Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị Liệu, Thạch Học Trị Liệu dịch từ
chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ. Lithotherapy phân thành Litho đến
từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá, therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ]
tức là chữa trị, lithotherapy tức là chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với
đá ở ngoài da. Lithotherapy là một môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận
huyền học và thần bí học. Mặc dù có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả
năng của nó, đã được ứng dụng từ lâu trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại,
nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức màn bí mật của những điều thần kỳ giống như nền
Đông Y của người Trung Quốc hay Nam Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc
biệt trình bày về những lý luận căn bản trong Thạch Lý Học đối với Dravite, nằm trong chuỗi khảo cứu, viết riêng cho tuần báo
UNESCO.
Giới thiệu về đá Dravite
Giới thiệu về các thuyết: Giá trị thạch lý học của Dravite
được trình bày thành các thuyết
cơ bản: thuyết Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học (Chromotherapy),
thuyết Linh Khí (Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng Trị Liệu
(Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves),
thuyết Thái Lặc Mã (Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết Hoa
Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié). Thuyết
bản mệnh Phương Đông người
ta căn cứ vào địa chi của tháng sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần, tháng 2
là Mão, tháng 3 là Thìn, tháng 4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi, tháng 7
là Thân, tháng 8 là Dậu, tháng 9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý,
tháng 12 là Sửu, cùng phối hợp với ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá, như
sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng dùng đá có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ thuộc
Hỏa (ứng dùng đá có tông màu cam đỏ hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có
tông màu trắng, xám, ánh bạc), Tý Hợi thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu đen,
chàm, tím), Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ (ứng dùng đá có tông màu vàng, trong,
ánh kim). Và theo đó, Thuyết Bản Mệnh phương đông xếp loại đá này vào năm Nhâm
Tuất, thuộc Thủy Cục, về Dương Phần. Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Nhâm
Tuất sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu đen, thuộc về hành Thủy, ứng về
tháng Tý và Hợi, tức tháng 10 và 11. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa
theo tháng như sau: tháng một màu đỏ cam, tháng hai màu tím tươi, tháng ba màu
xanh lam, tháng tư màu trắng trong, tháng năm màu lục đen, tháng sáu màu trắng
đục, tháng bảy màu đỏ tươi, tháng tám màu xanh chuối, tháng chín màu xanh lá,
tháng mười màu đen, tháng mười một màu vàng, tháng mười hai màu chàm. Thuyết Bản
Mệnh phương tây được định nghĩa theo hoàng đạo như sau: Bạch Dương màu xanh
đen, Kim Ngưu màu xanh dương đậm, Song Tử màu trắng trong, Cự Giải màu xanh lá
mạ, Sư Tử màu đen, Xử Nữ màu cam, Thiên Bình màu lục nhạt, Thiên Yết màu lam,
Nhân Mã màu vàng, Ma Kết màu đỏ tươi, Bảo Bình màu đỏ sậm, Song Ngư màu tím. Đá
này màu đen được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng mười, mùa đông và xếp vào
đá bản mệnh của cung Sư Tử, thuộc hệ Lửa. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 23
tháng 7 đến 22 tháng 8 hằng năm, hoặc vào tháng 8 thì được xem là có lợi khi
đeo loại đá này. Theo thuyết Quang Lý
học thì đá Dravite có màu đen. Ý
nghĩa của màu sắc này được biểu hiện ở các nên văn hóa khác nhau. Đối với người Ai Cập
cổ đại, màu đen có sự liên kết với tích cực; là màu sắc của sự sinh sản và đất
màu đen đầy phù sa bị ngập nước bởi sông Nile. Đó là màu sắc của Anubis, thần
của thế giới âm ti, người mang hình dạng của một con chó sói đen, và bảo vệ
chống lại quỹ dữ từ cái chết. Đối với người Hy Lạp cổ đại, màu đen cũng là màu
sắc của thế giới âm ti, tách ra khỏi thế giới của cuộc sống bên dòng sông
Acheron, có nước đen. Những ai đã phạm tội tồi tệ nhất đã được gửi đến ngục
Tartarus, ngục sâu nhất và tối tăm nhất. Ở trung tâm là cung điện của Hades,
vua của thế giới người chết, nơi ông ngồi trên một ngai vàng bằng gỗ mun màu
đen. Ở Trung Quốc, màu đen có liên quan đến nước, một trong năm yếu tố cơ bản
được cho là tạo ra vạn vật; là mùa đông, mùa lạnh, phía bắc, và thường
được tượng trưng bởi một con rùa đen. Nó cũng liên quan đến rối loạn, bao gồm
rối loạn tích cực dẫn đến thay đổi và cuộc sống mới. Khi hoàng đế Tần Thủy
Hoàng nắm quyền lực từ triều đại nhà Chu, ông đã đổi màu đế vương từ màu đỏ
sang màu đen, nói rằng màu đen đã dập tắt màu đỏ. Chỉ khi triều đại Hán xuất
hiện vào năm 206 trước công nguyên, màu đỏ được phục hồi như là màu hoàng đế.
Trong cuộc sống những người thực sự thích màu đen không nhiều. Nhưng những
người thích sử dụng màu đen lại nhiều vô kể. Bởi trong quan niệm hiện đại, màu
đen mới là biểu tượng của giàu sang và quyền lực. Ở Nhật, màu đen có liên quan
đến sự huyền bí, ban đêm, cái chưa biết, siêu nhiên, sự vô hình và cái chết.
Kết hợp với màu trắng, nó có thể biểu tượng cho trực giác. Tại Indonesia, màu
đen có liên quan đến chiều sâu, thế giới ngầm, quỷ dữ, thiên tai, và bàn tay
trái. Tuy nhiên, khi kết hợp màu đen với màu trắng, nó tượng trưng cho sự hài
hòa và cân bằng. Màu đen mang lại sự huyền bí nhưng sang trọng là màu đi liền
với quyền lực. Trong cuộc sống màu đen luôn có một sức hấp dẫn, lôi cuốn và vô
cùng bí ẩn. Nó có khả năng che lấp mọi cái xấu, mọi cái không tốt của con
người. Màu đen còn là biểu tượng của cái ác, của những thế lực xấu xa, đen tối.
Nếu coi cuộc sống này là một bộ phim thì màu đen là những nhân vật phản diện.
Khi ngắm nhìn màu đen con người ta vừa có cảm giác run sợ, vừa có cảm giác bị
lôi cuốn kích thích trí tò mò. Thuyết Thelema cho
rằng Dravite thuộc Sepherot Yesod (tiếng Hebrew: יסוד
"nền tảng") là một sephirah hay một nút trong cây Cây Sự sống, một hệ
thống triết học Do Thái. Yesod, nằm gần gốc cây, là sephirah dưới Hod và
Netzach, và trên Malkuth (vương quốc). Nó được xem như là một chất dẫn cho phép
chuyển động từ một dạng hoặc điều kiện này sang điều khác (sức mạnh của sự kết
nối). Yesod, Kabbalah, và Cây Sự sống là những khái niệm của người Do thái được
áp dụng bởi các hệ thống triết học khác nhau bao gồm Kitô giáo, thuyết thần bí
vùng Đông New Age, và các tập quán bí truyền phương Tây. Theo quan niệm của người Do Thái, Yesod là nền
tảng mà Thiên Chúa đã xây dựng lên thế giới. Nó như là một đốt truyền dẫn giữa
sephirot ở trên và thực thể dưới đáy. Ánh sáng của sephirot trên cùng tập trung
ở Yesod và được chuyển đến Malkuth dưới đáy. Theo cách này, Yesod có liên quan
đến các cơ quan sinh dục. Yesod của nam tính thu thập các nguồn lực quan trọng
của sephirot ở trên, và chuyển các năng lực sáng tạo và sống còn vào Malkuth nữ
tính dưới đáy. Yesod là đường dẫn, Malkuth thì tiếp thu. Ngược lại, thông qua
Malkuth là trái đất có thể tương tác với thần thánh. Yesod đóng vai trò thu
thập và cân bằng các năng lượng khác và đối nhau của Hod và Netzach, cũng như
từ Tiferet ở trên nó, lưu trữ và phân phối trên toàn thế giới. Nó được so sánh
với "phòng động cơ" của sự sáng tạo. Cherubim là dấu ấn thiên thần
kết nối với Yesod, đứng đầu bởi Archangel Gabriel. Ngược lại, cấp bậc ma quỷ
trong bầu trời Qliphothic đối nghịch với Yesod là Gamaliel, được cầm quyền bởi
Archdemon Lilith. Theo triết lý Kabbalistic của người Do Thái, Yesod chịu trách
nhiệm về các năng lực truyền thông, kết nối và liên lạc giữa thực tế bên ngoài
với tâm hồn, hợp nhất thế giới vật chất của Malkuth với Sephiroth khác. Do đó,
một số Kitô hữu so sánh Yesod với người thứ ba của Chúa Ba Ngôi, Chúa Thánh
Thần. Chúa Thánh Thần được xác định bởi một số Kitô hữu như một khía cạnh của
Thiên Chúa Ba Ngôi. Những Kitô hữu tin rằng Chúa Thánh Thần là khía cạnh của
thần hợp nhất Thiên Chúa với nhân loại. So với các tập quán thần bí phương
Đông, Yesod thường liên quan đến chakra Swadhisthana, có liên quan đến mặt
trăng, với tình dục, và với vô thức. Theo các triết gia huyền bí phương Tây,
Yesod được xem là "có tầm quan trọng tối cao đối với các bí ẩn gia ... Nhà
Kho báu của những Bức tranh, khu vực của người Maya, sự ảo tưởng". Thuyết
Chakra cho rằng loại đá này thuộc Chakra Muladhara (tiếng Phạn: मूलाधार, IAST:
Mūlādhāra, Hồng Kông, tiếng Anh: "root support") hoặc chakra gốc là một
trong bảy chakras chính theo hệ thống Hindu. Nó được tượng trưng bởi một hoa
sen với bốn cánh hoa và màu đỏ. Thần của mooladhar là thần Shri Ganesha.
Muladhara nằm gần xương cụt ngay tại xương mông, đôi khi ở kshetram (vị trí
thiêng liêng), hoặc điểm kích hoạt trên bề mặt, nằm giữa đáy chậu và xương cụt
hoặc xương chậu. Do vị trí và kết nối với hoạt động bài tiết, nó liên quan đến
hậu môn. Thần Indra gắn liền với Muladhara. Trong miêu tả, ông ta màu vàng, có
bốn trang bị , và giữ một vajra hay búa thiên lôi và một hoa sen màu xanh trong
tay ông ta. Ông ngồi trên con voi trắng Airavata, nó có bảy cái vòi biểu thị số
bảy yếu tố cần thiết trong cuộc sống. Thỉnh thoảng, Ganesha cũng được liên kết
với Muladhara. Trong những miêu tả này, ông ta có da màu cam, mặc dhoti hay
trang phục truyeeng thống ấn độ màu vàng, và chiếc khăn quàng bằng vải lụa màu
xanh phủ trên vai. Trong ba tay, ông giữ một laddu (kẹo hình cầu của ấn độ), một
bông hoa sen, và một rìu nhỏ, và cái thứ tư là mọc lên trong mudra hay thủ ấn
xua tan sự sợ hãi.Nguồn gốc thần chú là âm tiết लं laṃ. Muladhara được coi là nền tảng của
"năng lượng cơ thể". Các hệ thống Yogic nhấn mạnh tầm quan trọng của
việc ổn định các chakra này. Kundalini bắt đầu được đánh thức ở đây. Nó còn được
gọi là vị trí của "bindu đỏ" hay điểm tinh tế, điểm này khi tăng lên
đến "bindu trắng" trong đầu thì sẽ kết hợp các nguồn năng lượng nữ
tính và nam tính, như Shakti và Shiva. Nó liên kết với các yếu tố của trái đất,
khứu giác và hoạt động của bài tiết."Bằng cách thiền định về Đấng tỏa sáng
trong Chakra Muladhara, với ánh sáng của mười triệu mặt trời, con người có thể
trở thành chúa tể của lời nói và vua của nhân loại, và một Adept hay người
thông thạo tất cả các loại học thức. Ông trở sẽ nên miễn dịch trước tất cả các
loại bệnh tật, và trong sâu thẳm tâm hồn của anh ta trở nên tràn ngập niềm vui
to lớn, ý muốn thuần khiết bằng những lời nói sâu sắc và âm nhạc, ông ta ưu
tiên phục vụ cho Devas hay thánh thần ".Trong kundalini yoga (bài tập, tập trung vào thở) có các phương pháp
yoga khác nhau được tổ chức để tác động năng lượng ở Muladhara: asanas hay tư
thế đứng bằng vai (như Garudasana, Shashankasana và Siddhasana); nhìn chằm chằm
đầu mũi, hoặc Nasikagra Drishti; riêng pranayamas; là quan trọng nhất trong thực
hành Mula Bandha, liên quan đến sự co lại của đáy chậu, đánh thức kundalini, và
rất quan trọng cho việc giữ lại tinh dịch. Chakra này cũng có thể được
kích hoạt bằng cách tụng thần chú gốc. Người ta nói rằng có thể tụng thần chú gốc
của Chakra Muladhara hơn 100.000.000 lần có thể đạt được tất cả các Siddhis
(năng lực thần bí) của Muladhara Chakra. Khi so sánh với hệ thống Tantric quan
trọng khác của Kim Cương Thừa ở Tây Tạng, chakra Muladhara không tìm thấy sự
tương đồng ở nơi giống như vậy, không giống như các chakra khác. Thay vào đó, hệ
thống Tây Tạng đặt hai chakra vào cơ quan tình dục: vòng ngọc ở giữa, gần đầu
và phần đầu của cơ quan tình dục. Những chakra này cực kỳ quan trọng cho việc tạo
ra phúc lành to lớn và đóng một vai trò quan trọng trong thực hiện hành vi tình
dục tantric cao trào nhất. Một đặc điểm duy nhất, giọt màu đỏ, còn được gọi là
bồ đề tâm đỏ, không nằm ở đây, mà nằm ở vòng tròn rốn. Đá Dravite có màu đen, theo thuyết Phật giáo Mật tông là
bổn sắc của A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya). Ngài là sự chuyển hóa của sân hận
thành từ bi. Màu lam và đen đại diện cho phẫn nộ tướng ứng với tai. Đeo Dravite
sẽ được A Súc Bệ Như Lai
Phật hộ trì, hỗ trợ về tai và sự điềm tĩnh. Vì đây cũng là màu của cõi người,
đá Dravite được coi là bùa hộ về thính dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về thính
dục thông qua vị phật phẫn nộ. Tử thư nhắc đến màu đen như sự mượn tạm hình
tướng phẫn nộ để biểu thị sự từ bi, cũng là sự hiển lộ của sân hận cần hóa giải
thông qua các biệt xảo. Tử Thư Tây Tạng viết: Đến lượt ở phương bắc là Vetali,
màu đen, cầm một kim cương sử và một cái tách bằng sọ người, bà tượng trưng
phẩm chất bất biến của pháp tánh kim cương sử là bất hoại và cái tách bằng sọ
người là một biểu tượng khác nữa của phương tiện thiện xảo. Từ hướng tây thiên
nữ Srgalamukha màu đen, đầu con cáo cầm lưỡi dao cạo bên tay phải và chùm ruột
bên tay trái đang ăn chùm ruột và liếm máu. từ hướng tây thiên nữ Srgalamukha
màu đen, đầu con cáo cầm lưỡi dao cạo bên tay phải và chùm ruột bên tay trái
đang ăn chùm ruột và liếm máu. từ phía tây bắc thiên nữ Kakamukha màu đen, đầu
quạ, cầm tách sọ người bên tay trái một thanh kiếm bên tay phải đang ăn tim và
phổi. Con hãy nhận ra bất cứ cái gì xuất hiện đều là vở tuồng diễn kịch của
tâm, đó là những phóng tưởng của tự con. cơn lốc xoáy rất lớn của nghiệp, một
cơn lốc đáng sợ, không thể chịu đựng được, quay cuồng dữ dội, từ phía sau đẩy
con tới. Con đừng sợ cơn lốc đó, đó chính là phóng tưởng mê lầm của con. Bóng
tối đen dày đặc rất kinh hãi, không chịu nổi, sẽ đi đằng trước mặt con cùng với
những tiếng kêu rùng rợn như tiếng thét „Đánh và Giết‟. con sẽ kinh nghiệm
giống như mô tả trước, như là gió xoáy, bão tuyết, mưa đá, xung quanh tối đen
và nhiều người săn đuổi con. Nếu con sắp sanh ra làm một quỷ đói, con sẽ thấy
những thân cây cụt ngọn và những hình dáng màu đen chỉa đầu nhọn lên, những
động và hang cạn và những đụn đất nhỏ màu đen. Nếu con sắp sanh ra làm một
chúng sanh ở địa ngục, con sẽ nghe những chúng sanh có nghiệp ác hát những bài
hát, hoặc con sẽ phải đi vào một cách bất lực, hoặc con sẽ cảm thấy rằng con đã
đi vào một vùng đất tối tăm, với những căn nhà có màu đen màu đỏ, những cái hố
đen và những con đường màu đen. Những người thường xuyên gặp hoàn cảnh gây sân
hận, cần được thanh lọc, có thể dùng loại đá màu đen để giải trừ. Theo thuyết Reki (Linh Khí)
Đá Dravite trong hành Thủy và thuộc vào Kinh
Túc Thiếu Âm Thận, Kinh Túc Thái Dương
Bàng Quang. Kinh Túc Thiếu âm Thận liên quan các chứng ở hệ
sinh dục, tiết niệu, ruột, họng, ngực. Ví dụ như huyệt Chiếu hải (huyệt giao
hội của kinh thiếu âm thận với mạch âm kiểu) có tác dụng liên quan đến đau sưng mắt
cá trong, kinh nguyệt không đều, táo bón, đau bụng do thoát vị, ngứa sinh dục
ngoài, khô họng; huyệt Phục lưu
(huyệt kinh thuộc kim) có tác dụng liên quan đến liệt cơ, teo cơ, lạnh cẳng chân, tiểu
rắt, lưỡi khô, mồm khô, sôi bụng, phù thũng, ra mồ hôi trộm, cảm không có mồ
hôi và mạch yếu nhỏ; huyệt Giao tín
(huyệt khích của mạch âm kiểu) có tác dụng liên quan đến kinh nguyệt không đều, băng huyết, sa dạ con, tinh hoàn
sưng đau, tiêu chảy, bí tiểu; huyệt
Trúc tân (huyệt khích của mạch âm duy) có tác dụng liên quan đến đau mặt trong
cẳng chân, điên cuồng. Kinh
Túc Thái Dương Bàng Quang liên quan đến bệnh ở mắt, mũi, đầu, gáy, thắt
lưng, hậu môn, não, sôt, bệnh các tạng phủ (dùng các huyệt Du sau lưng). Ví dụ như huyệt Tâm Du (Huyệt Du của
Tâm) có tác
dụng liên quan đến tim đập mạnh, hồi hộp,
hoảng hốt, hay quên, trẻ em chậm nói, ho ra máu, ho lao, nôn, nuốt khó, động
kinh; huyệt Đốc Du có tác dụng liên quan đến
đau lưng trên, cứng gáy, vẹo cổ, vùng tim, nấc; huyệt Cách Du (Huyệt Hội của Huyết) có tác dụng liên quan đến đau thắt
lưng, nấc, kém ăn, sốt không có mồ hôi,ra mồ hôi trộm, ra nhiều mồ hôi, huyết
hư, huyết nhiệt, ho lao; huyệt Can Du
(Huyệt Du của Can) có tác dụng liên quan đến đau lưng, đau cột sống, hoa mắt, sưng
đau mắt, mắt có màng, chảy máu mũi, ho kèm đau tức ngực, ho do tích tụ, hoàng đản,
cuồng. Ví dụ như huyệt Thận Du
(Huyệt Du của Thận) có tác dụng liên quan đến Đau lưng, đầu váng, ù tai, hoa mắt, liệt
dương, di mộng tinh, tiểu đục, tiểu ra máu, tiểu dầm, các bệnh kinh nguyệt, khí
hư, phù thũng; huyệt
Khí Hải Du có tác dụng liên quan đến đau lưng, kinh nguyệt không đều, rong
kinh cơ năng; huyệt Đại Trường Du
(Huyệt Du của Đại trường) có tác dụng liên
quan đến đau bụng, cứng lưng, không cúi ưỡn được, bại liệt chi dưới, sôi
bụng, chướng bụng, đau quanh rốn, tiêu chảy, táo bón, kiết lỵ; huyệt Quan Nguyên Du có tác dụng liên
quan đến đau lưng, đầy bụng, tiêu chảy; huyệt Tiểu Trường Du (Huyệt Du của Tiểu trường) có tác dụng liên
quan đến trĩ, di tinh, tiểu ra máu, tiểu
dầm, tiểu dắt, tiểu buốt, đau tức bụng dưới, kiết lỵ; huyệt Bàng Quang Du (Huyệt Du của Bàng
quang) có
tác dụng liên quan đến đau vùng xương cùng, đau lưng, đau sưng đường
sinh dục ngoài, tiểu đỏ, tiểu dầm, đau bụng, tiêu chảy, táo bón.Theo thuyết Can Chi
Tứ Trụ, đá ngọc thuộc mệnh Thủy rất hạp với mệnh Mộc sinh vào ngày xuân,được
nguyệt lệnh mà phần lớn là thân mạnh,vì vừa qua mùa đông lạnh,có chút lạnh
lẽo,mượn Hỏa sưởi ấm cơ thể tự do phát triển vươn xa,có Thủy nuôi dưỡng sẽ sinh
trưởng nhanh. Mộc sinh vào cuối xuân,do thời tiết đã ấm,dương khí đã vượng
thịnh,cần nhiều Thủy hơn để điều hòa nếu không sẽ vì thiếu Thủy mà thành khô
héo. Tóm lại, Mộc mùa xuân tốt nhất nên có Thủy,Hỏa đến điều hòa mới phát triển
tốt.Nếu lực của Thủy vừa phải,Mộc có thể duy trì cân bằng,sẽ được tài phú. Thuyết
Hoa Giáp cho rằng Dravite thuộc về Thủy (Đen và
Tím) phối Kim (Cong và Tròn), tức Thủy Cục. Do đó, Dravite
giúp
khắc chế các bản mệnh Kim – Mộc như Giáp Thân, Ất Dậu, Canh Dần, Tân Mão, vì
vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Dravite
cũng
phù trợ cho các bản mệnh thuộc Mộc (Thủy sinh Mộc), gồm có mệnh thuộc Thủy Mộc
và thuần Mộc: Giáp Tý, Ất Hợi, Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Dần, Ất Mão, các bản
mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại ngọc này. Thuyết Khí Tiết nói, người có mệnh cục Mộc (sinh vào ngày Giáp-Ất, Dần Mão)
gặp vào những ngày thuộc hành Kim (như các ngày Canh-Tân, Thân-Dậu) và những
tháng hành Kim (như tháng bảy, tháng tám) thì bởi Kim khắc Mộc, sinh ra bệnh ở
gan và mật. Bên trong, biểu hiện ở bệnh lương tinh, lao phổi, thổ huyết,
đau đầu, suyễn, trúng phong, phù nề tê liệt, chứng phong, đau gân cốt.
Bên ngoài biểu hiện da khô, đau mắt, chân tay run rẩy... Sách mệnh lý nói: gân
cốt đau nhức, là do Mộc bị Kim thương hại, phải lấy Thủy giải độc, Dravite
thuộc Thủy, có tác dụng tốt cho
thể trạng người Mộc Cục (Thủy sinh Mộc), nhất là vào những ngày hay tháng Kim
thịnh (Canh-Tân, Thân-Dậu) và các tháng hành Kim như tháng bảy, tháng tám. Người
đeo đá Dravite, có thể dùng
Thủy khắc chế được Kim hại. Dựa trên thuyết Orthotherapy và công
thức cấu tạo của đá Dravite (Na(Mg3)Al6(Si6O18)(BO3)3(OH)3(OH)) gồm: Nguyên tố Sodium (Na) có số hiệu nguyên tử là 11, tỉ trọng trong cơ thể là
0.15 đạt khối lượng trung bình 0.1kg chiếm tỷ lệ nguyên tố là 0.037%. Tác động
vừa tích cực do Natri là thành phần chủ chốt trong các xung thần kinh nơ ron,
và các búi cơ trong cơ thể. Tác dụng lên các bệnh về cơ khớp, và các bệnh về thần
kinh hoặc tâm lý. Các ion Na đóng vai trò quan trọng trong nhiều quá trình sinh
lý của cơ thể. Nguyên tố Magnesium (Mg) có số hiệu nguyên tử là 12, chiếm tỉ trọng
cơ thể là 500x10-4 và khối lượng trung bình 0.019kg đạt tỷ lệ nguyên
tố là 0.007% trong cơ thể người. Tác động vừa tích cực cho sức khỏe do
Magnesium là nguyên tố chủ đạo của xương và phần cứng trong cơ thể. Tác dụng
lên hệ xương, chiều cao, sự vận động và phục hồi xương. Được coi là có tác dụng
tốt cho chứng gãy xương, hay tăng chiều cao ở trẻ em. Được sử dụng nhiều cho
các vận động viên, hoặc các ngành nghề cơ bắp. Nguyên tố Boron (B) số hiệu
nguyên tử là 5, tỉ trọng cơ thể là 690×10-7, khối lượng trung bình
0.000018kg, tỷ lệ nguyên tố là 0.000003% trong không khí, Các hợp chất bo được
sử dụng như thành phần trong các màng thấm đường, phần tử nhạy cacbonhiđrat và
tiếp hợp sinh học. Các ứng dụng sinh học được nghiên cứu bao gồm liệu pháp giữ
nơtron bằng bo và phân phối thuốc trong cơ thể. Các hợp chất khác của bo có hứa
hẹn trong điều trị bệnh viêm khớp, Ung thư.. Nguyên tố Oxygen (O) có số nguyên
tử là 8, chiếm tỉ trọng trong cơ thể người là 0.65. Thành phần của nguyên tố
này trong cơ thể trung bình là 43kg chiếm tỷ lệ là 24%. Tác động đến sức khỏe
và sự sống của hầu hết các loài động thực vật trên thế giới. Dựa
trên công thức hóa học của đá Dravite, theo thuyết Hài Hòa Bộ Tám loại
đá này mang yếu tố Primius với nguyên tố chủ đạo là nguyên tố Đất, vì vậy tác động
lên hệ cơ bắp, búi cơ tay chân, cơ hoành, da răng và các lông tóc bên ngoài. Có
tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến các yếu tố tóc, lông và cơ
như chứng rụng tóc, đau răng, bị da liễu, hoặc các chứng liên quan đến cơ như
chuột rút, teo cơ, phù thủng... Ngoài ra còn tăng cường vật chất và sở hữu, đặc
biệt là sự đột phá, cấp tiến, cách mạng, cải biên xã hội, đẩy mạnh tự do, bất cần,
vô chính phủ... nhấn mạnh đến yếu tố sở hữu. Về mặt tinh thần, loại đá này được
cho là không trấn giữ cung nào theo Chiêm Tinh Cổ, nhưng trấn giữ vị trí con rồng
(Dragons), ở hai vị trí đầu rồng và đuôi rồng, Chiêm tinh gọi là Caput Draconis
và Cauda Draconis, tiếng Việt hay dịch là La Hầu và Kế Đô. Không có quan niệm
chính thức cho hai vị trí này. Thông thường, người ta coi nó là đại diện cho
tính tốt và xấu trong mỗi con người. Vì vậy, nó thúc đẩy các mối quan hệ về con
người và bản chất con người. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố này bảo
trợ về không gian và thời gian nói chung. Dành cho những người làm trong lĩnh vực
liên quan đến các không gian và thời gian như người làm đồng hồ, những người
rung chuông, gác cổng, những người canh giờ tàu hỏa,... hoặc những người cảnh
báo tư tưởng (gọi là những người tiền vệ - avantgarde). Thuyết Bát Quái Kinh Dịch dựa vào hình thái tinh hệ của
tinh thể gồm tám loại, được phân định thành tám quái thuộc nội quái trong kinh
dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập Phương (cubic - isometric) ứng Càn , Tứ
Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam Phương (rhombohedral) ứng Ly, Lục
Phương (hexagonal - trigonal) ứng Đoài, Tam Tà (triclinic) ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic)
ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic) ứng Tốn, Phi Tinh (noncrystallinic) ứng Khôn.
Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng khác: Lập Phương ứng Càn, Tam Tà ứng
Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn, Tam Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng
Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở đây chỉ trình bày thuyết của Thông
Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm tám màu, ứng với tám quái thuộc ngoại
quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính, đều nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ
nhất được trình bày trong I-ching: Binary Numbers, Astrology, And Chakras, dựa
trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng, Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng
lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ, Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do
D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành ứng bát quái cho rằng: Càn ứng dương,
Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn ứng cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn
ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề xuất dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng,
Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam, Cấn ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng,
Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại
quái tương ứng với hình dạng và màu sắc của tinh thể, từ đó tính ra được quái
trong 64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại ứng một bộ phận cơ thể theo y
lý trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể. Đá Dravite
có màu đen tương ứng quẻ ngoại
quái Khôn, có tinh hệ Lục Phương tương ứng quẻ nội quái Đoài, ghép lại chính là
quẻ quái số
19: quẻ Địa Trạch Lâm. Quái số 19 ứng với
vị trí mu trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên
quan đến cơ quan sinh dục như rận mu, nấm, viêm da
tiếp xúc, viêm nhiễm cơ quan sinh dục, viêm nan lông,…. Quẻ Địa
Trạch Lâm có nghĩa là Lâm
là tiến lên mà lấn sát, đến một vật gì. Hai khí Dương đương lớn, dần dần lấn bức
khí Âm. Hai khí Dương đương lớn lên ở dưới, là lúc Dương đạo sắp thịnh, thánh
nhân răn sần mà rằng: “Khí Dương tuy đương thịnh, đến tám tháng thì nó tiêu đi,
ấy là có hung”. Đại để thánh nhân răn là tự lúc đương thịnh mà lo rằng suy, thì
mới có thể ngăn ngừa sự quá đầy mà mưu tính cuộc lâu dài, người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy. Nơi tìm thấy đá: Dravite
có thể được tìm thấy ở Essquibo
Region (Guyana), Inner Mongolia (China), Alaska (USA),...
Lời cảm ơn:
bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến sĩ
Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu tập
Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng
Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments