Curite
Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị Liệu, Thạch Học Trị Liệu dịch từ
chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ. Lithotherapy phân thành Litho đến
từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá, therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ]
tức là chữa trị, lithotherapy tức là chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với
đá ở ngoài da. Lithotherapy là một môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận
huyền học và thần bí học. Mặc dù có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả
năng của nó, đã được ứng dụng từ lâu trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại,
nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức màn bí mật của những điều thần kỳ giống như nền
Đông Y của người Trung Quốc hay Nam Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc
biệt trình bày về những lý luận căn bản trong Thạch Lý Học đối với Curite, nằm trong chuỗi khảo cứu, viết riêng cho tuần báo
UNESCO.
Giới thiệu về đá Curite
Giới thiệu về các thuyết: Giá trị thạch lý học của Curite
được trình bày thành các thuyết
cơ bản: thuyết Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học (Chromotherapy),
thuyết Linh Khí (Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng Trị Liệu
(Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves),
thuyết Thái Lặc Mã (Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết Hoa
Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié). Thuyết
bản mệnh Phương Đông người
ta căn cứ vào địa chi của tháng sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần, tháng 2
là Mão, tháng 3 là Thìn, tháng 4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi, tháng 7
là Thân, tháng 8 là Dậu, tháng 9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý,
tháng 12 là Sửu, cùng phối hợp với ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá, như
sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng dùng đá có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ thuộc
Hỏa (ứng dùng đá có tông màu cam đỏ hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có
tông màu trắng, xám, ánh bạc), Tý Hợi thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu đen,
chàm, tím), Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ (ứng dùng đá có tông màu vàng, trong,
ánh kim). Và theo đó, Thuyết Bản Mệnh phương đông xếp loại đá này vào năm Đinh
Sửu, thuộc Hỏa Cục, về Âm Phần. Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Đinh Sửu sử
dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu cam, thuộc về hành Hỏa, ứng về tháng Tỵ và
Ngọ, tức tháng 4 và 5. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo tháng
như sau: tháng một màu đỏ cam, tháng hai màu tím tươi, tháng ba màu xanh lam,
tháng tư màu trắng trong, tháng năm màu lục đen, tháng sáu màu trắng đục, tháng
bảy màu đỏ tươi, tháng tám màu xanh chuối, tháng chín màu xanh lá, tháng mười
màu đen, tháng mười một màu vàng, tháng mười hai màu chàm. Thuyết Bản Mệnh
phương tây được định nghĩa theo hoàng đạo như sau: Bạch Dương màu xanh đen, Kim
Ngưu màu xanh dương đậm, Song Tử màu trắng trong, Cự Giải màu xanh lá mạ, Sư Tử
màu đen, Xử Nữ màu cam, Thiên Bình màu lục nhạt, Thiên Yết màu lam, Nhân Mã màu
vàng, Ma Kết màu đỏ tươi, Bảo Bình màu đỏ sậm, Song Ngư màu tím. Đá này màu cam
được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng một, mùa xuân và xếp vào đá bản mệnh của
cung Xử Nữ, thuộc hệ Đất. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 23 tháng 8 đến 22
tháng 9 hằng năm, hoặc vào tháng 9 thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này. Theo thuyết Quang Lý học thì đá Curite
có màu cam. Ý nghĩa của màu sắc
này được biểu hiện ở các nên văn hóa khác nhau. Trong Nho giáo, tôn
giáo và triết học của Trung Quốc cổ đại, cam là màu sắc của sự biến đổi. Theo
Khổng giáo, sự tồn tại được điều chỉnh bởi sự tương tác của nguyên tắc hoạt
động nam giới, dương khí, và nguyên tắc thụ động nữ giới, âm khí. Màu vàng và
đỏ được so sánh với ánh sáng, lửa, tâm linh và trực giác, dường như đối lập
nhưng lại bổ sung. Trong sự tương tác giữa hai màu này đã dẫn đến màu da cam,
màu sắc của sự chuyển đổi.Trong Sanatan Dharma (Hindu Giáo), màu vàng nghệ sẫm
cao có liên quan đến sự hy sinh, kiêng cữ trong tôn giáo, tìm kiếm ánh sáng và
sự cứu rỗi. Vàng nghệ hoặc “bhagwa” là màu sắc thiêng liêng nhất đối với người
Hindu và thường được mặc bởi sanyasis người đã rời nhà của họ để tìm kiếm sự
thật cuối cùng. Theo một số nghiên cứu, màu cam có khả năng tăng cường oxy lên
não và do đó cho phép não hoạt động tốt hơn và sáng tạo hơn. Tuy nhiên, bạn nên
tránh màu cam khi cần tạo ra một không gian yên tĩnh và suy tư. Màu cam là một
màu tạo ra năng lượng phong thủy thúc đẩy những mối quan hệ trong cuộc sống,
gắn kết cộng đồng. Đây là màu được thụ hưởng sự mạnh mẽ của màu đỏ và sự hạnh
phúc của màu vàng. Nó đi liền với sự vui tươi, nhẹ nhàng và tươi mát. Màu cam
mang đến sự hạnh phúc, sôi động và bắt mắt. Biểu trưng cho sự cố gắng, thu hút,
quyết rũ, hạnh phúc, sáng tạo. Với mắt người màu cam tương đối nóng và chính vì
thế nó mang tới cảm giác ấm nóng, tuy nhiên nó không mạnh mẽ màu đỏ. Thuyết Thelema cho rằng Curite
thuộc
Sepherot Hod (Hebrew הוד, còn có nghĩa là "uy quyền, huy hoàng, vinh
quang" [1]) là sephira thứ tám của Cây Sự Sống. Hod nằm dưới Gevurah và
trên Netzach; Yesod nằm ở phía đông nam của Hod. Nó có bốn đường dẫn, dẫn đến
Gevurah, Tiphereth, Netzach, và Yesod. Tất cả các sephirot được ví như các bộ
phận khác nhau của cơ thể, và Netzach và Hod giống như hai chân của một người,
tức là chân phải và trái. Bàn chân thường chỉ là phương tiện cho hoạt động của
một người. Trong khi bàn tay là công cụ chính của hành động, bàn chân giúp mang
con người đến nơi mà họ muốn thực hiện hành động nào đó. Cả hai nguồn lực này
tìm thấy sự cân bằng trong Yesod, nền móng, thế giới của vô thức, nơi các năng
lực khác nhau tạo ra đang chờ đợi sự biểu hiện ở thế giới thấp nhất của
Malkuth, Vương quốc.Tổng lãnh Thiên Sứ về lĩnh vực này là Michael, và Bene
Elohim là trật tự trong Angelic. Tổng lãnh Quỷ dữ phản diện trong Qliphoth là
Samael, đứng đầu bởi Archdemon Adramelech. Hod được cho là lĩnh vực trong đó hầu
hết các nhà ảo thuật hoạt động. Một ví dụ được đưa ra bởi Dion Fortune trong
cuốn Mystical Qabalah: Hãy tưởng tượng người đàn ông nguyên thủy đang thiền
định trong vùng hoang dã, tiếp xúc và bắt đầu hiểu một số năng lượng bao quanh
anh ta. Để anh có thể nắm bắt nó tốt hơn, anh tạo ra một biểu tượng, có lẽ là
hình dạng của một vị thần hoặc một biểu tượng, vì vậy anh có một cái gì đó anh
có thể liên kết. Sau đó anh ta sử dụng bức tượng đó hoặc biểu tượng đó trong
các buổi lễ tương lai để tiếp xúc với năng lượng phi vật thể đó một lần nữa.
Đây là vai trò mà Hod sữ dụng trong phép thuật, trong khi âm nhạc và khiêu vũ
có thể có mặt trong buổi lễ như vậy là vai trò mà Netzach có thể chơi, cung cấp
năng lượng cơ bản để đạt đến mức độ cao hơn của ý thức. So với các hệ thống
phương Đông, cả Hod và Netzach đôi khi đều kết hợp với chakra Manipura, nó liên
quan đến việc phá vỡ và giải phóng năng lượng.Trong 777, Aleister Crowley kết
hợp Hod với Four Eights của Tarot huyền bí, Anubis, Thoth, Hanuman, Loki,
Hermes, Mercury, Jackal. Triệu chứng, Opal, Storax, và Quicksilver. Thuyết
Chakra cho rằng loại đá này thuộc Chakra Svadhishthana (tiếng Phạn: स्वाधिष्ठान, IAST:
Svādhiṣṭhāna, tiếng Anh: "one’s own base"), hoặc \ chakra, là chakra
chính thứ hai theo Hindu Tantrism (hệ thống). Vị chúa của chakra swadhisthana
là Thần Bhoramdev Saraswati. Svadhishthana được minh họa như một hoa sen trắng
(Nelumbo nucifera). Nó có sáu cánh hoa màu đỏ tươi có ghi các âm tiết: बं ban, भं bhaṃ, मं maṃ, यं yaṃ, रं raṃ and लं laṃ.
Bên trong hoa sen này là một trăng lưỡi liềm trắng đại diện cho vùng nước do vị
thần Varuna chủ tọa.Nguồn gốc thần chú, nằm trong vùng sâu nhất trong vòng
tròn, là một mặt trăng màu trắng वं vaṃ. Câu thần chú nằm phía trên ở trong vòng ràng buộc, hay
dấu chấm, là vị thần Vishnu. Ông có màu xanh đậm và mặc một dhoti hay trang phục
truyền thống ấn độ màu vàng. Ông ta cầm một tù và, một cái chùy, một cái vòng
và một hoa sen.Ông ta mặc shriwatsa mark , và đá koustabha. Ông ta đang ngồi
trên hoa sen hồng, hoặc trên con chim ưng thần bí Garuda.Sức mạnh của ông là nữ
thần Rakini (hay Chakini). Cô ấy màu đen, mặc áo đỏ hoặc trắng và ngồi trên hoa
sen đỏ. Cô thường được miêu tả bằng một mặt và hai cánh tay, cầm thanh kiếm và
lá chắn, hoặc hai mặt và bốn vũ trang, và giữ một đinh ba, hoa sen, trống và sấm
sét, hoặc mũi tên, đầu lâu, trống và rìu.Sáu cánh tượng trưng cho các phương thức
của ý thức sau đây, còn gọi là vittitti hay ý thức: tình thương, tàn nhẫn,, cảm
giác hủy diệt, ảo tưởng, khinh miệt và nghi ngờ. Svadhishthana nằm phía trên Muladhara
(tiếng Phạn: मूलाधार,
IAST: Mūlādhāra, tiếng Anh: "root support") hoặc chakra gốc nằm trong
xương cụt (xương đuôi), ở phái trên chakra Muladhara hai ngón tay. Điểm tương ứng
của nó ở phía trước của cơ thể (i.e its kshetram)
là ngay ở dưới lỗ rốn.Nó liên quan đến vị giác (lưỡi) và sinh sản (bộ phận sinh
dục).Nó thường liên quan đến tinh hoàn và buồng trứng. Chúng tạo ra các hormone
testosterone hoặc estrogen, có ảnh hưởng đến hành vi tình dục. Chúng được cất
giữ ở các khu vực nơi mà thông tin di truyền nằm im không hoạt động, theo cách
tương tự samskaras hay hồi ức nằm im không hoạt động trong Svadhishthana. Thực
hành trong kundalini yoga (bài tập, tập trung
vào thở) đùng để kiểm soát và cân bằng năng lượng trong chakra
Svadhisthana bao gồm vajroli mudra (co thắt cơ quan sinh dục), ashvini mudra
(co thắt hậu môn), và nhiều asana (đứng bằng vai) và pranayamas (kiểm soát hơi
thở). Các nhà huyền học phương Tây tạo ra kabbalistic để liên kếtcủa
Svadhishthana qua Sephirah Yesod. Yesod cũng liên quan đến các cơ quan sinh dục.
Chức năng của nó trong cây sự sống là thu thập các nguồn năng lượng khác nhau
đã được tạo ra từ gốc cây dưới thấp và phân phát cho Malkuth, thế giới vật chất,
nơi mà năng lượng có thể tìm thấy biểu hiện của vật chất. Theo cách giải thích
của Sufism, thân thể tâm linh của một con người được miêu tả là một hệ thống
được kết nối (Lataif-e-sitta), trong đó có một trung tâm năng lượng được gọi là
nafs. Theo Lataif-e-sitta, nafs ở ngay phía dưới rốn. Các nafs kết hợp tất cả
các yếu tố tự hạ thấp của con người, thứ
bị thuần hóa để đạt được sự gần gũi với Allah thượng đế. Đá Curite
có màu cam, theo thuyết
Phật giáo Mật tông là bổn sắc của A Di Đà Như Lai (Amitabha) . Ngài là sự
chuyển hóa của sự hỗn độn thành sự phân minh. Màu đỏ đại diện cho vô úy tướng
ứng với miệng. Đeo Curite sẽ được A Di Đà Như Lai Phật hộ trì, hỗ
trợ về miệng và sự phân minh. Vì đây cũng là màu của cõi atula, đá Curite
được coi là bùa hộ về vị
dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về vị dục thông qua vị phật phân minh. Tử
thư nhắc đến màu đỏ như biểu hiện cho sự phân minh, trí huệ, đồng thời sự tỵ
nạnh ganh ghét. Tử Thư Tây Tạng viết rằng: Vào ngày thứ tư, một ánh sáng đỏ –
đó là yếu tố tinh khiết của lửa, sẽ chiếu sáng và đồng thời đức Phật A Di Đà từ
cõi phương Tây màu đỏ, Cõi Cực Lạc (The Blissful) sẽ xuất hiện trước mặt con.
Thân ngài màu đỏ, ngài cầm hoa sen trong tay, ngài ngự trên ngai con chim công,
ngài đang ôm người phối ngẫu là Phật Mẫu Pandaravasini. Ánh sáng đỏ của tưởng
uẩn trong tánh thanh tịnh căn bản của nó là Diệu Quan Sát Trí (wisdom of
discrimination), màu đỏ rực rỡ, được trang hoàng bởi những dĩa ánh sáng quang
minh, rõ rệt, sắc bén, óng ánh từ tim của đức Phật A Di Đà. Vào ngày thứ tư, có
các tia sáng của hỏa đại màu đỏ xuất phát từ phương tây. Chính giữa luồng ánh
sáng đó có đức Phật A Di Đà, đứng trên tòa sen đang rộng hai tay tiếp dẫn.
Luồng ánh sáng này chiếu soi khắp mười phương thế giới không chỗ nào không soi
đến. Gần đó có một lớp ánh sáng màu nâu đục, tượng trưng cho cảnh giới của ngạ
quỷ cũng đồng thời xuất hiện. Theo thuyết Reki (Linh Khí) Đá Curite trong hành Hỏa và thuộc vào Kinh Túc Thiếu Âm Tâm, Kinh Thủ Quyết Âm Tâm Bào. Kinh Túc Thiếu Âm Tâm liên quan đến bệnh
vai, mặt trong chi trên đau, gan tay nóng hoặc lạnh, mồm
khô, khát muốn uống nước, đau mắt, đau vùng tim, nấc khan, sườn ngực đau tức,
chứng thực thì phát cuồng, chứng hư thì bi ai, khiếp sợ, ở tim, ngực, tâm thần.Ví
dụ như huyệt Thông Lý (Huyệt Lạc với kinh Tiểu trường) có tác dụng
liên quan đến đau cổ tay, đau cẳng tay, đau khuỷu tay, tim đập mạnh, hồi hộp, sốt,
trong ngực bồn chồn, sốt không có mồ hôi, đau đầu, hoa mắt, cứng lưỡi, không
nói được; huyệt Âm Khích (Huyệt Khích) có tác dụng liên quan đến
ngực đầy tức, đau vùng tim, tim đập mạnh, hồi hộp, ra mồ hôi trộm, chảy máu
mũi, nôn ra máu; huyệt Thần Môn (Huyệt Du thuộc Thổ, huyệt
Nguyên) có tác dụng liên quan đến lòng bàn tay nóng, đau vùng tim, tim đập mạnh,
hồi hộp, mất ngủ, hay quên, ngớ ngẩn, động kinh; huyệt Thiếu Phủ
(Huyệt Huỳnh thuộc Hỏa) có tác dụng liên quan đến ngón tay út co quắp, lòng bàn
tay nóng, đau khó chịu trong ngực, tim đập hồi hộp, sốt rét lâu ngày, tiểu dầm;
huyệt Thiếu Xung (Huyệt Tỉnh thuộc Mộc) có tác dụng liên quan
đến đau vùng tim, đau cạnh sườn, tim đập mạnh, hồi hộp, cấp cứu trúng phong, sốt
cao, vui giận thất thường. Kinh Thủ Quyết Âm Tâm Bào liên quan đến các chứng mặt đỏ, nách
sưng, cánh tay, khuỷu tay co quắp, gan tay nóng, đau vùng tim, bồn chồn, tức ngực
sườn, tim đập thình thịch, cuồng, nói lảm nhảm, hôn mê, ở ngực, tim, dạ dày, bệnh
tâm thần, sốt. Ví
dụ như huyệt Giản Sử (Huyệt Kinh thuộc Kim) có tác dụng liên quan đến
Đau cánh tay, nóng gan bàn tay, bệnh nhiệt có tâm phiền, tim đập hồi hộp, đau
vùng tim, Trúng phong đờm rãi nhiều, nôn, khan tiếng, điên cuồng, sốt rét; huyệt Nội Quan có tác dụng liên quan đến
đau cẳng tay, đau vùng tim, đau sườn ngực, tâm phiền, hồi hộp, nôn, đầy chướng
bụng, tiêu hóa kém, điên cuồng; huyệt Đại Lăng (Huyệt Nguyên,
huyệt Du thuộc Thổ) có tác dụng liên quan đến đau cổ tay, lòng bàn tay nóng,
khuỷu tay co, đau vùng tim, đau sườn ngực, tâm phiền, nôn, đầy chướng bụng,
tiêu hóa kém, điên cuồng, cười mãi không hết, dễ sợ hãi, bệnh nhiệt; huyệt
Lao Cung (Huyệt Huỳnh thuộc Hỏa) có tác dụng liên quan đến run bàn
tay, ra mồ hôi lòng bàn tay, đau vùng tim, tâm phiền, khát, tim đập hồi hộp, cười
mãi không thôi, lóet miệng, nôn, sốt về đêm; huyệt Trung Xung
(Huyệt Tỉnh thuộc Mộc) có tác dụng liên quan đến lòng bàn tay nóng, cứng lưỡi,
đau vùng tim, tâm phiền, trúng phong bất tỉnh,hôn mê, sốt không ra mồ hôi. Theo thuyết Tứ Trụ, đá Curite
thuộc
mệnh Hỏa rất hạp với mệnh Mộc sinh vào ngày xuân,được nguyệt lệnh mà phần lớn
là thân mạnh,vì vừa qua mùa đông lạnh,có chút lạnh lẽo,mượn Hỏa sưởi ấm cơ thể
tự do phát triển vươn xa,có Thủy nuôi dưỡng sẽ sinh trưởng nhanh.Tóm lại,Mộc
mùa xuân tốt nhất nên có Thủy,Hỏa đến điều hòa mới phát triển tốt. Đá
ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Mộc sinh mùa thu,thông thường không
được sự trợ giúp của nguyệt lệnh,Kim nặng quay quanh,phần lớn thuộc thân yếu.
Nếu là Mộc mùa suy yếu,ưa được Hỏa tiết,Thổ dưỡng,Kim khắc không ưa Thủy đến
tương trợ. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Hỏa sinh mùa thu. Hỏa
mùa thu phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh mới có thể thịnh vượng, chuyển
nguy thành yên bình đồng thời đạt được tài lợi, sẽ không bị khốn đốn. Nếu gặp
Hỏa đến phù trì, có thể phát huy tài cáng, dựa vào nổ lực của bản thân có thể
được thù lao xứng đáng. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Hỏa sinh
mùa đông. Hỏa mùa đông phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh, nếu không Thủy
vượng sẽ tiêu diệt Hỏa, mãi mãi khó có thể đứng dậy. Hỏa mùa đông thân yếu có
Hỏa đến giúp thì Tỷ Kiếp khác Tài tinh, có thể nhìn thấy tiền tài phát triển
thịnh vượng, nhưng duyên với vợ bạc, quan hệ không thân mật, hoặc vợ có tình
trạng sức khỏe không tốt. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh
Thổ sinh mùa xuân. Mùa xuân thì Mộc tư lệnh đương quyền, Thổ ở chỗ tử tuyệt, hư
phù không có lực, ưa Hỏa đến sinh trợ, kỵ Mộc đến khắc. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa
cũng rất hạp với mệnh Thổ sinh mùa đông. Mùa đông, bên ngoài lạnh, bên trong
ấm. Hỏa nhiều mà thịnh vượng thì quý khí hiển vinh. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng
rất hạp với mệnh Kim sinh mùa xuân. Mùa xuân, do vừa qua mùa đông vẫn còn chút
khí lạnh, do đó Kim cần Hỏa sưởi ấm mới có thể loại bỏ khí lạnh mà được phú
quý. Nếu Mộc thịnh vượng, Kim sẽ chịu tổn thương. Lúc này cần Kim đến phù trì.
Nếu là thiếu Hỏa sưởi ấm thì Kim không thể phát huy tác dụng. Đá ngọc thuộc
mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa thu. Mùa thu vừa đúng là Kim tư
lệnh đương quyền, do đó Kim lúc này tốt nhất có Hỏa luyện chế mới có thể làm
thành vật quý. Thuyết Ngũ Hành Can Chi cho rằng Curite
thuộc
về Hỏa (Đỏ và Cam) phối Hỏa (Nhọn và Góc), tức Hỏa Cục. Do đó, Curite
giúp
khắc chế các bản mệnh Mộc-Thổ như Giáp Thìn, Giáp Tuất, Ất Mùi, Ất Sửu, Mậu
Dần, Kỷ Mão, vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Curite
cũng
phù trợ cho các bản mệnh thuộc Thổ (Hỏa sinh Thổ), gồm có mệnh thuộc Hỏa-Thổ và
thuần Thổ: Mậu Ngọ, Kỷ Tỵ, Bính Thìn, Bính Tuất, Đinh Mùi, Đinh Sửu, Mậu Thìn,
Mậu Tuất, Kỷ Mùi, Kỷ Sửu, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại ngọc
này. Thuyết Ngũ Hành Khí Tiết nói, người
có mệnh cục Thổ (sinh vào ngày Mậu-Kỷ, Thìn-Mùi-Tuất-Sửu) gặp vào những ngày
thuộc hành Mộc (như ngày Giáp-Ất, Dần-Mão) thì , bởi Thổ khắc Mộc, mật và dạ
dày dễ tổn thương, biểu hiện lên cơ thể là bị nấc cục, đau dạ dày, tiêu chảy,
hoàng thũng, khó nuốt, chán ăn, buồn nôn. Bên ngoài sẽ biểu hiện ra da khô, tay
phải mỏi. Trẻ nhỏ bị suy dinh dưỡng, vàng lá lách. Đặc tính của Thổ là ẩm ướt,
dễ bị chìm, sắc mặt vàng vọt. Sách mệnh lý nói: Thổ tại Mộc vượng, lá lách tổn
thương. Muốn khắc chế, phải lấy Hỏa giải độc, Curite
thuộc Hỏa, có tác dụng tốt với thể
trạng người Thổ cục (Hỏa sinh Thổ), đề phòng cho những ngày Mộc thịnh (Giáp-Ất,
Dần-Mão) hay tháng hành Mộc như tháng giêng và tháng hai. Người đeo đá Curite, có thể dùng Hỏa khắc chế được Mộc hại. Dựa
trên thuyết Orthotherabi và công thức cấu tạo của đá Curite (Pb3(UO2)8O8(OH)6 · 3H2O) gồm: Nguyên tố Oxygen (O) có số nguyên tử là 8, chiếm tỉ trọng trong cơ thể người
là 0.65. Thành phần của nguyên tố này trong cơ thể trung bình là 43kg chiếm tỷ
lệ là 24%. Tác động đến sức khỏe và sự sống của hầu hết các loài động thực vật
trên thế giới. Dựa trên công thức hóa học của đá Curite,
theo thuyết Hài Hòa Bộ Tám loại đá này mang yếu tố Primius với nguyên tố chủ đạo
là nguyên tố Đất, vì vậy tác động lên hệ cơ bắp, búi cơ tay chân, cơ hoành, da
răng và các lông tóc bên ngoài. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên
quan đến các yếu tố tóc, lông và cơ như chứng rụng tóc, đau răng, bị da liễu,
hoặc các chứng liên quan đến cơ như chuột rút, teo cơ, phù thủng... Ngoài ra
còn tăng cường vật chất và sở hữu, đặc biệt là sự đột phá, cấp tiến, cách mạng,
cải biên xã hội, đẩy mạnh tự do, bất cần, vô chính phủ... nhấn mạnh đến yếu tố
sở hữu. Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là không trấn giữ cung nào theo
Chiêm Tinh Cổ, nhưng trấn giữ vị trí con rồng (Dragons), ở hai vị trí đầu rồng
và đuôi rồng, Chiêm tinh gọi là Caput Draconis và Cauda Draconis, tiếng Việt
hay dịch là La Hầu và Kế Đô. Không có quan niệm chính thức cho hai vị trí này.
Thông thường, người ta coi nó là đại diện cho tính tốt và xấu trong mỗi con người.
Vì vậy, nó thúc đẩy các mối quan hệ về con người và bản chất con người. Thuyết
của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố này bảo trợ về không gian và thời gian nói
chung. Dành cho những người làm trong lĩnh vực liên quan đến các không gian và
thời gian như người làm đồng hồ, những người rung chuông, gác cổng, những người
canh giờ tàu hỏa,... hoặc những người cảnh báo tư tưởng (gọi là những người tiền
vệ - avantgarde). Thuyết Bát Quái Kinh
Dịch dựa vào hình thái tinh hệ của tinh thể gồm tám loại, được phân định thành
tám quái thuộc nội quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập
Phương (cubic - isometric) ứng Càn , Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam
Phương (rhombohedral) ứng Ly, Lục Phương (hexagonal - trigonal) ứng Đoài,
Tam Tà (triclinic) ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic)
ứng Tốn, Phi Tinh (noncrystallinic) ứng Khôn. Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn)
tương ứng khác: Lập Phương ứng Càn, Tam Tà ứng Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn
Tà ứng Cấn, Tam Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn
Khảm. Ở đây chỉ trình bày thuyết của Thông Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh
thể gồm tám màu, ứng với tám quái thuộc ngoại quái trong kinh dịch. Có ba thuyết
chính, đều nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ nhất được trình bày trong I-ching:
Binary Numbers, Astrology, And Chakras, dựa trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn
ứng trắng, Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn
ứng đỏ, Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên
ngũ hành ứng bát quái cho rằng: Càn ứng dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng
lục, Tốn ứng cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam
Apolo đề xuất dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm
ứng lam, Cấn ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình
bày dựa trên thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại quái tương ứng với hình dạng
và màu sắc của tinh thể, từ đó tính ra được quái trong 64 quái kinh dịch. Mỗi
quái kinh dịch lại ứng một bộ phận cơ thể theo y lý trong kinh dịch, phân thành
64 phần cơ thể. Đá Curite có màu cam tương ứng quẻ ngoại quái Khảm, có tinh hệ Chánh Giao tương ứng
quẻ nội quái Tốn, ghép lại chính là quẻ quái số 48: quẻ Thủy Phong
Tỉnh. Quái số 48 ứng với vị trí đuôi
mắt trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên quan
đến mắt như dị ứng mắt, tật khúc xạ (cận thị, viễn thị,
loạn thị,…), thoái hóa điểm vàng, đau mắt đỏ, tăng nhãn áp, viêm màng bồ đào,
giác mạc hình nón,…. Quẻ Thủy Phong Tỉnh có nghĩa là Khảm là nước, mà tượng của Tôn là cây,
nghĩa của Tốn thì là vào. Cái tượng đồ gỗ vào dưới nước mà lên khỏi nước, ấy là
tượng múc nước giếng. Đức của giếng là trời đất vậy, mà nó lấy sự chẳng đổi làm
đức riêng. Thể dưới vốn là Kiền, thể trên vốn là Khôn, hào Đầu hào Năm cứng mềm
đôi nhau mà thành quẻ Tỉnh. Khôn là làng, đổi Khôn ra Khảm là đổi làng. Nước Khảm
là giếng, hào Năm lấy chất cứng ở ngôi giữa mà không thay đổi, thế là không đổi
giếng. Làng ở nơi chốn của nó mà họp được, có thể dời đi tới giếng; giếng ở nơi
chốn của nó mà có thường, không thể dời đi tới làng. Múc nó không hết cho nên
không mất, người đeo đá này sẽ được các lợi
ích như vậy. Nơi tìm thấy
đá: Curite có thể được
tìm thấy ở Saskatchewan (Canada), Zabaykalshy Krai (Russia),
Rhineland-Palatinate (Germany),...
Lời cảm ơn:
bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến sĩ
Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu tập
Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng
Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments