Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý
Trị Liệu, Thạch Học Trị Liệu dịch từ chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi
Lạp cổ. Lithotherapy phân thành Litho đến từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là
đá, therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ] tức là chữa trị, lithotherapy
tức là chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với đá ở ngoài da. Lithotherapy là
một môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận huyền học và thần bí học. Mặc
dù có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả năng của nó, đã được ứng dụng
từ lâu trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại, nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi
bức màn bí mật của những điều thần kỳ giống như nền Đông Y của người Trung Quốc
hay Nam Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc biệt trình bày về những
lý luận căn bản trong Thạch Lý Học đối với Delvauxite, nằm trong chuỗi khảo
cứu, viết riêng cho tuần báo UNESCO.
Giới thiệu về đá Delvauxite
Giới thiệu về các thuyết: Giá trị
thạch lý học của Delvauxite được
trình bày thành các thuyết cơ bản: thuyết Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang
Lý Học (Chromotherapy), thuyết Linh Khí (Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra),
thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa
Bộ Tám (Law of Octaves), thuyết Thái Lặc Mã (Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học
(Astrology), thuyết Hoa Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí
Tiết (Qìjié). Thuyết bản mệnh
Phương Đông người ta căn cứ vào địa chi của
tháng sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần, tháng 2 là Mão, tháng 3 là Thìn,
tháng 4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi, tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu,
tháng 9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu, cùng phối
hợp với ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng
dùng đá có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ thuộc Hỏa (ứng dùng đá có tông màu
cam đỏ hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có tông màu trắng, xám, ánh bạc),
Tý Hợi thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu đen, chàm, tím), Thìn Mùi Tuất Sửu
thuộc Thổ (ứng dùng đá có tông màu vàng, trong, ánh kim). Và theo đó, Thuyết
Bản Mệnh phương đông xếp loại đá này vào năm Canh Ngọ, thuộc Kim Cục, về Dương
Phần. Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Canh Ngọ sử dụng. Về tháng bản mệnh,
đá này màu đỏ, thuộc về hành Hỏa, ứng về tháng Tỵ và Ngọ, tức tháng 4 và 5. Thuyết
Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo tháng như sau: tháng một màu đỏ cam,
tháng hai màu tím tươi, tháng ba màu xanh lam, tháng tư màu trắng trong, tháng
năm màu lục đen, tháng sáu màu trắng đục, tháng bảy màu đỏ tươi, tháng tám màu
xanh chuối, tháng chín màu xanh lá, tháng mười màu đen, tháng mười một màu
vàng, tháng mười hai màu chàm. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo
hoàng đạo như sau: Bạch Dương màu xanh đen, Kim Ngưu màu xanh dương đậm, Song
Tử màu trắng trong, Cự Giải màu xanh lá mạ, Sư Tử màu đen, Xử Nữ màu cam, Thiên
Bình màu lục nhạt, Thiên Yết màu lam, Nhân Mã màu vàng, Ma Kết màu đỏ tươi, Bảo
Bình màu đỏ sậm, Song Ngư màu tím. Đá này màu dđỏ được xếp vào loại đá bản mệnh
của tháng bảy, mùa thu và xếp vào đá bản mệnh của cung Bảo Bình, thuộc hệ Khí.
Vì vậy, những ai sinh vào giữa 20 tháng 1 đến 18 tháng 2 hằng năm, hoặc vào
tháng 2 thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này. Theo thuyết Quang Lý
học thì đá Delvauxite có màu đỏ. Ý nghĩa của màu sắc này được biểu hiện ở các
nên văn hóa khác nhau. Ở Ai Cập cổ đại, màu đỏ liên quan đến cuộc sống, sức
khoẻ và chiến thắng. Người Ai Cập sẽ phủ mầu đỏ lên cơ thể họ trong các lễ kỷ
niệm. Phụ nữ Ai Cập đã dùng thổ hoàng đỏ như là mỹ phẩm để tô môi và đánh má
hồng. Và họ cũng sử dụng loại cây Henna – cây móng tay có sắc tố đỏ, để nhuộm
tóc và sơn móng tay. Nhưng cũng như những màu sắc khác, nó cũng mang nhiều ý
nghĩa tiêu cực như nhiệt độ cao, sự tàn phá và điềm báo tồi tệ. Một lời cầu
nguyện với thần Isis: “Ôi nữ thần Isis, hãy bảo vệ tôi khỏi cái ác và màu
đỏ của sự hủy diệt”. Trong Rôma Cổ đại, tím Tyrian là màu của Hoàng đế, nhưng
màu đỏ có một vị trí biểu tượng tôn giáo quan trọng. Trong huyền thoại La Mã
màu đỏ có liên quan đến thần chiến tranh, Mars. Các cuộc điều tra cho thấy rằng
màu đỏ là màu sắc liên quan nhất với sự can đảm. Ở các nước phương Tây, màu đỏ
là một biểu tượng của những vị tử đạo và sự hy sinh, đặc biệt vì mối liên hệ
với máu. Chữ thập đỏ hay Trăng lưỡi liềm đỏ biểu thị các nhân viên, thiết bị,
phương tiện trong ngành y tế hay các công ước Geneva. Trái lại, màu đỏ là màu
tang tại Vatican khi Đức Giáo hoàng chết. Thời Phục hưng, Quần áo màu đỏ là dấu
hiệu của địa vị và sự giàu có. Màu đỏ là một màu của Giáng Sinh, cùng với màu
xanh lá cây, trắng hoặc cả hai. Màu đỏ cùng với màu vàng hoặc da cam được cho
là kích thích tiêu hóa, vì thế nó được sử dụng trên bảng hiệu của các nhà hàng
ăn uống. Màu đỏ gây sự chú ý của con người vì thế thông thường màu này được sử
dụng để chỉ sự nguy hiểm hay khẩn cấp. Màu đỏ là màu của nhiệt và cháy. Các vòi
nước có dẫn nước nóng thông thường được dán nhãn hoặc đánh dấu bằng màu đỏ. Đỏ
là màu phổ biến của các hộp chữa cháy, các thiết bị phòng cháy chữa cháy và
nghề chữa cháy. Màu đỏ biểu thị dấu hiệu "dừng", ví dụ, các biển hiệu
dừng, đèn tín hiệu dừng trong giao thông, đèn phanh hay đèn chớp của các xe
buýt trường học. Màu đỏ chỉ thị sự cực kỳ nguy hiểm trong thang độ mã màu các
nước phương Tây, chẳng hạn như các bảng hiệu rủi ro cháy rừng hay hệ thống tư
vấn an ninh quốc gia của Mỹ. Trong bóng đá, thẻ đỏ được rút ra để đuổi cầu thủ
ra khỏi sân vì những hành động phi thể thao nặng hoặc khi cầu thủ bị thẻ vàng
thứ hai. Trong môn đua ô tô, cờ đỏ báo hiệu cho mọi xe ngay lập tức dừng lại.
Vạch đỏ báo hiệu vận tốc cực đại mà động cơ và các bộ phận khác của ô tô được
thiết kế để chạy an toàn. Lối thoát khẩn cấp trong máy bay chở khách được chỉ
dẫn bằng biển hiệu và đèn đỏ. "Đường đỏ" là sự miêu tả của khu vực
cấm (như trên bản đồ), ở Mỹ nó thể hiện việc cấm vào hay phải tăng phí dịch vụ,
trong một số hoàn cảnh việc này là phi pháp. Màu đỏ đóng một vai trò quan trọng
trong triết học Trung Quốc. Người ta tin rằng thế giới bao gồm năm yếu tố: kim
loại, gỗ, nước, lửa và đất, và mỗi cái đều có màu sắc. Trong biểu tượng của
Trung Quốc, màu đỏ là màu của may mắn, hạnh phúc và nó được sử dụng để trang
trí và là màu quần áo trong đám cưới. Tiền trong xã hội Trung Quốc thông thường
được chứa đựng trong các túi đỏ (hong bao). Mao Trạch Đông đôi khi được nói tới
như là "mặt trời đỏ". Màu đỏ liên quan đến yếu tố lửa. Màu đỏ là màu
ấm áp, vì thế được sử dụng để chỉ các khu vực ấm áp trên bản đồ thời tiết hoặc
cho các cảnh báo liên quan tới nhiệt. Khởi đầu từ cuộc cách mạng 1848, màu đỏ
"xã hội chủ nghĩa" đã được sử dụng như là màu của các cuộc cách mạng
châu Âu, thông thường trong dạng cờ đỏ. Nó cũng được sử dụng bởi "những
người áo đỏ" (camicie rosse) của Garibaldi trong Risorgimento ở Ý và được
sử dụng tiếp theo bởi các chính trị gia cánh tả hay các nhóm cấp tiến nói
chung, trong khi màu trắng của những người ủng hộ Bourbon trở thành liên kết
với các đảng bảo thủ trước Đại chiến thế giới lần 1. Màu đỏ vẫn được cho là màu
của các đảng cánh tả, với một số ngoại lệ đáng kể (xem "đảng phái chính
trị" dưới đây). Màu đỏ là màu của cả tình yêu lãng mạn và thể xác, vì thế
màu đỏ là màu của trái tim Valentine và của "khu đèn đỏ". Nó cũng
biểu hiện sự giận dữ, chẳng hạn như trong câu đỏ mặt tía tai, hay sự ngượng
ngùng như trong câu xấu hổ đỏ mặt. Là màu của máu, màu đỏ liên quan với thần
chiến tranh, trong thần thoại Hy Lạp là Mars, cũng như hành tinh đỏ Hỏa Tinh (ở
phương Tây tên gọi của hành tinh này là tên của vị thần chiến tranh). Ở phương
Tây, thuật ngữ "máu đỏ" miêu tả những người táo bạo, tráng kiện hay
nam tính; nó đôi khi được sử dụng như sự tương phản với lạnh hay "máu
xanh" yếu đuối mặc dù các thuật ngữ này không có liên quan gì trong gốc
gác của chúng. Màu Đỏ Sậm ≈ Can Đảm và Thử Thách +Tăng cường sự tự tin, dũng
cảm, quả quyết. + Tác dụng hỗ trợ niềm tin, đặc biệt dành cho người có tính mềm
yếu, hay sợ hãi. Dành cho những người có các ngành nghề liên quan đến sự nguy
hiểm như cứu hỏa, bộ đội, cứu hộ, hoặc những người đi phiêu lưu nhằm tăng khả
năng dũng cảm. Thuyết Thelema cho rằng đá Delvauxite thuộc Sepherot Gevurah
hoặc geburah (גבורה) là sephirah thứ năm trong Cây Sự Sống, và nó là thuộc tính
cảm xúc thứ hai của sephirot. Nó nằm dưới Binah, ngang qua Chesed, và phía trên
Hod. Gevurah là "bản chất của sự phán đoán (DIN) và giới hạn, và phù hợp
với sự kính sợ và là yếu tố của lửa". Trong Bahir, nó được viết: "Và
ai là Người Chỉ Huy? Chúng ta biết rằng có ba thế lực (Gevurah). Sức Mạnh Là
Chỉ huy của tất cả các Dạng Thánh ở bên trái của Chúa Trời. Ngài ấy là Gabriel.
Gevurah có liên quan đến màu đỏ. Gevurah thuộc vị trí thứ năm trong mười
Sefirot, và thuộc tính cảm xúc thứ hai trong Sự Sáng Tạo, và tương ứng với ngày
sáng tạo thứ hai (Zohar 2: 127b). Theo Bahir, “Vật thứ năm là gì? (Sự bày tỏ)
Thứ năm là ngọn lửa lớn của Đức Chúa Trời, Đấy là tay trái của Đức Chúa Trời
". Gevurah được hiểu như là phương thức của Thiên Chúa để trừng phạt những
người xấu xa và đánh giá nhân loại nói chung. Nó là nền tảng của sự nghiêm
ngặt, tuân thủ tuyệt đối với bức thư của pháp luật, và nghiêm ngặt ra khỏi công
lý. Điều này trái ngược với Chesed. Chesed và Gevurah cùng nhau tạo ra một sự
cân bằng bên trong, như cách tiếp cận của tâm hồn với thế giới bên ngoài. Cánh
tay phải Chesed hoạt động để thu hút những người khác gần, cánh tay trái
Gevurah có quyền lựa chọn để đẩy lùi những người được coi là không xứng đáng. (Ngay
cả đối với những người mà mối quan hệ ban đầu của họ là "cánh tay trái đẩy
đi"thì trước đó người ta phải áp dụng nguyên tắc bổ sung của "tay
phải kéo lại gần"). Cuối cùng, quyền năng của Gevurah trở thành sức mạnh,
và sức mạnh này dùng để hiện thực hóa mong muốn bẩm sinh của Chesed. Chỉ với
sức mạnh của Gevurah, Chesed mới có thể xâm nhập vào bề mặt của sự thật. Baal
Shem Tov thảo luận về khả năng của Gevurah để thực hiện việc rút lui của Divine
(Tzimtzum), từ đó tạo ra tiềm năng cho Chesed xuất hiện trong quá trình sáng
tạo. (bình luận cho Parshat Toldot). Gevurah xuất hiện trong cấu trúc của
Sefirot dọc theo trục trái, trực tiếp dưới Binah, và tương ứng trong tzelem
Elokim với "cánh tay trái". Giá trị số của Gevurah, 216, là 6 lần 6
lần 6. Các bảng giao ước mà Moses nhận được tại Sinai dài “6 by 6 by 6” gan
tay. Torah được trao cho Moses và Israel từ "Miệng của Gevurah". Điều
quan trọng nhất là các vị hiền nhân của chúng ta sử dụng tên của Sefirah khác
để nói về chính Thiên Chúa, khác với Gevurah (Trong Kinh thánh, Thiên Chúa được
gọi là "Netzach [vĩnh cửu] của Israel" (Samuel 1 15:29) , nhưng không
phải là Netzach đơn độc). Ở đây, Gevurah ám chỉ quyền năng thiết yếu của Thiên
Chúa để thuần thục và tập trung ánh sáng và sức mạnh vô tận của Ngài vào những
chữ Torah hữu hạn (đặc biệt là những chữ khắc trên bảng giao ước, Mười Điều
Răn). Hai bàn tay cùng hành động để tạo nên mọi sự thật, Chesed (72) cộng với
Gevurah (216) = 288 = 2 lần 12 bình phương. 288 là số lượng tia lửa rơi từ
"Nitzotzot" (từ cơn thủy triều ban đầu của "sự phá vỡ của những
chiếc bình") thấm vào tất cả các sự thật được tạo ra. Thông qua nỗ lực kép
của Chesed và Gevurah, không chỉ để hình thành nên sự thật, mà còn để khắc phục
hiện thực (thông qua phương tiện "cánh tay trái đẩy ngược lại"),
những tia lửa này đã được cứu chuộc và nâng lên để trở lại và đoàn kết với
nguồn cuối cùng của họ. Theo nghĩa phổ quát, đây là bí mật của sự xuất hiện của
Mashiach và sự phục sinh của người chết. "Và trong thời của Caedmon, nó đã
trở nên phổ biến rộng rãi rằng Gevurah đồng nghĩa với tình yêu, và những người
khôn ngoan cố gắng biết Gevurah để xây dựng các giải pháp mà có thể giữ anh em
của họ khỏi cái chết."Thuyết Chakra cho rằng loại đá này thuộc Chakra Muladhara
(tiếng Phạn: मूलाधार, IAST: Mūlādhāra, Hồng Kông, tiếng Anh: "root support") hoặc
chakra gốc là một trong bảy chakras chính theo hệ thống Hindu. Nó được tượng
trưng bởi một hoa sen với bốn cánh hoa và màu đỏ. Thần của mooladhar là thần
Shri Ganesha. Muladhara nằm gần xương cụt ngay tại xương mông, đôi khi ở
kshetram (vị trí thiêng liêng), hoặc điểm kích hoạt trên bề mặt, nằm giữa đáy
chậu và xương cụt hoặc xương chậu. Do vị trí và kết nối với hoạt động bài tiết,
nó liên quan đến hậu môn.Nó được tượng trưng bởi một hoa sen màu đỏ, bốn cánh
hoa với một hình vuông màu vàng ở giữa. Mỗi cánh hoa có một âm tiết tiếng Phạn वं vaṃ, शं śaṃ, षं ṣaṃ, and सं saṃ được viết bằng vàng, đại
diện cho bốn vrittis hay ý thức: niềm vui lớn nhất, niềm vui tự nhiên, sự hân
hoan trong việc kiểm soát sự đam mê, và hạnh phúc trong sựu tập trung. Nói cách
khác, chúng có thể đại diện cho dharma (khát vọng tâm linh trong linh hồn),
artha (khát vọng tâm linh), kama (khát vọng thể xác) và moksha (khát vọng giải
phóng tinh thần). Tám mũi tên hướng ra từ các cạnh và góc của hình vuông.Thần
Indra gắn liền với Muladhara. Trong miêu tả, ông ta màu vàng, có bốn trang bị ,
và giữ một vajra hay búa thiên lôi và một hoa sen màu xanh trong tay ông ta.
Ông ngồi trên con voi trắng Airavata, nó có bảy cái vòi biểu thị số bảy yếu tố
cần thiết trong cuộc sống. Thỉnh thoảng, Ganesha cũng được liên kết với
Muladhara. Trong những miêu tả này, ông ta có da màu cam, mặc dhoti hay trang
phục truyeeng thống ấn độ màu vàng, và chiếc khăn quàng bằng vải lụa màu xanh
phủ trên vai. Trong ba tay, ông giữ một laddu (kẹo hình cầu của ấn độ), một
bông hoa sen, và một rìu nhỏ, và cái thứ tư là mọc lên trong mudra hay thủ ấn
xua tan sự sợ hãi.Nguồn gốc thần chú là âm tiết लं laṃ. Muladhara được coi là nền tảng
của "năng lượng cơ thể". Các hệ thống Yogic nhấn mạnh tầm quan trọng
của việc ổn định các chakra này. Kundalini bắt đầu được đánh thức ở đây. Nó còn
được gọi là vị trí của "bindu đỏ" hay điểm tinh tế, điểm này khi tăng
lên đến "bindu trắng" trong đầu thì sẽ kết hợp các nguồn năng lượng
nữ tính và nam tính, như Shakti và Shiva. Nó liên kết với các yếu tố của trái
đất, khứu giác và hoạt động của bài tiết."Bằng cách thiền định về Đấng tỏa
sáng trong Chakra Muladhara, với ánh sáng của mười triệu mặt trời, con người có
thể trở thành chúa tể của lời nói và vua của nhân loại, và một Adept hay người
thông thạo tất cả các loại học thức. Ông trở sẽ nên miễn dịch trước tất cả các
loại bệnh tật, và trong sâu thẳm tâm hồn của anh ta trở nên tràn ngập niềm vui
to lớn, ý muốn thuần khiết bằng những lời nói sâu sắc và âm nhạc, ông ta ưu
tiên phục vụ cho Devas hay thánh thần ".Trong kundalini yoga (bài tập, tập trung vào thở) có các phương pháp
yoga khác nhau được tổ chức để tác động năng lượng ở Muladhara: asanas hay tư
thế đứng bằng vai (như Garudasana, Shashankasana và Siddhasana); nhìn chằm chằm
đầu mũi, hoặc Nasikagra Drishti; riêng pranayamas; là quan trọng nhất trong
thực hành Mula Bandha, liên quan đến sự co lại của đáy chậu, đánh thức
kundalini, và rất quan trọng cho việc giữ lại tinh dịch. Trong hệ thống
Sufi của Lataif có hai Lataif "thấp hơn". Một là nafs, nằm ngay dưới
rốn. Các nafs kết hợp tất cả các yếu tố "thấp hơn bản thân" của con
người . Một loại khác tương tự latif được gọi là qalab, hay nấm mốc, xuất
hiện trong bảy hệ thống latif và tương ứng với cơ thể vật lý, nhưng đôi khi nó
nằm ở đầu. Qalab thường được chia thành bốn phần.Trong Kabbalah, Sephiroth thấp
nhất được biết đến như là Malkuth, và thực hiện vai trò vượt trội như là nền
tảng của bản chất vật lý. Nó liên kết với cơ quan tình dục, tiếp xúc gần gũi
với Yesod .Trong chiêm tinh học sao Thổ thường có quan hệ với các hành tinh có
sự sống, giới hạn, "thế giới vật chất", và liên quan đến bản chất thổ
của Muladhara, và nó được gọi là hành tinh cai trị của Muladhara bởi nhiều nhà
chiêm tinh học hiện đại. Trong các tâm linh dựa trên nền tảng Trái Đất, Tám
Hướng thường được sử dụng để biểu diễn bánh xe của năm. Tám Hướng chỉ dẫn cho
bốn mùa (Hướng bắc - Mùa Đông, Hướng Nam - Mùa Hè, Hướng Đông - Mùa Xuân, Hướng
Tây - Mùa Thu) và Đông Chí và Hạ Chí cũng như Xuân Phân và Thu Phân. Trung điểm
giữa giữa bốn mùa trong năm là bốn hướng ít hơn. Mô hình Tám Hướng (Eight
Direction) này mô tả hoàn hảo trên tám mũi tên của chakra gốc. Bốn cánh hoa của
chakra cũng nằm trên bốn nguyên tố Thổ (Bắc), Khí (Đông), Hỏa (Nam) và Thủy
(Tây). Chakra này, có liên quan chặt chẽ đến các thành phần của Trái Đất, cũng
phản ánh các yếu tố Thổ. Đá Delvauxite có
màu đỏ, theo thuyết Phật giáo Mật tông là bổn sắc của A Di Đà Như Lai
(Amitabha) . Ngài là sự chuyển hóa của sự hỗn độn thành sự phân minh. Màu đỏ
đại diện cho vô úy tướng ứng với miệng. Đeo Delvauxite sẽ được A Di Đà Như Lai
Phật hộ trì, hỗ trợ về miệng và sự phân minh. Vì đây cũng là màu của cõi
atula, đá Delvauxite được coi là bùa hộ về vị dục, giúp thoát khỏi các nguy
hiểm về vị dục thông qua vị phật phân minh. Tử thư nhắc đến màu đỏ như biểu
hiện cho sự phân minh, trí huệ, đồng thời sự tỵ nạnh ganh ghét. Tử Thư Tây Tạng
viết rằng: Vào ngày thứ tư, một ánh sáng đỏ – đó là yếu tố tinh khiết của lửa,
sẽ chiếu sáng và đồng thời đức Phật A Di Đà từ cõi phương Tây màu đỏ, Cõi Cực
Lạc (The Blissful) sẽ xuất hiện trước mặt con. Thân ngài màu đỏ, ngài cầm hoa
sen trong tay, ngài ngự trên ngai con chim công, ngài đang ôm người phối ngẫu
là Phật Mẫu Pandaravasini. Ánh sáng đỏ của tưởng uẩn trong tánh thanh tịnh căn
bản của nó là Diệu Quan Sát Trí (wisdom of discrimination), màu đỏ rực rỡ, được
trang hoàng bởi những dĩa ánh sáng quang minh, rõ rệt, sắc bén, óng ánh từ tim
của đức Phật A Di Đà. Vào ngày thứ tư, có các tia sáng của hỏa đại màu đỏ xuất
phát từ phương tây. Chính giữa luồng ánh sáng đó có đức Phật A Di Đà, đứng trên
tòa sen đang rộng hai tay tiếp dẫn. Luồng ánh sáng này chiếu soi khắp mười
phương thế giới không chỗ nào không soi đến. Gần đó có một lớp ánh sáng màu nâu
đục, tượng trưng cho cảnh giới của ngạ quỷ cũng đồng thời xuất hiện. Đá Delvauxite trong hành Hỏa và thuộc vào
Kinh Túc Thiếu Âm Tâm, Kinh Thủ Quyết Âm Tâm Bào. Kinh Túc
Thiếu Âm Tâm liên quan đến bệnh vai, mặt trong chi trên
đau, gan tay nóng hoặc lạnh, mồm khô, khát muốn uống nước, đau mắt, đau vùng
tim, nấc khan, sườn ngực đau tức, chứng thực thì phát cuồng, chứng hư thì bi
ai, khiếp sợ, ở tim, ngực, tâm thần.Ví
dụ như huyệt Cực Tuyền có tác dụng liên quan đến đau ngực sườn,
đau tim, tay lạnh đau, cánh tay không giơ được, lao hạch; huyệt Thanh Linh có tác dụng liên quan
đến đau vai và cánh tay, đau sườn ngực, mắt
vàng; huyệt Thiếu Hải (Huyệt Hợp thuộc Thủy) có tác
dụng liên quan đến Khuỷu tay co rút, tay tê dại, bàn tay run, đau vùng tim, đầu
váng, mắt hoa, hay quên, cuồng, tràng nhạc; huyệt Linh Đạo
(Huyệt Kinh thuộc Kim) có tác dụng liên quan đến đau cẳng tay, đau và co khuỷu
tay, đau vùng tim, kinh sợ, mất tiếng đột ngột. Kinh Thủ Quyết Âm Tâm Bào liên quan đến các chứng mặt
đỏ, nách sưng, cánh tay, khuỷu tay co quắp, gan tay nóng, đau vùng tim, bồn
chồn, tức ngực sườn, tim đập thình thịch, cuồng, nói lảm nhảm, hôn mê, ở ngực,
tim, dạ dày, bệnh tâm thần, sốt.Ví dụ như huyệt Giản Sử (Huyệt
Kinh thuộc Kim) có tác dụng liên quan đến Đau cánh tay, nóng gan bàn tay, bệnh
nhiệt có tâm phiền, tim đập hồi hộp, đau vùng tim, Trúng phong đờm rãi nhiều,
nôn, khan tiếng, điên cuồng, sốt rét; huyệt
Nội Quan có tác dụng liên quan đến đau cẳng tay, đau vùng tim,
đau sườn ngực, tâm phiền, hồi hộp, nôn, đầy chướng bụng, tiêu hóa kém, điên
cuồng; huyệt Đại Lăng (Huyệt Nguyên, huyệt Du thuộc Thổ) có
tác dụng liên quan đến đau cổ tay, lòng bàn tay nóng, khuỷu tay co, đau vùng
tim, đau sườn ngực, tâm phiền, nôn, đầy chướng bụng, tiêu hóa kém, điên cuồng,
cười mãi không hết, dễ sợ hãi, bệnh nhiệt; huyệt Lao Cung
(Huyệt Huỳnh thuộc Hỏa) có tác dụng liên quan đến run bàn tay, ra mồ hôi lòng
bàn tay, đau vùng tim, tâm phiền, khát, tim đập hồi hộp, cười mãi không thôi,
lóet miệng, nôn, sốt về đêm; huyệt Trung Xung (Huyệt Tỉnh
thuộc Mộc) có tác dụng liên quan đến lòng bàn tay nóng, cứng lưỡi, đau vùng
tim, tâm phiền, trúng phong bất tỉnh,hôn mê, sốt không ra mồ hôi. Thuyết Khí
Tiết cho rằng người có mệnh cục Hỏa (sinh vào ngày Bính-Đinh, Tỵ-Ngọ) gặp vào
những ngày thuộc hành Thủy (như các ngày Nhâm-Quý, Tý-Hợi) thì bởi Thủy khắc
Hỏa, sinh ra bệnh ở Ruột Tim, biểu hiện ở tiểu tràng và tâm kinh: câm đau
miệng, co giật ngưng mủ, đậu mùa, ung nhọt, ghẻ lở, mặt đỏ, nóng nảy. Sách mệnh
lý nói: mắt mờ, do Hỏa bị Thủy khắc chế, phải lấy Mộc giải độc, Delvauxite thuộc
Mộc, có tác dụng tốt cho thể trạng người Hỏa Cục (Mộc sinh Hỏa), nhất là vào
những ngày Thủy thịnh (Nhâm-Quý, Tý-Hợi) và các tháng hành Thủy như tháng mười
và mười một. Người đeo đá Delvauxite, có thể dùng Mộc khắc chế được Thủy hại. Theo
thuyết Tứ Trụ, đá Delvauxite thuộc mệnh Hỏa rất hạp với mệnh Mộc sinh vào ngày
xuân,được nguyệt lệnh mà phần lớn là thân mạnh,vì vừa qua mùa đông lạnh,có chút
lạnh lẽo,mượn Hỏa sưởi ấm cơ thể tự do phát triển vươn xa,có Thủy nuôi dưỡng sẽ
sinh trưởng nhanh.Tóm lại,Mộc mùa xuân tốt nhất nên có Thủy,Hỏa đến điều hòa
mới phát triển tốt. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Mộc sinh
mùa thu,thông thường không được sự trợ giúp của nguyệt lệnh,Kim nặng quay
quanh,phần lớn thuộc thân yếu. Nếu là Mộc mùa suy yếu,ưa được Hỏa tiết,Thổ
dưỡng,Kim khắc không ưa Thủy đến tương trợ. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp
với mệnh Thổ sinh mùa xuân. Mùa xuân thì Mộc tư lệnh đương quyền, Thổ ở chỗ tử
tuyệt, hư phù không có lực, ưa Hỏa đến sinh trợ, kỵ Mộc đến khắc. Đá ngọc thuộc
mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Thổ sinh mùa đông. Mùa đông, bên ngoài lạnh, bên
trong ấm. Hỏa nhiều mà thịnh vượng thì quý khí hiển vinh. Đá ngọc thuộc mệnh
Hỏa cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa xuân. Mùa xuân, do vừa qua mùa đông vẫn
còn chút khí lạnh, do đó Kim cần Hỏa sưởi ấm mới có thể loại bỏ khí lạnh mà
được phú quý. Nếu Mộc thịnh vượng, Kim sẽ chịu tổn thương. Lúc này cần Kim đến
phù trì. Nếu là thiếu Hỏa sưởi ấm thì Kim không thể phát huy tác dụng. Đá ngọc
thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa thu. Mùa thu vừa đúng là Kim
tư lệnh đương quyền, do đó Kim lúc này tốt nhất có Hỏa luyện chế mới có thể làm
thành vật quý. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa đông.
Kim của mùa đông có tính chất hàn lạnh, nếu Mộc nhiều cũng không thể điêu khắc
mà tái hiện công hiệu của Kim. Nếu Thủy quá nhiều, Kim sẽ bị chìm vào ưu phiền.
Thổ có thể khắc Thủy, làm cho Kim không chịu ảnh hưởng của hàn lạnh, mà Hỏa có
thể sinh trợ Thổ, Thổ có thể sinh trợ Kim, Thổ Kim là mẹ con tương sinh, có thể
thành công. Kim cũng ưa Tỷ kiên nhưng cần có Hỏa xuất hiện mới có thể ôn dưỡng
Quan ấn. Thuyết Ngũ Hành Can Chi cho
rằng Delvauxite thuộc về Hỏa (Đỏ và Cam) phối Thủy (Uốn và Lượn), tức Hỏa Cục.
Do đó, Delvauxite giúp khắc chế các bản mệnh Mộc-Thổ như Giáp Thìn, Giáp Tuất,
Ất Mùi, Ất Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo
loại ngọc này. Delvauxite cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Thổ (Hỏa sinh
Thổ), gồm có mệnh thuộc Hỏa-Thổ và thuần Thổ: Mậu Ngọ, Kỷ Tỵ, Bính Thìn, Bính
Tuất, Đinh Mùi, Đinh Sửu, Mậu Thìn, Mậu Tuất, Kỷ Mùi, Kỷ Sửu, các bản mệnh này
có lợi khi tiếp xúc với loại ngọc này. Thuyết Ngũ Hành Khí Tiết nói, người có
mệnh cục Thổ (sinh vào ngày Mậu-Kỷ, Thìn-Mùi-Tuất-Sửu) gặp vào những ngày thuộc
hành Mộc (như ngày Giáp-Ất, Dần-Mão) thì , bởi Thổ khắc Mộc, mật và dạ dày dễ
tổn thương, biểu hiện lên cơ thể là bị nấc cục, đau dạ dày, tiêu chảy, hoàng
thũng, khó nuốt, chán ăn, buồn nôn. Bên ngoài sẽ biểu hiện ra da khô, tay phải
mỏi. Trẻ nhỏ bị suy dinh dưỡng, vàng lá lách. Đặc tính của Thổ là ẩm ướt, dễ bị
chìm, sắc mặt vàng vọt. Sách mệnh lý nói: Thổ tại Mộc vượng, lá lách tổn
thương. Muốn khắc chế, phải lấy Hỏa giải độc, Delvauxite thuộc Hỏa, có tác dụng
tốt với thể trạng người Thổ cục (Hỏa sinh Thổ), đề phòng cho những ngày Mộc
thịnh (Giáp-Ất, Dần-Mão) hay tháng hành Mộc như tháng giêng và tháng hai. Người
đeo đá Delvauxite, có thể dùng Hỏa khắc chế được Mộc hại. Dựa trên thuyết
Orthotherabi và công thức cấu tạo của đá Delvauxite (CaFe4(PO4,SO4)2(OH)8 · 4-6H2O) gồm:
Nguyên tố Calcium (Ca) có số nguyên tử là 20, tỉ trọng Canxi trong cơ thể là
0.014 và khối lượng trung bình trong cơ thể người là 1kg đạt tỷ lệ là 0.22%. Tác động tích cực cho sức khỏe do Can xi là thành phần
chủ yếu của răng và hệ xương, đặc biệt là trong các thành phần Calmodulin và
Hydroxylapatite. Tác dụng lên hệ xương, chiều cao, sự vận động và phục hồi
xương. Được coi là có tác dụng tốt cho chứng gãy xương, hay tăng chiều cao ở
trẻ em. Được sử dụng nhiều cho các vận động viên, hoặc các ngành nghề cơ bắp. Nguyên
tố Iron (Fe) chỉ số nguyên tử là 26, trong cơ thể người đạt tỉ trọng là 60*10-4,
khối lượng trung bình 0.0042kg chiếm tỷ lệ 0.00067%. Tác động vừa tích cực cho
sức khỏe do sắt là nguyên tố chủ đạo trong máu (Hemoglobin, Cytochromes) và vài
loại hóc-môn trong cơ thể. Tác dụng lên hệ tuần hoàn, máu huyết. Được coi là có
tác dụng tốt trong việc cầm máu, chữa các chứng xuất huyết, và các chứng liên
quan đến máu. Nguyên tố Sulfur (S) có nguyên tử khối là 16, tỉ trọng cơ thể là
0.25, khối lượng trung bình 0.14kg, tỷ lệ nguyên tố là 0.038% trong không khí.
Tác động tích cực cho sức khỏe do lưu huỳnh là thành phần chủ yếu của cơ bắp
của sinh vật. Lưu huỳnh cũng cấu thành nên nhiều chất hóc môn trong cơ thể như
Cysteine, Methionine, Biotin, Thiamine.Tác dụng lên cơ bắp, hỗ trợ khả năng vận
động, cử động. Được cho là có tác dụng hỗ trợ điều trị thương tích ở cơ và phục
hồi cơ. Nguyên tố Oxygen (O) có số nguyên tử là 8, chiếm tỉ trọng trong cơ thể
người là 0.65. Thành phần của nguyên tố này trong cơ thể trung bình là 43kg
chiếm tỷ lệ là 24%. Tác động đến sức khỏe và sự sống của hầu hết các loài động
thực vật trên thế giới. Nguyên tố Phosphorus (P) có số nguyên tử là 15, tỉ
trọng trong cơ thể là 0.011, đạt khối lượng trung bình 0.78kg chiếm tỷ lệ
0.22%. Tác động tích cực cho sức khỏe do phốt pho là thành phần chủ yếu của
răng và hệ xương, đặc biệt trong quá trình phosphorylation. Tác dụng lên hệ
xương, chiều cao, sự vận động và phục hồi xương. Được coi là có tác dụng tốt
cho chứng gãy xương, hay tăng chiều cao ở trẻ em. Được sử dụng nhiều cho các
vận động viên, hoặc các ngành nghề cơ bắp. Dựa trên công thức hóa học của đá Delvauxite,
theo thuyết Hài Hòa Bộ Tám loại đá này mang yếu tố Primius với nguyên tố chủ
đạo là nguyên tố Đất, vì vậy tác động lên hệ cơ bắp, búi cơ tay chân, cơ hoành,
da răng và các lông tóc bên ngoài. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh
liên quan đến các yếu tố tóc, lông và cơ như chứng rụng tóc, đau răng, bị da
liễu, hoặc các chứng liên quan đến cơ như chuột rút, teo cơ, phù thủng... Ngoài
ra còn tăng cường vật chất và sở hữu, đặc biệt là sự đột phá, cấp tiến, cách
mạng, cải biên xã hội, đẩy mạnh tự do, bất cần, vô chính phủ... nhấn mạnh đến
yếu tố sở hữu. Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là không trấn giữ cung
nào theo Chiêm Tinh Cổ, nhưng trấn giữ vị trí con rồng (Dragons), ở hai vị trí
đầu rồng và đuôi rồng, Chiêm tinh gọi là Caput Draconis và Cauda Draconis,
tiếng Việt hay dịch là La Hầu và Kế Đô. Không có quan niệm chính thức cho hai
vị trí này. Thông thường, người ta coi nó là đại diện cho tính tốt và xấu trong
mỗi con người. Vì vậy, nó thúc đẩy các mối quan hệ về con người và bản chất con
người. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố này bảo trợ về không gian và
thời gian nói chung. Dành cho những người làm trong lĩnh vực liên quan đến các
không gian và thời gian như người làm đồng hồ, những người rung chuông, gác
cổng, những người canh giờ tàu hỏa,... hoặc những người cảnh báo tư tưởng (gọi
là những người tiền vệ - avantgarde). Thuyết Bát Quái Kinh Dịch dựa vào hình thái tinh hệ của
tinh thể gồm tám loại, được phân định thành tám quái thuộc nội quái trong kinh
dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập Phương (cubic - isometric) ứng Càn , Tứ
Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam Phương (rhombohedral) ứng Ly, Lục
Phương (hexagonal - trigonal) ứng Đoài, Tam Tà (triclinic) ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic)
ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic) ứng Tốn, Phi Tinh (noncrystallinic) ứng Khôn.
Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng khác: Lập Phương ứng Càn, Tam Tà ứng
Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn, Tam Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng
Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở đây chỉ trình bày thuyết của Thông
Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm tám màu, ứng với tám quái thuộc ngoại
quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính, đều nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ
nhất được trình bày trong I-ching: Binary Numbers, Astrology, And Chakras, dựa
trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng, Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn
ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ, Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai
do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành ứng bát quái cho rằng: Càn ứng
dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn ứng cam, Ly ứng đỏ, Đoài
ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề xuất dựa trên nghĩa của
quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam, Cấn ứng lục, Đoài ứng
cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên thuyết thứ nhất.
Từ nội quái và ngoại quái tương ứng với hình dạng và màu sắc của tinh thể, từ
đó tính ra được quái trong 64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại ứng một bộ
phận cơ thể theo y lý trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể. Đá Delvauxite
có màu đỏ tương ứng quẻ ngoại quái Ly, có tinh hệ Tam Tà tương ứng quẻ nội quái
Cấn, ghép lại chính là quẻ quái số 56: quẻ Hỏa Sơn Lữ. Quái số 56 ứng với vị
trí mũi trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên
quan đến hệ hô hấp như viêm phế quảng, viêm phổi, lao, hen xuyễn, ho, viêm phổi
cộng đồng, viêm tai,… Quẻ
Hỏa Sơn Lữ có nghĩa là Lữ là ky lữ, núi đậu ở dưới, lửa bốc ở trên, là tượng
“bỏ chỗ ngưng đậu không ở” cho nên là lữ. Lấy hào Sáu Năm được chỗ giữa ở
ngoài, mà thuận với hào Dương ở trên và dưới Cấn đậu mà Ly thì bám vào chỗ
sáng, cho nên lời chiêm của nó là thể nho nhỏ hanh thông. Hành lữ không phải
chỗ ở thường, hình như có thể cẩu thả, song “đạo” không chỗ nào không ở, cho
nên việc hành lữ cũng có chỗ chính của nó, người đeo đá này sẽ được các lợi ích
như vậy. Nơi tìm thấy đá: Delvauxite có thể được tìm thấy ở Washington (USA), South
Australia (Australia), Murmansk Oblast (Russia),...
Lời cảm ơn:
bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến sĩ
Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu tập
Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng
Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments