hỏa (ứng dùng đá có tông màu cam đỏ
hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có tông màu trắng, xám, ánh bạc), Tý Hợi
thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu đen, chàm, tím), Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ
(ứng dùng đá có tông màu vàng, trong, ánh kim). Và theo đó, Thuyết Bản Mệnh
phương đông xếp loại đá này vào năm Nhâm Tuất, thuộc Thủy Cục, về Dương Phần.
Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Nhâm Tuất sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá
này màu đen, thuộc về hành Thủy, ứng về tháng Tý và Hợi, tức tháng 10 và 11. Thuyết
Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo tháng như sau: tháng một màu đỏ cam,
tháng hai màu tím tươi, tháng ba màu xanh lam, tháng tư màu trắng trong, tháng
năm màu lục đen, tháng sáu màu trắng đục, tháng bảy màu đỏ tươi, tháng tám màu
xanh chuối, tháng chín màu xanh lá, tháng mười màu đen, tháng mười một màu
vàng, tháng mười hai màu chàm. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo
hoàng đạo như sau: Bạch Dương màu xanh đen, Kim Ngưu màu xanh dương đậm, Song Tử
màu trắng trong, Cự Giải màu xanh lá mạ, Sư Tử màu đen, Xử Nữ màu cam, Thiên Bình
màu lục nhạt, Thiên Yết màu lam, Nhân Mã màu vàng, Ma Kết màu đỏ tươi, Bảo Bình
màu đỏ sậm, Song Ngư màu tím. Đá này màu đen được xếp vào loại đá bản mệnh của
tháng mười, mùa đông và xếp vào đá bản mệnh của cung Sư Tử, thuộc hệ Lửa. Vì vậy,
những ai sinh vào giữa 23 tháng 7 đến 22 tháng 8 hằng năm, hoặc vào tháng Y thì
được xem là có lợi khi đeo loại đá này. Theo thuyết Quang Lý học thì đá Chalcosine có màu đen. Ý nghĩa của màu sắc này được biểu hiện ở
các nên văn hóa khác nhau.Đối với người Ai Cập cổ đại, màu đen có sự liên
kết với tích cực; là màu sắc của sự sinh sản và đất màu đen đầy phù sa bị ngập
nước bởi sông Nile. Đó là màu sắc của Anubis, thần của thế giới âm ti, người
mang hình dạng của một con chó sói đen, và bảo vệ chống lại quỹ dữ từ cái chết.
Đối với người Hy Lạp cổ đại, màu đen cũng là màu sắc của thế giới âm ti, tách
ra khỏi thế giới của cuộc sống bên dòng sông Acheron, có nước đen. Những ai đã
phạm tội tồi tệ nhất đã được gửi đến ngục Tartarus, ngục sâu nhất và tối tăm
nhất. Ở trung tâm là cung điện của Hades, vua của thế giới người chết, nơi ông
ngồi trên một ngai vàng bằng gỗ mun màu đen. Ở Trung Quốc, màu đen có liên quan
đến nước, một trong năm yếu tố cơ bản được cho là tạo ra vạn vật; là mùa
đông, mùa lạnh, phía bắc, và thường được tượng trưng bởi một con rùa đen. Nó
cũng liên quan đến rối loạn, bao gồm rối loạn tích cực dẫn đến thay đổi và cuộc
sống mới. Khi hoàng đế Tần Thủy Hoàng nắm quyền lực từ triều đại nhà Chu, ông
đã đổi màu đế vương từ màu đỏ sang màu đen, nói rằng màu đen đã dập tắt màu đỏ.
Chỉ khi triều đại Hán xuất hiện vào năm 206 trước công nguyên, màu đỏ được phục
hồi như là màu hoàng đế. Trong cuộc sống những người thực sự thích màu đen
không nhiều. Nhưng những người thích sử dụng màu đen lại nhiều vô kể. Bởi trong
quan niệm hiện đại, màu đen mới là biểu tượng của giàu sang và quyền lực.Ở
Nhật, màu đen có liên quan đến sự huyền bí, ban đêm, cái chưa biết, siêu nhiên,
sự vô hình và cái chết. Kết hợp với màu trắng, nó có thể biểu tượng cho trực
giác. Tại Indonesia, màu đen có liên quan đến chiều sâu, thế giới ngầm, quỷ dữ,
thiên tai, và bàn tay trái. Tuy nhiên, khi kết hợp màu đen với màu trắng, nó
tượng trưng cho sự hài hòa và cân bằng. Màu đen mang lại sự huyền bí nhưng sang
trọng là màu đi liền với quyền lực. Trong cuộc sống màu đen luôn có một sức hấp
dẫn, lôi cuốn và vô cùng bí ẩn. Nó có khả năng che lấp mọi cái xấu, mọi cái
không tốt của con người. Màu đen còn là biểu tượng của cái ác, của những thế
lực xấu xa, đen tối. Nếu coi cuộc sống này là một bộ phim thì màu đen là những
nhân vật phản diện. Khi ngắm nhìn màu đen con người ta vừa có cảm giác run sợ,
vừa có cảm giác bị lôi cuốn kích thích trí tò mò. Thuyết Thelema cho rằng đá Chalcosine thuộc Sepherot Binah (có nghĩa là
"Sự Hiểu Biết", Hebrew: בינה), là sephira trí tuệ thứ hai trên Cây Sự
Sống. Nó nằm dưới Keter (trong hệ thống các sephirah), ngang Chokmah và trên
Gevurah. Nó thường dẫn ra bốn con đường đến: Keter, Chockmah, Gevurah, và
Tiphereth (một số Kabbalists khác đặt một đường dẫn từ Binah để Chesed.) Trong
một số hình tượng, người ta đề cập đến (là một sephirot bị xáo trộn, thể hiện
trạng thái nhìn từ trong ra ngoài của sự vật) nó có thể liên quan đến "mắt
trái", "bán cầu não trái" hoặc "trái tim". Binah có
liên quan đến màu đen. Theo Bahir: "Phần thứ ba (lời nói): Kho tàng của
Torah, kho tàng trí tuệ, kho tàng của linh hồn Thánh Thần, được đụt đẽo bởi
thần khí của Chúa Trời, điều này dạy rằng Đức Chúa Trời đã tháo gỡ tất cả các
chữ cái của Torah và khắc chúng bằng Chúa Thánh Linh, theo khuôn đúc của
Ngài.". Binah là 'sự hiểu biết trực quan', hay 'sự chiêm nghiệm'. Nó được
so sánh với một "cung điện của sự phản chiếu" phản ánh quan điểm
thuần túy của ánh sáng trong Chokhmah, sự khôn ngoan và làm nó tăng lên với vô
số cách khác nhau. Theo nghĩa này, đó là “kho tàng”, được khắc bằng ánh sáng
của sự khôn ngoan. Đó là dạ con, nơi tạo ra hình dạng cho Thần Khí của Thiên
Chúa. Trên phương diện tâm lý, Binah là "trí tuệ được xử lý", còn
được gọi là lý luận suy diễn. Nó là “davar mitoch davar” - hiểu một ý tưởng
thông qua một ý tưởng khác. Trong khi Chockmah là trí tuệ không xuất phát từ
khả năng suy luận (nó được lấy cảm hứng hoặc được dạy), Binah là khả năng suy
luận bẩm sinh trong người làm việc để phát triển ý tưởng một cách đầy đủ. Binah
có liên quan đến nữ tính. Trong hình thức hoàn toàn khớp nối của nó, Binah sở
hữu hai partzufim. Cao hơn trong số này được gọi là Imma Ila'ah ("mẹ bề
trên"), trong khi thấp hơn được gọi là tevunah ("nhận thức").
Hai phần này được gọi chung là Imma ("mẹ"). Các nhà Thần học đã
so sánh Sephira với các luân xa của thần bí Ấn Độ, và một trong những so sánh
đó là so sánh của Binah và Chokmah với chakra Ajna, đó là nơi mà Shiva và
Shakti hợp thành một. Đối chiếu với đại diện tiêu cực của nó trên “Tree of
Death – Cây Tử Vong”, nó có cấp bậc quỷ Sathariel, được cai trị bởi Archdemon
Lucifuge Rofocale. Trong mối tương quan giữa Binah với Shakti và Chokmah với
Shiva, Shakti là thực thể còn sống, trong khi đó Shiva là thực thể chết, một
xác chết, không có năng lượng. Thuyết
Chakra cho rằng loại đá này thuộc Chakra Muladhara (tiếng Phạn: मूलाधार, IAST:
Mūlādhāra, Hồng Kông, tiếng Anh: "root support") hoặc chakra gốc là một
trong bảy chakras chính theo hệ thống Hindu. Nó được tượng trưng bởi một hoa
sen với bốn cánh hoa và màu đỏ. Thần của mooladhar là thần Shri Ganesha.
Muladhara nằm gần xương cụt ngay tại xương mông, đôi khi ở kshetram (vị trí
thiêng liêng), hoặc điểm kích hoạt trên bề mặt, nằm giữa đáy chậu và xương cụt
hoặc xương chậu. Do vị trí và kết nối với hoạt động bài tiết, nó liên quan đến
hậu môn. Muladhara được cho là nền tảng mà từ đó ra ba kênh tâm linh chính hoặc
hiện lên mạch máu: Ida, Pingala và Sushumna. Người ta cũng tin rằng Muladhara
là nơi ở tinh tế của Thần Ganapati của Hindu. Trong lời cầu nguyện cao quý nhất
đối với Ganapati, Ganapati Atharvashirsha, người ta nói rằng "một người
tôn thờ Thần Ganapati sẽ dễ dàng nắm bắt được khái niệm và nhận ra
Brahman". Nó được tượng trưng bởi một hoa sen màu đỏ, bốn cánh hoa với một
hình vuông màu vàng ở giữa. Mỗi cánh hoa có một âm tiết tiếng Phạn वं vaṃ, शं śaṃ, षं ṣaṃ, and सं saṃ được
viết bằng vàng, đại diện cho bốn vrittis hay ý thức: niềm vui lớn nhất,
niềm vui tự nhiên, sự hân hoan trong việc kiểm soát sự đam mê, và hạnh phúc
trong sựu tập trung. Nói cách khác, chúng có thể đại diện cho dharma (khát vọng
tâm linh trong linh hồn), artha (khát vọng tâm linh), kama (khát vọng thể xác)
và moksha (khát vọng giải phóng tinh thần). Tám mũi tên hướng ra từ các cạnh
và góc của hình vuông. Muladhara được coi là nền tảng của "năng lượng cơ
thể". Các hệ thống Yogic nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ổn định các
chakra này. Kundalini bắt đầu được đánh thức ở đây. Nó còn được gọi là vị trí của
"bindu đỏ" hay điểm tinh tế, điểm này khi tăng lên đến "bindu trắng"
trong đầu thì sẽ kết hợp các nguồn năng lượng nữ tính và nam tính, như Shakti
và Shiva. Nó liên kết với các yếu tố của trái đất, khứu giác và hoạt động của
bài tiết."Bằng cách thiền định về Đấng tỏa sáng trong Chakra Muladhara, với
ánh sáng của mười triệu mặt trời, con người có thể trở thành chúa tể của lời
nói và vua của nhân loại, và một Adept hay người thông thạo tất cả các loại học
thức. Ông trở sẽ nên miễn dịch trước tất cả các loại bệnh tật, và trong sâu thẳm
tâm hồn của anh ta trở nên tràn ngập niềm vui to lớn, ý muốn thuần khiết bằng
những lời nói sâu sắc và âm nhạc, ông ta ưu tiên phục vụ cho Devas hay thánh thần
". Trong kundalini yoga (bài tập, tập trung
vào thở) có các phương pháp yoga khác nhau được tổ chức để tác động năng
lượng ở Muladhara: asanas hay tư thế đứng bằng vai (như Garudasana,
Shashankasana và Siddhasana); nhìn chằm chằm đầu mũi, hoặc Nasikagra Drishti;
riêng pranayamas; là quan trọng nhất trong thực hành Mula Bandha, liên quan đến
sự co lại của đáy chậu, đánh thức kundalini, và rất quan trọng cho việc giữ lại
tinh dịch. Đá Chalcosine có màu đen, theo thuyết Phật giáo Mật tông
là bổn sắc của A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya). Ngài là sự chuyển hóa của sân hận
thành từ bi. Màu lam và đen đại diện cho phẫn nộ tướng ứng với tai. Đeo Chalcosine sẽ được A Súc Bệ Như Lai Phật hộ trì, hỗ trợ
về tai và sự điềm tĩnh. Vì đây cũng là màu của cõi người, đá Chalcosine được coi là bùa hộ về thính dục, giúp thoát
khỏi các nguy hiểm về thính dục thông qua vị phật phẫn nộ. Tử thư nhắc đến màu
đen như sự mượn tạm hình tướng phẫn nộ để biểu thị sự từ bi, cũng là sự hiển lộ
của sân hận cần hóa giải thông qua các biệt xảo. Tử Thư Tây Tạng viết: Đến lượt
ở phương bắc là Vetali, màu đen, cầm một kim cương sử và một cái tách bằng sọ
người, bà tượng trưng phẩm chất bất biến của pháp tánh kim cương sử là bất hoại
và cái tách bằng sọ người là một biểu tượng khác nữa của phương tiện thiện xảo.
Từ hướng tây thiên nữ Srgalamukha màu đen, đầu con cáo cầm lưỡi dao cạo bên tay
phải và chùm ruột bên tay trái đang ăn chùm ruột và liếm máu. từ hướng tây
thiên nữ Srgalamukha màu đen, đầu con cáo cầm lưỡi dao cạo bên tay phải và chùm
ruột bên tay trái đang ăn chùm ruột và liếm máu. từ phía tây bắc thiên nữ
Kakamukha màu đen, đầu quạ, cầm tách sọ người bên tay trái một thanh kiếm bên
tay phải đang ăn tim và phổi. Con hãy nhận ra bất cứ cái gì xuất hiện đều là vở
tuồng diễn kịch của tâm, đó là những phóng tưởng của tự con. cơn lốc xoáy rất
lớn của nghiệp, một cơn lốc đáng sợ, không thể chịu đựng được, quay cuồng dữ
dội, từ phía sau đẩy con tới. Con đừng sợ cơn lốc đó, đó chính là phóng tưởng
mê lầm của con. Bóng tối đen dày đặc rất kinh hãi, không chịu nổi, sẽ đi đằng
trước mặt con cùng với những tiếng kêu rùng rợn như tiếng thét „Đánh và Giết‟.
con sẽ kinh nghiệm giống như mô tả trước, như là gió xoáy, bão tuyết, mưa đá,
xung quanh tối đen và nhiều người săn đuổi con. Nếu con sắp sanh ra làm một quỷ
đói, con sẽ thấy những thân cây cụt ngọn và những hình dáng màu đen chỉa đầu
nhọn lên, những động và hang cạn và những đụn đất nhỏ màu đen. Nếu con sắp sanh
ra làm một chúng sanh ở địa ngục, con sẽ nghe những chúng sanh có nghiệp ác hát
những bài hát, hoặc con sẽ phải đi vào một cách bất lực, hoặc con sẽ cảm thấy
rằng con đã đi vào một vùng đất tối tăm, với những căn nhà có màu đen màu đỏ,
những cái hố đen và những con đường màu đen. Những người thường xuyên gặp hoàn
cảnh gây sân hận, cần được thanh lọc, có thể dùng loại đá màu đen để giải trừ. Theo thuyết Reki (Linh Khí)
Đá Chalcosine trong hành Thủy và thuộc vào Kinh
Túc Thiếu Âm Thận, Kinh Túc Thái Dương
Bàng Quang. Kinh Túc Thiếu âm Thận liên quan các chứng ở hệ
sinh dục, tiết niệu, ruột, họng, ngực. Ví dụ như huyệt Chiếu hải (huyệt giao
hội của kinh thiếu âm thận với mạch âm kiểu) có tác dụng liên quan đến đau sưng mắt
cá trong, kinh nguyệt không đều, táo bón, đau bụng do thoát vị, ngứa sinh dục
ngoài, khô họng; huyệt Phục lưu
(huyệt kinh thuộc kim) có tác dụng liên quan đến liệt cơ, teo cơ, lạnh cẳng chân, tiểu
rắt, lưỡi khô, mồm khô, sôi bụng, phù thũng, ra mồ hôi trộm, cảm không có mồ
hôi và mạch yếu nhỏ; huyệt Giao tín
(huyệt khích của mạch âm kiểu) có tác dụng liên quan đến kinh nguyệt không đều, băng huyết, sa dạ con, tinh hoàn
sưng đau, tiêu chảy, bí tiểu; huyệt
Trúc tân (huyệt khích của mạch âm duy) có tác dụng liên quan đến đau mặt trong
cẳng chân, điên cuồng. Kinh
Túc Thái Dương Bàng Quang liên quan đến bệnh ở mắt, mũi, đầu, gáy, thắt
lưng, hậu môn, não, sôt, bệnh các tạng phủ (dùng các huyệt Du sau lưng). Ví dụ như huyệt Tinh
Minh có tác dụng liên quan đến Đau mắt đỏ, mắt có màng có mộng, ngứa mắt, mờ mắt,
quáng gà, liệt dây thần kinh VII ngoại biên, teo thần kinh thị; huyệt Toản
Trúc có tác dụng liên quan đến Đau mắt đỏ, hoa mắt, chảy nước mắt, mờ mắt, giật mắt,
đau nhức vùng trán, đau đầu; huyệt
Mi Xung có tác dụng liên quan đến
đau đầu, hoa mắt; huyệt Khúc Sai
có tác dụng liên quan đến đau trước
trán và đỉnh đầu, hoa mắt, đau mắt, ngạt mũi, chảy nước mũi; huyệt Ngũ Xứ có tác dụng liên quan đến đau
đầu, hoa mắt, co giật.
Ví dụ như huyệt Đại Trữ có
tác dụng liên quan đến cứng cổ gáy, đau nhức vai, đau đầu, cảm
phong hàn, ho, sốt không có mồ hôi, nhức xương; huyệt Phong Môn (Nhiệt phủ - Huyệt Hội của kinh Thái dương ở chân
với mạch Đốc) có
tác dụng liên quan đến đau phần trên lưng, đau cứng gáy, đau đầu, cảm mạo,
ho, sốt, nóng vùng ngực, cứu có thể phòng bệnh cảm mạo; huyệt Phế Du (Huyệt Du
của Phế) có tác dụng liên quan đến đau lưng, cứng gáy, vẹo cổ, lao phổi,
ho, ho ra máu, hen suyễn, sốt âm, ra mồ hôi trộm; huyệt Quyết Âm Du (Huyệt Du của Tâm bào) có tác dụng liên quan đến Ho, đau tim, nôn mửa, tức ngực. Theo thuyết Can Chi
Tứ Trụ, đá ngọc thuộc mệnh Thủy rất hạp với mệnh Mộc sinh vào ngày xuân,được
nguyệt lệnh mà phần lớn là thân mạnh,vì vừa qua mùa đông lạnh,có chút lạnh
lẽo,mượn Hỏa sưởi ấm cơ thể tự do phát triển vươn xa,có Thủy nuôi dưỡng sẽ sinh
trưởng nhanh. Mộc sinh vào cuối xuân,do thời tiết đã ấm,dương khí đã vượng
thịnh,cần nhiều Thủy hơn để điều hòa nếu không sẽ vì thiếu Thủy mà thành khô
héo. Tóm lại, Mộc mùa xuân tốt nhất nên có Thủy,Hỏa đến điều hòa mới phát triển
tốt.Nếu lực của Thủy vừa phải,Mộc có thể duy trì cân bằng,sẽ được tài phú. Thuyết Hoa Giáp cho
rằng Chalcosine thuộc về Thủy (Đen
và Tím) phối Thổ (Vuông và Cân), tức Thủy Cục. Do đó, Chalcosine giúp khắc chế các
bản mệnh Kim – Mộc như Giáp Thân, Ất Dậu, Canh Dần, Tân Mão, vì vậy, những bản
mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Chalcosine cũng phù trợ cho các
bản mệnh thuộc Mộc (Thủy sinh Mộc), gồm có mệnh thuộc Thủy Mộc và thuần Mộc:
Giáp Tý, Ất Hợi, Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Dần, Ất Mão, các bản mệnh này có lợi
khi tiếp xúc với loại ngọc này. Thuyết Khí Tiết
nói, người có mệnh cục Mộc (sinh vào ngày Giáp-Ất, Dần Mão) gặp vào những ngày
thuộc hành Kim (như các ngày Canh-Tân, Thân-Dậu) và những tháng hành Kim (như
tháng bảy, tháng tám) thì bởi Kim khắc Mộc, sinh ra bệnh ở gan và mật. Bên
trong, biểu hiện ở bệnh lương tinh, lao phổi, thổ huyết, đau đầu, suyễn,
trúng phong, phù nề tê liệt, chứng phong, đau gân cốt. Bên ngoài biểu hiện da
khô, đau mắt, chân tay run rẩy... Sách mệnh lý nói: gân cốt đau nhức, là do Mộc
bị Kim thương hại, phải lấy Thủy giải độc, Chalcosine thuộc Thủy, có tác dụng tốt cho thể trạng người Mộc Cục
(Thủy sinh Mộc), nhất là vào những ngày hay tháng Kim thịnh (Canh-Tân, Thân-Dậu)
và các tháng hành Kim như tháng bảy, tháng tám. Người đeo đá Chalcosine, có thể dùng Thủy khắc chế được Kim hại. Dựa
trên thuyết Orthotherapy và công thức cấu tạo của đá Chalcosine (Cu2S) gồm:
Nguyên tố Sulfur (S) có nguyên tử
khối là 16, tỉ trọng cơ thể là 0.25, khối lượng trung bình 0.14kg, tỷ lệ nguyên
tố là 0.038% trong không khí. Tác động tích cực cho sức khỏe do lưu huỳnh là
thành phần chủ yếu của cơ bắp của sinh vật. Lưu huỳnh cũng cấu thành nên nhiều
chất hóc môn trong cơ thể như Cysteine, Methionine, Biotin, Thiamine.Tác dụng
lên cơ bắp, hỗ trợ khả năng vận động, cử động. Được cho là có tác dụng hỗ trợ
điều trị thương tích ở cơ và phục hồi cơ. Dựa trên
công thức hóa học của đá Chalcosine, theo thuyết Hài Hòa Bộ Tám loại đá
này mang yếu tố kim tinh với nguyên tố chủ đạo là nguyên tố Nước, vì vậy tác động
lên vùng thắt lưng, các tĩnh mạch, âm đạo, cổ họng, bả vai và thận, eo. Có tác
dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến các bệnh liên quan sản khoa, và
sự sinh sản, (sẩy thai, đẻ sớm...) các thương tích liên quan xương sống và
hông, liệt nửa người. Mặt khác, nó còn làm tăng cường tình cảm và cảm xúc, đặc
biệt là sự cảm nhận vẻ đẹp, cảm xúc của phụ nữ, nữ tính, hài hòa, đồng cảm,
thân thiện, tình dục nữ,... Nhấn mạnh yếu tố cảm xúc. Về mặt tinh thần, loại đá
này được cho là trấn giữ các mối quan hệ của nhà chiêm tinh thứ 5 và 12: hậu duệ
(nhà Nati) và tù đày (nhà Carcer). Dành hỗ trợ cho những người có mối quan hệ với
con cái không được như ý để cải thiện tình hình của mối quan hệ. Hàn gắng các rạng
vỡ của mối quan hệ. Và hỗ trợ các mối quan hệ liên quan đến luật pháp, cai trị.
Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố kim tinh bảo trợ về ngôn ngữ và văn
chương nói chung (Dante Alighieri). Dành cho những người làm trong lĩnh vực
liên quan đến các ngành ngôn ngữ và văn chương như giáo viên, nhà thơ, nhà văn,
biên kịch, thư ký, nhà nghiên cứu, thủ thư... Thuyết Bát Quái Kinh Dịch dựa vào hình thái tinh hệ của tinh thể gồm tám loại,
được phân định thành tám quái thuộc nội quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông
Thiên Học: Lập Phương (cubic - isometric) ứng Càn , Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn,
Tam Phương (rhombohedral) ứng Ly, Lục Phương (hexagonal - trigonal) ứng Đoài,
Tam Tà (triclinic) ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic)
ứng Tốn, Phi Tinh (noncrystallinic) ứng Khôn. Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn)
tương ứng khác: Lập Phương ứng Càn, Tam Tà ứng Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn
Tà ứng Cấn, Tam Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn
Khảm. Ở đây chỉ trình bày thuyết của Thông Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh
thể gồm tám màu, ứng với tám quái thuộc ngoại quái trong kinh dịch. Có ba thuyết
chính, đều nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ nhất được trình bày trong I-ching:
Binary Numbers, Astrology, And Chakras, dựa trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn
ứng trắng, Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn
ứng đỏ, Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên
ngũ hành ứng bát quái cho rằng: Càn ứng dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng
lục, Tốn ứng cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam
Apolo đề xuất dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm
ứng lam, Cấn ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình
bày dựa trên thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại quái tương ứng với hình dạng
và màu sắc của tinh thể, từ đó tính ra được quái trong 64 quái kinh dịch. Mỗi
quái kinh dịch lại ứng một bộ phận cơ thể theo y lý trong kinh dịch, phân thành
64 phần cơ thể. Đá Chalcosine có màu đen tương ứng quẻ ngoại quái Khôn, có tinh hệ Đơn Tà tương ứng quẻ
nội quái Khảm, ghép lại chính là quẻ quái số 7: quẻ Địa Thủy Sư. Quái số 7 ứng với vị trí lỗ tiểu trên cơ thể. Vì vậy,
loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên quan đến cơ quan sinh dục như rận mu, nấm, viêm da tiếp xúc, viêm nhiễm cơ quan sinh dục,
viêm nan lông,…. Quẻ Địa Thủy Sư có nghĩa là Sư là quân chúng. Quẻ này dưới Khảm
trên Khôn, Khảm hiểm mà Khôn thuận, Khảm là nước mà Khôn là đất, đời xưa ngụ
hình ở nông, núp cái rất hiểm chỗ cả thuận, giấu cái không thể lường trong chỗ
rất tĩnh. Lại nữa, trong quẻ chỉ hào Chín Hai là một hào Dương ở giữa quẻ dưới,
là tượng làm tướng; trên dưới năm hào Âm đều phải thuận mà theo, là tượng làm
quân. Hào Chín Hai lấy tư cách Dương cương ở dưới làm việc, hào Sáu Năm là hạng
mềm yếu ở trên mà dùng người, tức là cái tượng ông vua sai tướng ra quân, cho
nên quẻ này gọi tên là Sư. Trượng nhân là tiếng để gọi bậc trưởng lão, cái đạo
dùng quân lợi về được chính đính, mà phải dùng người lão thành, mới được tốt mà
không có lỗi, người đeo đá này sẽ
được các lợi ích như vậy. Nơi tìm thấy đá: Chalcosine có thể được tìm thấy ở Ê-ri-tơ-rê-a, Xu- đăng, Iran,...
Lời cảm ơn:
bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến sĩ
Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu tập
Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng
Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments