Brannerite
(钛铀矿) Thái Do Khoáng
Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị Liệu, Thạch Học Trị Liệu dịch từ chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ. Lithotherapy phân thành Litho đến từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá, therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ] tức là chữa trị, lithotherapy tức là chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với đá ở ngoài da. Lithotherapy là một môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận huyền học và thần bí học. Mặc dù có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả năng của nó, đã được ứng dụng từ lâu trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại, nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức màn bí mật của những điều thần kỳ giống như nền Đông Y của người Trung Quốc hay Nam Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc biệt trình bày về những lý luận căn bản trong Thạch Lý Học đối với Brannerite , nằm trong chuỗi khảo cứu, viết riêng cho tuần báo UNESCO.
Giới thiệu về đá: Brannerite được đặt tên theo tên Tiến sĩ John Casper Branner (1850-1922), nhà địa chất người Mỹ, trước đây là Giáo sư Địa chất và Chủ tịch Đại học Stanford, Palo Alto, California, Hoa Kỳ.
Giới thiệu về các thuyết: Giá trị thạch lý học của Brannerite được trình bày thành các thuyết cơ bản: thuyết Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học (Chromotherapy), thuyết Linh Khí (Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves), thuyết Thái Lặc Mã (Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết Hoa Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié).
Thuyết bản mệnh Phương Đông người ta căn cứ vào địa chi của tháng
sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần, tháng 2 là Mão, tháng 3 là Thìn, tháng
4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi, tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu, tháng
9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu, cùng phối hợp với
ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng dùng đá
có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ thuộc Hỏa (ứng dùng đá có tông màu cam đỏ
hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có tông màu trắng, xám, ánh bạc), Tý Hợi
thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu đen, chàm, tím), Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ
(ứng dùng đá có tông màu vàng, trong, ánh kim). Và theo đó, Thuyết Bản Mệnh
phương đông xếp loại đá này vào năm Mậu Ngọ, thuộc Thổ Cục, về Dương Phần.
Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Mậu Ngọ sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này
màu đen, thuộc về hành thủy, ứng về tháng Tý và Hợi, tức tháng 10, 11.
Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo tháng như sau: tháng một
màu đỏ cam, tháng hai màu tím tươi, tháng ba màu xanh lam, tháng tư màu trắng
trong, tháng năm màu lục đen, tháng sáu màu trắng đục, tháng bảy màu đỏ tươi,
tháng tám màu xanh chuối, tháng chín màu xanh lá, tháng mười màu đen, tháng mười
một màu vàng, tháng mười hai màu chàm. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định
nghĩa theo hoàng đạo như sau: Bạch Dương màu xanh đen, Kim Ngưu màu xanh dương
đậm, Song Tử màu trắng trong, Cự Giải màu xanh lá mạ, Sư Tử màu đen, Xử Nữ màu
cam, Thiên Bình màu lục nhạt, Thiên Yết màu lam, Nhân Mã màu vàng, Ma Kết màu đỏ
tươi, Bảo Bình màu đỏ sậm, Song Ngư màu tím. Brannerite màu đen được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng mười,
mùa đông và xếp vào đá bản mệnh của cung Sư Tử, thuộc hệ lửa. Vì vậy, những ai
sinh vào giữa 23 tháng 7 đến 22 tháng 8 hằng năm, hoặc vào tháng 8 thì được xem
là có lợi khi đeo loại đá này.
Theo
thuyết Quang Lý học thì đá Brannerite có màu đen. Ý nghĩa của màu sắc này được
biểu hiện ở các nên văn hóa khác nhau. Đối với người Ai Cập cổ đại, màu đen có sự
liên kết với tích cực; là màu sắc của sự sinh sản và đất màu đen đầy phù sa bị
ngập nước bởi sông Nile. Đó là màu sắc của Anubis, thần của thế giới âm ti,
người mang hình dạng của một con chó sói đen, và bảo vệ chống lại quỹ dữ từ cái
chết. Đối với người Hy Lạp cổ đại, màu đen cũng là màu sắc của thế giới âm ti,
tách ra khỏi thế giới của cuộc sống bên dòng sông Acheron, có nước đen. Những
ai đã phạm tội tồi tệ nhất đã được gửi đến ngục Tartarus, ngục sâu nhất và tối
tăm nhất. Ở trung tâm là cung điện của Hades, vua của thế giới người chết, nơi
ông ngồi trên một ngai vàng bằng gỗ mun màu đen. Ở Trung Quốc, màu đen có liên
quan đến nước, một trong năm yếu tố cơ bản được cho là tạo ra vạn vật; là
mùa đông, mùa lạnh, phía bắc, và thường được tượng trưng bởi một con rùa
đen. Nó cũng liên quan đến rối loạn, bao gồm rối loạn tích cực dẫn đến thay đổi
và cuộc sống mới. Khi hoàng đế Tần Thủy Hoàng nắm quyền lực từ triều đại nhà
Chu, ông đã đổi màu đế vương từ màu đỏ sang màu đen, nói rằng màu đen đã dập
tắt màu đỏ. Chỉ khi triều đại Hán xuất hiện vào năm 206 trước công nguyên, màu
đỏ được phục hồi như là màu hoàng đế. Trong cuộc sống những người thực sự thích
màu đen không nhiều. Nhưng những người thích sử dụng màu đen lại nhiều vô kể.
Bởi trong quan niệm hiện đại, màu đen mới là biểu tượng của giàu sang và quyền
lực. Màu đen mang lại sự huyền bí nhưng sang
trọng là màu đi liền với quyền lực. Trong cuộc sống màu đen luôn có một sức hấp
dẫn, lôi cuốn và vô cùng bí ẩn. Nó có khả năng che lấp mọi cái xấu, mọi cái
không tốt của con người. Màu đen còn là biểu tượng của cái ác, của những thế
lực xấu xa, đen tối. Nếu coi cuộc sống này là một bộ phim thì màu đen là những
nhân vật phản diện. Khi ngắm nhìn màu đen con người ta vừa có cảm giác run sợ,
vừa có cảm giác bị lôi cuốn kích thích trí tò mò.
Thuyết
Thelema cho rằng đá Brannerite thuộc Sepherot Binah (có nghĩa là "Sự Hiểu
Biết", Hebrew: בינה), là sephira trí tuệ thứ hai trên Cây Sự Sống. Nó nằm
dưới Keter (trong hệ thống các sephirah), ngang Chokmah và trên Gevurah. Nó
thường dẫn ra bốn con đường đến: Keter, Chockmah, Gevurah, và Tiphereth (một số
Kabbalists khác đặt một đường dẫn từ Binah để Chesed.) Trong một số hình tượng,
người ta đề cập đến (là một sephirot bị xáo trộn, thể hiện trạng thái nhìn từ
trong ra ngoài của sự vật) nó có thể liên quan đến "mắt trái", "bán
cầu não trái" hoặc "trái tim". Binah có liên quan đến màu
đen. Theo Bahir: "Phần thứ ba (lời nói): Kho tàng của Torah, kho tàng trí
tuệ, kho tàng của linh hồn Thánh Thần, được đụt đẽo bởi thần khí của Chúa Trời,
điều này dạy rằng Đức Chúa Trời đã tháo gỡ tất cả các chữ cái của Torah và khắc
chúng bằng Chúa Thánh Linh, theo khuôn đúc của Ngài.". Binah là 'sự hiểu
biết trực quan', hay 'sự chiêm nghiệm'. Nó được so sánh với một "cung điện
của sự phản chiếu" phản ánh quan điểm thuần túy của ánh sáng trong
Chokhmah, sự khôn ngoan và làm nó tăng lên với vô số cách khác nhau. Theo nghĩa
này, đó là “kho tàng”, được khắc bằng ánh sáng của sự khôn ngoan. Đó là dạ con,
nơi tạo ra hình dạng cho Thần Khí của Thiên Chúa. Trên phương diện tâm lý, Binah là "trí tuệ được xử
lý", còn được gọi là lý luận suy diễn. Nó là “davar mitoch davar” - hiểu
một ý tưởng thông qua một ý tưởng khác. Trong khi Chockmah là trí tuệ không
xuất phát từ khả năng suy luận (nó được lấy cảm hứng hoặc được dạy), Binah là
khả năng suy luận bẩm sinh trong người làm việc để phát triển ý tưởng một cách
đầy đủ. Binah có liên quan đến nữ tính. Trong hình thức hoàn toàn khớp nối của
nó, Binah sở hữu hai partzufim. Cao hơn trong số này được gọi là Imma Ila'ah
("mẹ bề trên"), trong khi thấp hơn được gọi là tevunah ("nhận
thức"). Hai phần này được gọi chung là Imma ("mẹ"). Các nhà Thần học đã so sánh Sephira với các luân xa
của thần bí Ấn Độ, và một trong những so sánh đó là so sánh của Binah và
Chokmah với chakra Ajna, đó là nơi mà Shiva và Shakti hợp thành một. Đối chiếu
với đại diện tiêu cực của nó trên “Tree of Death – Cây Tử Vong”, nó có cấp bậc
quỷ Sathariel, được cai trị bởi Archdemon Lucifuge Rofocale. Trong mối tương
quan giữa Binah với Shakti và Chokmah với Shiva, Shakti là thực thể còn sống,
trong khi đó Shiva là thực thể chết, một xác chết, không có năng lượng.
Thuyết Chakra cho rằng Brannerite thuộc Chakra Muladhara
(tiếng Phạn: मूलाधार, IAST: Mūlādhāra, Hồng
Kông, tiếng Anh: "root support") hoặc chakra gốc là một trong bảy
chakras chính theo hệ thống Hindu. Nó được tượng trưng bởi một hoa sen với bốn
cánh hoa và màu đỏ. Thần của mooladhar là thần Shri Ganesha. Muladhara nằm
gần xương cụt ngay tại xương mông, đôi khi ở kshetram (vị trí thiêng liêng), hoặc
điểm kích hoạt trên bề mặt, nằm giữa đáy chậu và xương cụt hoặc xương chậu. Do
vị trí và kết nối với hoạt động bài tiết, nó liên quan đến hậu môn. Muladhara
được cho là nền tảng mà từ đó ra ba kênh tâm linh chính hoặc hiện lên mạch máu:
Ida, Pingala và Sushumna. Người ta cũng tin rằng Muladhara là nơi ở tinh tế của
Thần Ganapati của Hindu. Trong lời cầu nguyện cao quý nhất đối với Ganapati,
Ganapati Atharvashirsha, người ta nói rằng "một người tôn thờ Thần
Ganapati sẽ dễ dàng nắm bắt được khái niệm và nhận ra Brahman". Nó được tượng
trưng bởi một hoa sen màu đỏ, bốn cánh hoa với một hình vuông màu vàng ở giữa.
Mỗi cánh hoa có một âm tiết tiếng Phạn वं vaṃ, शं śaṃ, षं ṣaṃ, and सं saṃ được viết bằng vàng, đại diện
cho bốn vrittis hay ý thức: niềm vui lớn nhất, niềm vui tự nhiên, sự hân hoan
trong việc kiểm soát sự đam mê, và hạnh phúc trong sựu tập trung. Nói cách
khác, chúng có thể đại diện cho dharma (khát vọng tâm linh trong linh hồn),
artha (khát vọng tâm linh), kama (khát vọng thể xác) và moksha (khát vọng giải
phóng tinh thần). Tám mũi tên hướng ra từ các cạnh và góc của hình vuông. Thần Indra gắn liền với Muladhara. Trong miêu tả, ông ta
màu vàng, có bốn trang bị , và giữ một vajra hay búa thiên lôi và một hoa sen
màu xanh trong tay ông ta. Ông ngồi trên con voi trắng Airavata, nó có bảy cái
vòi biểu thị số bảy yếu tố cần thiết trong cuộc sống. Thỉnh thoảng, Ganesha
cũng được liên kết với Muladhara. Trong những miêu tả này, ông ta có da màu
cam, mặc dhoti hay trang phục truyeeng thống ấn độ màu vàng, và chiếc khăn
quàng bằng vải lụa màu xanh phủ trên vai. Trong ba tay, ông giữ một laddu (kẹo
hình cầu của ấn độ), một bông hoa sen, và một rìu nhỏ, và cái thứ tư là mọc lên
trong mudra hay thủ ấn xua tan sự sợ hãi.Nguồn gốc thần chú là âm tiết लं laṃ. Muladhara được coi là nền tảng của "năng lượng cơ thể".
Các hệ thống Yogic nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ổn định các chakra này.
Kundalini bắt đầu được đánh thức ở đây. Nó còn được gọi là vị trí của
"bindu đỏ" hay điểm tinh tế, điểm này khi tăng lên đến "bindu trắng"
trong đầu thì sẽ kết hợp các nguồn năng lượng nữ tính và nam tính, như Shakti
và Shiva. Nó liên kết với các yếu tố của trái đất, khứu giác và hoạt động của
bài tiết."Bằng cách thiền định về Đấng tỏa sáng trong Chakra Muladhara, với
ánh sáng của mười triệu mặt trời, con người có thể trở thành chúa tể của lời
nói và vua của nhân loại, và một Adept hay người thông thạo tất cả các loại học
thức. Ông trở sẽ nên miễn dịch trước tất cả các loại bệnh tật, và trong sâu thẳm
tâm hồn của anh ta trở nên tràn ngập niềm vui to lớn, ý muốn thuần khiết bằng
những lời nói sâu sắc và âm nhạc, ông ta ưu tiên phục vụ cho Devas hay thánh thần". Chakra này cũng có thể được kích hoạt bằng cách tụng thần
chú gốc. Người ta nói rằng có thể tụng thần chú gốc của Chakra Muladhara hơn
100.000.000 lần có thể đạt được tất cả các Siddhis (năng lực thần bí) của
Muladhara Chakra. Khi so sánh với hệ thống Tantric quan trọng khác của Kim
Cương Thừa ở Tây Tạng, chakra Muladhara không tìm thấy sự tương đồng ở nơi giống
như vậy, không giống như các chakra khác. Thay vào đó, hệ thống Tây Tạng đặt
hai chakra vào cơ quan tình dục: vòng ngọc ở giữa, gần đầu và phần đầu của cơ
quan tình dục. Những chakra này cực kỳ quan trọng cho việc tạo ra phúc lành to
lớn và đóng một vai trò quan trọng trong thực hiện hành vi tình dục tantric cao
trào nhất. Một đặc điểm duy nhất, giọt màu đỏ, còn được gọi là bồ đề tâm đỏ,
không nằm ở đây, mà nằm ở vòng tròn rốn .
Đá Brannerite có màu đen, theo thuyết
Phật giáo Mật tông là bổn sắc của A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya). Ngài là sự
chuyển hóa của sân hận thành từ bi. Màu lam và đen đại diện cho phẫn nộ tướng
ứng với tai. Đeo Brannerite sẽ được A Súc Bệ Như Lai
Phật hộ trì, hỗ trợ về tai và sự điềm tĩnh. Vì đây cũng là màu của cõi người,
đá Brannerite được coi là bùa hộ về thính dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về
thính dục thông qua vị phật phẫn nộ. Tử thư nhắc đến màu đen như sự mượn tạm
hình tướng phẫn nộ để biểu thị sự từ bi, cũng là sự hiển lộ của sân hận cần hóa
giải thông qua các biệt xảo. Tử Thư Tây Tạng viết: Đến lượt ở phương bắc là
Vetali, màu đen, cầm một kim cương sử và một cái tách bằng sọ người, bà tượng
trưng phẩm chất bất biến của pháp tánh kim cương sử là bất hoại và cái tách
bằng sọ người là một biểu tượng khác nữa của phương tiện thiện xảo. Từ hướng
tây thiên nữ Srgalamukha màu đen, đầu con cáo cầm lưỡi dao cạo bên tay phải và
chùm ruột bên tay trái đang ăn chùm ruột và liếm máu. từ hướng tây thiên nữ
Srgalamukha màu đen, đầu con cáo cầm lưỡi dao cạo bên tay phải và chùm ruột bên
tay trái đang ăn chùm ruột và liếm máu. từ phía tây bắc thiên nữ Kakamukha màu
đen, đầu quạ, cầm tách sọ người bên tay trái một thanh kiếm bên tay phải đang
ăn tim và phổi. Con hãy nhận ra bất cứ cái gì xuất hiện đều là vở tuồng diễn
kịch của tâm, đó là những phóng tưởng của tự con. cơn lốc xoáy rất lớn của
nghiệp, một cơn lốc đáng sợ, không thể chịu đựng được, quay cuồng dữ dội, từ
phía sau đẩy con tới. Con đừng sợ cơn lốc đó, đó chính là phóng tưởng mê lầm
của con. Bóng tối đen dày đặc rất kinh hãi, không chịu nổi, sẽ đi đằng trước
mặt con cùng với những tiếng kêu rùng rợn như tiếng thét „Đánh và Giết‟. con sẽ
kinh nghiệm giống như mô tả trước, như là gió xoáy, bão tuyết, mưa đá, xung
quanh tối đen và nhiều người săn đuổi con. Nếu con sắp sanh ra làm một quỷ đói,
con sẽ thấy những thân cây cụt ngọn và những hình dáng màu đen chỉa đầu nhọn
lên, những động và hang cạn và những đụn đất nhỏ màu đen. Nếu con sắp sanh ra
làm một chúng sanh ở địa ngục, con sẽ nghe những chúng sanh có nghiệp ác hát
những bài hát, hoặc con sẽ phải đi vào một cách bất lực, hoặc con sẽ cảm thấy
rằng con đã đi vào một vùng đất tối tăm, với những căn nhà có màu đen màu đỏ,
những cái hố đen và những con đường màu đen. Những người thường xuyên gặp hoàn
cảnh gây sân hận, cần được thanh lọc, có thể dùng loại đá màu đen để giải trừ.
Theo thuyết Reki (Linh Khí) Đá Brannerite trong hành Thủy và thuộc vào Kinh Túc Thiếu Âm Thận, Kinh Túc Thái Dương Bàng Quang. Kinh Túc Thiếu âm Thận liên
quan các chứng ở hệ sinh dục, tiết niệu, ruột, họng, ngực. Ví dụ như huyệt
dũng tuyền (huyệt tỉnh thuộc mộc) có tác dụng liên quan đến nóng hay lạnh gan
bàn chân, đau mặt trong đùi, thoát vị, đau sưng họng, đẻ xong không tiểu được,
tim đập nhanh, chảy máu mũi, cấp cứu chết đuối, hôn mê, váng đầu hoa mắt; huyệt
Nhiên cốc (huyệt huỳnh thuộc hỏa) có tác dụng liên quan đến đau sưng khớp bàn
chân, tiểu đục, di tinh, liệt dương, kinh nguyệt không đều, ngứa âm hộ, đau bụng,
trẻ em kinh phong, cấm khẩu, ho ra máu, sốt rét, tiêu khát, tự ra mồ hôi, ra mồ
hôi trộm, ù điếc tai; huyệt Thái khê (huyệt nguyên, huyệt du thuộc thổ) có tác
dụng liên quan đến đau cổ chân, liệt dương, kinh nguyệt không đều, đau sưng vú,
đau răng, đau vùng tim, sốt không ra mồ hôi, thích nằm, tiêu khát, chân tay quyết
lạnh do trúng hàn; huyệt Đại chung (huyệt lạc nối với kinh thái dương bàng
quang) có tác dụng liên quan đến đau gót chân, đau cứng lưng, tiểu rắt, đau bụng,
ho, hen suyễn, thích nằm, táo bón, đần độn, huyệt Thủy tuyền (huyệt khích) có
tác dụng liên quan đến đau sưng mặt trong gót chân, kinh nguyệt không đều, đau
bụng kinh, tiểu rắt. Ví dụ như huyệt Âm cốc (huyệt hợp thuộc thủy) có tác dụng
liên quan đến đau sưng mặt trong đầu gối, tiểu rắt, tiểu buốt, băng lậu, thóat
vị, liệt dương; huyệt Hoành cốt (huyệt hội của kinh thiếu âm với mạch xung) có
tác dụng liên quan đến đau âm hộ, di tinh, liệt dương, bí tiểu tiện; huyệt Đại
hách (huyệt hội của kinh thiếu âm ở chân với mạch xung) có tác dụng liên quan đến
đau âm hộ, khí hư, di tinh; huyệt Khí huyệt (huyệt hội của kinh thiếu âm ở chân
với mạch xung) có tác dụng liên quan đến kinh nguyệt không đều, tiêu chảy; huyệt
Tứ mãn (huyệt hội của kinh thiếu âm ở chân với mạch xung) có tác dụng liên quan
đến băng huyết, kinh nguyệt không đều, sau khi đẻ đau bụng, tiêu chảy. Ví dụ
như huyệt Thông cốc (huyệt hội của kinh thiếu âm ở chân với mạch xung) có tác dụng
liên quan đến tức ngực, buồn nôn, mửa, ăn không tiêu; huyệt U môn (huyệt hội của
kinh thiếu âm ở chân với mạch xung) có tác dụng liên quan đến đau bụng, buồn
nôn, mửa, tiêu chảy, đau ngực, bồn chồn; huyệt Bộ lang có tác dụng liên quan đến
ho suyễn, đầy tức ngực, không muốn ăn; huyệt Thần phong có tác dụng liên quan đến
ho suyễn, đầy tức ngực, không muốn ăn,đau vú; huyệt Linh khư có tác dụng liên
quan đến ho suyễn, đầy tức ngực, không muốn ăn,đau vú; huyệt Thần tàng có tác dụng
liên quan đến ho suyễn, đầy tức ngực, không muốn ăn,đau vú,nôn; huyệt Hoắc
trung có tác dụng liên quan đến ho suyễn, đầy tức ngực sườn; huyệt Du phủ có
tác dụng liên quan đến ho suyễn, đau ngực. Kinh Túc Thái Dương Bàng Quang liên
quan đến bệnh ở mắt, mũi, đầu, gáy, thắt lưng, hậu môn, não, sôt, bệnh các tạng
phủ (dùng các huyệt Du sau lưng). Ví dụ như huyệt Tinh Minh có tác dụng liên
quan đến Đau mắt đỏ, mắt có màng có mộng, ngứa mắt, mờ mắt, quáng gà,
liệt dây thần kinh VII ngoại biên, teo thần kinh thị; huyệt Toản Trúc có tác dụng liên quan đến Đau mắt đỏ, hoa mắt, chảy nước mắt, mờ mắt, giật mắt, đau nhức
vùng trán, đau đầu; huyệt Mi Xung có tác dụng liên
quan đến đau đầu, hoa mắt; huyệt Khúc Sai có tác dụng liên quan đến đau trước trán và đỉnh đầu, hoa mắt, đau mắt, ngạt mũi, chảy
nước mũi; huyệt Ngũ Xứ có tác dụng liên
quan đến đau đầu, hoa mắt, co giật. Ví dụ như huyệt Đại Trữ có tác dụng liên quan đến cứng
cổ gáy, đau nhức vai, đau đầu, cảm phong hàn, ho, sốt không có mồ hôi, nhức
xương; huyệt Phong Môn (Nhiệt phủ
- Huyệt Hội của kinh Thái dương ở chân với mạch Đốc) có tác dụng liên quan đến đau phần trên
lưng, đau cứng gáy, đau đầu, cảm mạo, ho, sốt, nóng vùng ngực, cứu có thể phòng
bệnh cảm mạo; huyệt Phế Du (Huyệt Du của Phế) có tác dụng liên
quan đến đau lưng, cứng gáy, vẹo cổ, lao phổi, ho, ho ra máu, hen suyễn,
sốt âm, ra mồ hôi trộm; huyệt Quyết Âm
Du (Huyệt Du của Tâm bào) có tác dụng liên quan đến Ho, đau tim, nôn mửa, tức ngực. Ví dụ như huyệt Đởm Du (Huyệt Du của Đởm)
có tác dụng
liên quan đến đầy bụng, đau ngực sườn, mồm
đắng, nôn mửa, nuốt khó, hoàng đản, ho lao; huyệt Tỳ Du (Huyệt Du của Tỳ) có tác dụng liên quan đến đầy bụng, cơn đau dạ dày, ăn nhiều mà vẫn gầy, không
muốn ăn, nấc, tiêu chảy, hoàng đản, mạn kinh phong trẻ em, các chứng về đờm,
phù thũng; huyệt Vị Du
(Huyệt Du của Vị ) có tác dụng liên quan đến cơn đau
dạ dày, đầy bụng, lạnh bụng, cam còm không muốn ăn, ăn không ngon miệng, nôn, ợ
hơi, sườn ngực đầy tức, trẻ bú rồi nôn, tiêu chảy; huyệt Tam Tiêu Du (Huyệt Du của Tam
tiêu du) có
tác dụng liên quan đến đầy bụng, ăn không
tiêu, nôn mửa, tiêu chảy, kiết lỵ, phù thũng, đau cứng sống lưng. Ví dụ như huyệt Hội
Dương có tác dụng liên quan đến khí hư, liệt dương, kiết lỵ, trĩ, đi ngoài ra máu,
tiêu chảy; huyệt Thừa Phù có
tác dụng liên quan đến đau vùng
mông, đau dây thần kinh hông; huyệt
Ân Môn có tác dụng liên quan đến
đau nhức vùng thắt lưng, đau nhức đùi; huyệt Phù Khíc có tác dụng liên quan đến tê đau mông và đùi, đau giật ở kheo và đầu gối; huyệt Ủy Dương (Huyệt Hợp dưới của Tam
tiêu. Biệt lạc của kinh Thái dương ở chân) có tác dụng liên quan đến chuột rút ở
đùi và cẳng chân, tiểu rắt, tiểu đục.
Theo thuyết Tứ Trụ, Brannerite
thuộc mệnh Thủy rất hạp với mệnh Mộc sinh vào ngày xuân,được nguyệt lệnh mà phần
lớn là thân mạnh,vì vừa qua mùa đông lạnh,có chút lạnh lẽo,mượn Hỏa sưởi ấm cơ
thể tự do phát triển vươn xa,có Thủy nuôi dưỡng sẽ sinh trưởng nhanh. Mộc sinh
vào cuối xuân,do thời tiết đã ấm,dương khí đã vượng thịnh,cần nhiều Thủy hơn để
điều hòa nếu không sẽ vì thiếu Thủy mà thành khô héo. Tóm lại, Mộc mùa xuân tốt
nhất nên có Thủy,Hỏa đến điều hòa mới phát triển tốt.Nếu lực của Thủy vừa phải,Mộc
có thể duy trì cân bằng,sẽ được tài phú. Đá ngọc thuộc mệnh Thủy cũng rất hạp với
mệnh Mộc xuân mùa hạ,không được nguyệt lệnh thì thuộc thân yếu,thời tiết khô
nóng,hơn nửa sinh trưởng nhanh,phải có nhiều Thủy mới có thể duy trì thịnh vượng.
Đá ngọc thuộc mệnh Thủy cũng rất hạp với mệnh Thổ sinh mùa hạ. Mùa hạ, bởi vì Hỏa
khí oi nóng, Thổ khô nên cần có Thủy điều hậu để giảm bớt khí Hỏa nóng, kỵ nhất
lại gặp Hỏa thịnh vượng, Thổ sẽ bị đốt cháy, không có sức sống. Mộc nhiều mà thịnh
vượng sẽ sinh trợ Hỏa, cần có Thủy khắc Hỏa thì không tạo thành nguy hại. Kim
nhiều mà thịnh vượng, Kim có thể sinh trợ Thủy, có thể được cả vợ và của cải.
Thuyết Hoa Giáp cho rằng Brannerite thuộc về Thủy (đen) phối Mộc (trụ), tức
Thủy Cục. Do đó, Brannerite
giúp khắc chế các bản mệnh Kim – Mộc như Giáp Thân, Ất Dậu, Canh Dần, Tân Mão,
vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Brannerite cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Mộc
(Thủy sinh Mộc), gồm có mệnh thuộc Thủy Mộc và thuần Mộc: Giáp Tý, Ất Hợi, Nhâm
Dần, Quý Mão, Giáp Dần, Ất Mão, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại
ngọc này.
Thuyết Khí Tiết nói, người có mệnh cục Mộc (sinh vào ngày Giáp-Ất,
Dần Mão) gặp vào những ngày thuộc hành Kim (như các ngày Canh-Tân, Thân-Dậu) và
những tháng hành Kim (như tháng bảy, tháng tám) thì bởi Kim khắc Mộc, sinh ra bệnh
ở gan và mật. Bên trong, biểu hiện ở bệnh lương tinh, lao phổi, thổ huyết,
đau đầu, suyễn, trúng phong, phù nề tê liệt, chứng phong, đau gân cốt.
Bên ngoài biểu hiện da khô, đau mắt, chân tay run rẩy... Sách mệnh lý nói: gân
cốt đau nhức, là do Mộc bị Kim thương hại, phải lấy Thủy giải độc, Brannerite thuộc Thủy, có tác dụng tốt
cho thể trạng người Mộc Cục (Thủy sinh Mộc), nhất là vào những ngày hay tháng
Kim thịnh (Canh-Tân, Thân-Dậu) và các tháng hành Kim như tháng bảy, tháng tám.
Người đeo đá Brannerite, có thể dùng Thủy khắc chế được Kim hại.
Dựa trên thuyết Orthotherabi và
công thức cấu tạo của đá Brannerite (UTi2O6)
gồm: Nguyên tố Oxygen (O) có số nguyên tử là 8, chiếm tỉ trọng trong cơ thể người
là 0.65. Thành phần của nguyên tố này trong cơ thể trung bình là 43kg chiếm tỷ
lệ là 24%. Tác động đến sức khỏe và sự sống của hầu hết các loài động thực vật
trên thế giới. Nguyên tố Titanium (Ti) số hiệu nguyên tử là 22, tỉ trọng cơ thể
là 130×10-7, khối lượng trung bình 0.00002kg, tỷ lệ nguyên tố là 0%
trong không khí. Nguyên tố Uranium (U) số hiệu nguyên tử là 92, tỉ trọng cơ thể
là 1.3×10-7, khối lượng trung bình 0.0000001kg, tỷ lệ nguyên tố là
3.00E-09% trong cơ thể.
Dựa trên công thức hóa học của
đá Brannerite, theo thuyết Hài Hòa Bộ Tám loại đá
này mang yếu tố của mặt trăng với nguyên tố chủ đạo là nguyên tố Nước. Vì vậy
tác động lên hệ thống tiêu hóa, dạ dày, vú, buồng trứng và kinh nguyệt, tuyến tụy.
Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến ăn uống, sinh lý nữ như
các chứng khó tiêu, chán ăn, hoặc liên quan sự tiêu hóa thực phẩm, các chứng bệnh
về tuyến sữa và vú, các chứng về phụ khoa. Nó còn giúp tăng cường tình cảm và cảm
xúc, đặc biệt là sự huyền linh, vô thức, cảm giác cá nhân, thiên tính nữ, trong
trắng, ngây thơ... nhấn mạnh yếu tố cảm xúc. Về mặt tinh thần, loại đá này được
cho là trấn giữ các mối quan hệ của nhà chiêm tinh thứ 7: tình yêu và tình cảm
vợ chồng (nhà Uxor). Dành hỗ trợ cho những người có mối quan hệ đã nêu không được
như ý để cải thiện tình hình của mối quan hệ. Hàn gắng các rạng vỡ của mối quan
hệ. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố mặt trăng bảo trợ về toán và
suy luận nói chung (Dante Alighieri). Dành cho những người làm trong lĩnh vực
liên quan đến tính toán như các ngành toán, vật lý, kỹ sư, cơ giới, thủ quỹ, thủ
kho, buôn bán, kế toán...
Nơi tìm ra đá: Brannerite có thể tìm thấy ở Argentia, Úc, Bolivia, Brazil, Canada,...
Lời cảm ơn: bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến sĩ Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu tập Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments