Ferrinatrite


Ferrinatrite


Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị Liệu, Thạch Học Trị Liệu dịch từ chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ. Lithotherapy phân thành Litho đến từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá, therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ] tức là chữa trị, lithotherapy tức là chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với đá ở ngoài da. Lithotherapy là một môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận huyền học và thần bí học. Mặc dù có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả năng của nó, đã được ứng dụng từ lâu trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại, nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức màn bí mật của những điều thần kỳ giống như nền Đông Y của người Trung Quốc hay Nam Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc biệt trình bày về những lý luận căn bản trong Thạch Lý Học đối với Ferrinatrite, nằm trong chuỗi khảo cứu, viết riêng cho tuần báo UNESCO.

Giới thiệu về đá Ferrinatrite

Giới thiệu về các thuyết: Giá trị thạch lý học của Ferrinatrite được trình bày thành các thuyết cơ bản: thuyết Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học (Chromotherapy), thuyết Linh Khí (Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves), thuyết Thái Lặc Mã (Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết Hoa Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié). Thuyết bản mệnh Phương Đông người ta căn cứ vào địa chi của tháng sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần, tháng 2 là Mão, tháng 3 là Thìn, tháng 4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi, tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu, tháng 9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu, cùng phối hợp với ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng dùng đá có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ thuộc Hỏa (ứng dùng đá có tông màu cam đỏ hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có tông màu trắng, xám, ánh bạc), Tý Hợi thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu đen, chàm, tím), Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ (ứng dùng đá có tông màu vàng, trong, ánh kim). Và theo đó, Thuyết Bản Mệnh phương đông xếp loại đá này vào năm Giáp Thân, thuộc Mộc Cục, về Thân Phần. Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Giáp Thân sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu trắng, thuộc về hành Kim, ứng về tháng Thân và Dậu, tức tháng 7 và 8. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo tháng như sau: tháng một màu đỏ cam, tháng hai màu tím tươi, tháng ba màu xanh lam, tháng tư màu trắng trong, tháng năm màu lục đen, tháng sáu màu trắng đục, tháng bảy màu đỏ tươi, tháng tám màu xanh chuối, tháng chín màu xanh lá, tháng mười màu đen, tháng mười một màu vàng, tháng mười hai màu chàm. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo hoàng đạo như sau: Bạch Dương màu xanh đen, Kim Ngưu màu xanh dương đậm, Song Tử màu trắng trong, Cự Giải màu xanh lá mạ, Sư Tử màu đen, Xử Nữ màu cam, Thiên Bình màu lục nhạt, Thiên Yết màu lam, Nhân Mã màu vàng, Ma Kết màu đỏ tươi, Bảo Bình màu đỏ sậm, Song Ngư màu tím. Đá này màu trắng trong được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng tư, mùa hạ và xếp vào đá bản mệnh của cung Song Tử, thuộc hệ Khí. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 21 tháng 5 đến 21 tháng 6 hằng năm, hoặc vào tháng 6 thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này. Theo thuyết Quang Lý học thì đá Ferrinatrite có trắng. Ý nghĩa của màu sắc này được biểu hiện ở các nên văn hóa khác nhau. Là một trong những màu đầu tiên được sử dụng trong nghệ thuật. Hang động Lascaux ở Pháp bảo tồn những bức tranh tường với hình ảnh những chú bò đực và các động vật khác được vẽ bởi các nghệ sĩ thời kỳ đồ đá cách đây 18000 – 17000 năm. Họ đã sử dụng Calcite và đá vôi. Đôi khi nó được dùng làm nền, đôi khi thì làm điểm nhấn. Cùng với than củi, màu đỏ và màu vàng trong những bức tranh làm cho chúng sinh động hơn rất nhiều. Ở Ai Cập cổ, màu trắng được kết nối với thần Isis. Các nữ tu và thầy tế của đền thờ Isis chỉ được mặc đồ bằng vải lanh trắng, và nó cũng được sử dụng để bọc xác ướp. Ở Hy Lạp và các thành phố khác thì màu trắng tượng trưng cho sữa mẹ. Trong thần thoại Hy Lạp, thần Zues đã nược nuôi nấng bằng sữa của những nữ thần sông Amalthea. Trong Talmud, sữa là một trong 4 chất thánh cùng với rượu vang, mật ong và hoa hồng. Ở Roma, các nữ tu của nữ thần Vesta mặc áo choàng lanh trắng, áo phong hoặc áo khăn choàng trắng. Họ bảo vệ cho ngọn lửa thiên và những vị giáo sĩ của thành Rome. Màu trắng đại diện cho sự thanh khiết, trung thành và trinh tiết của họ. Nhà thờ Cơ Đốc giáo La Mã đã chọn màu trắng là màu của sự tinh khiết, sự hy sinh mà đức hạnh. Con kỳ lân trắng là một chủ đề phổ biến của bản thảo lịch sử, các bức tranh và thảm trang trí. Đó là một biểu tượng của sự thanh khiết, trinh khiết và ân sủng, chỉ có thể bị bắt bởi một trinh nữ. Nó thường được miêu tả trong lòng của Đức Trinh Nữ Maria. Màu Trắng Trong đại diện cho sự điều hòa và cân bằng. Loại đá này tăng cường sự trầm tĩnh, cân bằng trong tâm hồn. Nó được tin là có tác dụng thanh lọc, thanh tẩy tinh thần. Loại đá này dành cho những người bị trầm cảm, áp lực hoặc nhiều tâm sự. Nó cũng dành chủ yếu cho nhũng người làm việc trí óc như nhân viên văn phòng, nhân viên kế toán hay các ngành nghề viết lách như nhà văn hay báo chí. Keter hay còn được gọi là Kether, là một trong những nút Sephirot quan trọng nhất  của Cây Sự Sống. Nó được hiểu như  “Vương Miện”; có bậc và vị trí cao nhất các Sephirot. Nó nằm giữa Chokmah với Binah (với Chokmah bên phải và Binah bên trái) và nằm bên trên Tiphereth. Từ nó có 3 đường dẫn đến 3 Sephirot khác là Chokmah, Tephereth và Binah. Keter rất tuyệt vời, nó được gọi là Zohar – “Thứ bí ẩn nhất trong các thứ bí ẩn” và con người không thể nào hiểu được nó. Nó thường được miêu tả là sự độ lượng vô biên. Rabbi Moshe Cordovero miêu tả nó như là 13 thuộc tính siêu vượt của đạo đức. Sepharah đầu tiên này đại diện cho những ý nghĩ hành động nguyên sơ trong nhận thức của Ein Soph hoặc là sự kích thích của mong muốn đi khám phá thế giới muôn dạng. Nhưng theo nghĩa  này, mặc dù nó bao hàm tất cả các nội hàm về niềm vui  nhưng nó lại không tự mang niềm vui, nó được gọi là “Nothing – Không gì cả”, “The Hidden Light – Ánh sáng bí ẩn”, “The air that cannot be grasped – Không khí không thê nắm bắt”. Mong muốn mang vào thế giới hoàn hảo, Keter là sự độ lượng vô biên. Tên của vị thần gắng kết với Keter là Ehyeh Asher Ehyeh, cái tên mà thông qua đó Ngài tiết lộ bản thân mình với Moses trong bụi cỏ cháy. Cái tên Ehyeh này là nguồn gốc của các loại đồ ăn, những thứ vô hạn. Thông qua thảo luận trong một dòng của Michah, 13 thuộc tính liên kết với Keter Sephirah:“Ai là đức Chúa trời như Ngài, là Đấng tha thứ tội lỗi, cứu rỗi cho loài người? Ngài không giữ sự giận dữ của Người mãi mãi, Ngài mang đến sự vui vẻ, lòng thương xót cho chúng ta. Ngài sẽ mang tội lỗi của chúng ta đổ xuống đáy biển. Hãy tỏ lòng thành kính với Ya’akov, lòng tử tế với Avraham, điều mà Đấng đã thệ ước với tổ phụ chúng ta từ những ngày xa xưa”. Trong Mystical Qabalah Dion Fortune mô tả Keter như một ý thức thuần túy, vượt khỏi mọi sự phân loại, vượt thời gian, một điểm nằm ngoài Ein Soph, và bắt đầu cho quá trình kết thúc ở Malkuth.Tên của Thiên Chúa được ban cho là Eheieh, thiên thần bảo trợ  nó là Metatron, thiên thần của trật tự, trong đó là các sinh vật Thánh cư ngụ (Chaioth ha Qadesh, Hebrew: חיות הקדש) và chakra của nó được nói là Swirlings đầu tiên của vũ trụ (Primum Mobile, Rashith ha Gilgalin). AE Waite đề cập đến Rabbi Azariel ben Menachem, một học sinh của Isaac the Blind, trong cuốn Commentary của ông nói về Sephiroth đã cho đặt màu sắc đặc biệt cho mỗi Sephira, nhưng nó không đồng quan điểm với màu sắc được đưa ra trong Zohar, nơi mà Kether (mà theo với anh ta, cũng tương quan với Yechidah) được cho là không có màu, Tiphareth màu tím, và Malkuth xanh sapphire. Keter cũng được xác định với các hành tinh Neptune hoặc Pluto, Atma trong Theosophy và Raja Yoga, và Khabs am Pek trong Ai cập thần bí. Thuyết Chakra cho rằng loại đá này thuộc Chakra Sahara ( tiếng Phạn सहस्रार , IAST : Sahasrāra , tiếng Anh: "nghìn cánh hoa") hoặc chakra đỉnh đầu thường được coi là chakra nguyên thủy thứ bảy, theo hầu hết các tantric (hệ thống) yoga truyền thống. Sahasrara được mô tả như một hoa sen với 1.000 cánh hoa màu khác nhau. Những cánh hoa này được bố trí trong 20 lớp, mỗi lớp với khoảng 50 cánh hoa. Phần vỏ quả màu vàng và bên trong vùng mặt trăng tròn là tam giác màu sáng có thể hướng lên hoặc hướng xuống. Trong phối hợp một số các chakra, trên thực tế có rất nhiều chakra tất cả chúng đều liên kết chặt chẽ với nhau, ở tại đỉnh đầu. Xuất phát từ Ajna (chakra  vùng trán), chúng ta có Manas (tư lương thức) chakra trên trán nó liên kết chặt chẽ với Ajna. Trên Manas có Bindu Visarga ở phía sau đầu; Mahanada; Nirvana nằm ở đỉnh đầu. Guru, và Sahasrara riêng biệt nằm phía trên của đỉnh đầu. Bindu Visarga nằm ở phía sau đầu, nơi mà nhiều người Bà la môn giữ một bó tóc ở đó. Nó được tượng trưng bởi một mặt trăng lưỡi liềm trên một đêm trăng sáng, với một chấm hoặc điểm nhỏ phía trên. Đó được gọi là bindu trắng, cái mà những người yoga cố gắng hợp nhất với binbu đỏ ở bên dưới. Nó được gọi là điểm mà qua đó linh hồn đi vào cơ thể, tạo ra các chakra khi nó hạ xuống và chấm dứt trong luồng năng lượng hỏa xà kundalini hình xoắn ở chân cột sống. Nó  gồm có một vòng tròn như mặt trăng, trong đó là một tam giác hướng xuống có chứa một bàn thờ bằng đá quý, với trăng lưỡi liềm phía dưới và chấm tròn ở trên. Bên trong chấm tròn là một chổ ngồi, gần đó là gurus, ở trên đó là những bước chân guru. Vị trí này được coi là rất quan trọng trong thực hành mật ngữ Tây Tạng của tinh thần yoga, nơi mà vị đạo sư hay vị thần thường được hình dung như thấy được hào quang rên đầu, ban phước lành cho bên dưới (ví dụ trong thiền Vajrasattva). Trong Sahasrara, vẫn còn nhiều cấp độ của những liên kết. Trong tam giác bắt đầu một loạt các mức độ ý thức cao hơn: Ama-Kala (Ama-kala là trãi nghiệm của thiền định.), the First Ring of Visarga (Visarga được biểu tượng bằng hai vòng tròn nhỏ, một trong số đó nằm trong Ama-Kala, và cái kia nằm dưới Supreme Bindu, tượng trưng cho sự chuyển tiếp từ samprajnata samadhi (samadhi với tâm thức) sang tính nhất quán của asamprajnata samadhi (samadhi không tâm thức).), Nirvana-Kala (Ở đây Kundalini hấp thụ trải nghiệm của samadhi, thông qua sức mạnh của khả năng kiểm soát tối cao (Nirodhika-Fire).), và Nirvana Shakti (Ở đây Kundalini đi vào khoảng trống tối cao, nơi được gọi là trải nghiệm của asamprajnata hay nirvikalpa samadhi, và trở thành Shankhini. Shankhini quấn lấy và hấp thụ Bindu tối cao vào khoảng trống đó; sau đó là Nada Tối Cao; rồi Shakti; và sau đó hợp nhất và hấp thụ Sakala Shiva; trước khi hấp thụ Parama Shiva cuối cùng,  giai đoạn cuối cùng của niết bàn (nirvikalpa samadhi)), bên trong còn có the Second Ring of Visarga. Từ đây, Kundalini trở thành Shankhini, với 3,5 vòng xoắn. Vòng xoắn thứ nhất của Shankhini quấn quanh Bindu tối cao, Vòng xoắn thứ hai của Shankhini quấn quanh Nada tối cao, vòng xoắn thứ ba của Shankhini quấn quanh Shakti, và nửa vòng xoắn của Shankhini đi vào Sakala Shiva, ra khỏi vị trí đó được gọi là Parama Shiva. Sahasrara liên quan tới đỉnh của đầu. Nó thường liên kết với thóp và chổ cắt nhau của xương trán và dãy liên kết ở giữa của hộp sọ. Các nguồn khác nhau cho rằng nó liên kết nó với tuyến tùng, hypothalamus (vùng não điều khiển thân nhiệt) hoặc tuyến yên, mặc dù chúng thường được đưa ra như là vị trí của Chakra Ajña. Vòng hào quang rất quan trọng trong truyền thống Tantra Anuttarayoga của Kim Cương Thừa. Nó có hình tam giác, với 32 cánh hoa hoặc các kênh hướng xuống dưới, và trong đó chứa những giọt màu trắng hoặc bodhicitta (bồ đề tâm) trắng. Thông qua thiền định, những người nghiên cứu yoga cố gắng liên kết giọt trắng này với bồ đề tâm đỏ ở rốn, và để trải nghiệm sự kết hợp của thiếu thốn và hạnh phúc. Điều rất quan trọng trong Tantric (hệ thống) thực hành của Phowa, hoặc chuyển đổi ý thức. Vào lúc chết, một người học yoga có thể hướng tâm thức của mình lên trung tâm và ra khỏi vòng xoay này để được tái sinh trong Tịnh Độ, nơi mà anh ta có thể thực hiện các tantric (hệ thống) hành động của mình, hoặc chuyển ý thức đó vào thân thể khác hoặc xác chết , để kéo dài cuộc sống. Ở phương Tây, nó đã được nhiều người ghi nhận (như Charles Ponce trong cuốn sách Kabbalah của ông) rằng Sahasrara thể hiện một ý tưởng nguyên thủy tương tự như ý tưởng của Kether, trong Cây Sự Sống (Kabbalistic Tree of Life), nằm ở đầu cây, và thể hiện ý thức thuần túy và hiệp nhất với Thần linh. Trong hệ thống Sufi của Lataif-e-sitta có một Lataif gọi là Akhfa, "bí ẩn tinh tế nhất ", cái nằm trên đỉnh đầu. Đó là điểm hiệp nhất nơi thấy được phúc lành của Thánh A-La biểu lộ ra trực tiếp. Đá Ferrinatrite có màu trắng, là bổn sắc của Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairochana). Ngài là sự chuyển hóa của vô minh thành trí huệ. Màu trắng đại diện cho thanh tịnh tướng ứng với mắt. Đeo Ferrinatrite sẽ được Tỳ Lô Giá Na Như Lai Phật hộ trì, hỗ trợ về mắt và sự tinh anh. Vì đây cũng là màu của cõi trời, đá Ferrinatrite được coi là bùa hộ về sắc dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về sắc dục. Tử Thư nói về màu trắng như sau:  Phật Tỳ Lô Giá Na hiện thân ở dạng có bốn mặt cùng lúc nhận biết tất cả các phương hướng. Ngài có màu trắng bởi vì sự nhận biết đó không cần sự pha màu nào cả, đích thị là màu chánh gốc, màu trắng. Ngài đang cầm một bánh xe có tám nan hoa, nó thể hiện sự vượt lên trên mọi nhận thức về phương hướng và thời gian. Toàn bộ sự biểu tượng hóa Ngài Phật Tỳ Lô Giá Na thể hiện khái niệm của cái thấy không gian toàn cảnh cùng khắp; cả hai: trung tâm và chu vi đều có khắp nơi. Đó là sự mở toang trọn vẹn của thức, siêu việt khỏi thức uẩn. Vượt lên trên sắc uẩn là những tia sáng có hình như cái gương, màu trắng, lấp lánh, rõ từng chi tiết, chiếu ra từ tim của Phật Kim Cương Tát Đỏa. Phật Mẫu mặc áo choàng trắng – liên tưởng đến sự hình tượng hóa câu chuyện thần thoại Ấn Độ về loại quần áo được dệt bằng sợi làm bằng đá, chỉ được tẩy sạch bằng lửa. Phật Mẫu Pandaravasini thể hiện bản chất của lửa là tiêu hủy mọi thứ và cũng là kết quả của quá trình tiêu hủy, sự tịnh hóa, lòng đại bi vẹn toàn. Tiến trình trọn vẹn của trí đại bi có ánh sáng và nhịp điệu, nó có trí huệ sâu sắc và sự hiệu quả sắc nét, và nó có bản chất tịnh hóa của vị Phật Mẫu Gita mang áo choàng trắng cũng như bản chất soi sáng đến vô tận của Phật A Di Đà. Vị gauri áo trắng nhảy múa quanh một tử thi, bà muốn dập tắt tiến trình các niệm, cho nên bà ta cầm một tích trượng làm bằng thi thể một đứa bé. Thông thường, một thi thể tượng trưng trạng thái vô ký căn bản của chúng sanh; một thi thể đã không còn sống là một thể không còn những niệm được khởi lên nữa, chẳng có niệm thiện, niệm ác – đó là trạng thái bất nhị của tâm. Cùng lúc, có ánh sáng trắng êm dịu của chư thiên cũng sẽ hướng về con. Vào ngày thứ hai, một ánh sáng trắng, thành phần tinh khiết của nước sẽ chiếu sáng. Ánh sáng trắng của sắc uẩn trong tánh thanh tịnh căn bản của nó là Đại Viên Cảnh Trí (trí huệ giống như cái gương), thứ ánh sáng trắng chói chang, quang minh, trong suốt, từ tim của Phật Kim Cương Tát Đỏa. Pháp giới thể tánh trí, đó là một tấm vải đan bằng các tia ánh sáng trắng quang minh, rực rỡ đáng kinh ngạc, từ tim của đức Phật Tỳ Lô Giá Na. Pháp giới thể tánh trí, đó là một tấm vải đan bằng các tia ánh sáng trắng quang minh, rực rỡ đáng kinh ngạc, từ tim của đức Phật Tỳ Lô Giá Na. Đá Ferrinatrite trong hành Thổ và thuộc vào Kinh Túc Thái Âm Tỳ, Kinh Túc Dương Minh Vị. Kinh Túc Thái Âm Tỳ liên quan đến các triệu chứng người ê ẩm, nặng nề, da vàng, lưỡi cứng đau, mặt trong chi dưới phù, cơ ở chân ở tay teo, bụng trên đau, bụng đầy, ăn không tiêu, nôn, nuốt khó, vùng tâm vị đau cấp, tiêu chảy, tiểu không lợi, ở dạ dày, ruột, hệ sinh dục, tiết niệu. Ví dụ như huyệt Lậu Cốc liên quan đến đau cẳng chân, cẳng chân lạnh và tê, đầy bụng, sôi bụng. Địa Cơ (Huyệt Khích) liên quan đến tức bụng, căng tức sườn, không muốn ăn, đau lưng, tiểu khó, di mộng tinh, trưng hà, kinh nguyệt không đều. Âm Lăng Tuyền (Huyệt Hợp thuộc Thủy) liên quan đến đau sưng gối, đau chân, lạnh trong bụng, không muốn ăn, sườn ngực căng tức, bụng có nước, di tinh, đau dương vật, tiểu không tự chủ, tiểu khó, tiểu dầm. Huyết Hải liên quan đến đau mé trong đùi, kinh nguyệt không đều, rong kinh, mẩn ngứa, dị ứng. Cơ Môn liên quan đến đau, sưng hạch bẹn, bí tiểu, tiểu dầm. Kinh Túc Dương Minh Vị liên quan đến các triệu chứng mũi chảy máu, miệng môi mọc mụn, họng đau, cổ sưng, mồm méo, ngực đau, chân sưng đau hoặc teo lạnh; tà khí thịnh; sốt cao, ra mồ hôi có thể phát cuồng, ăn nhiều, tiểu vàng, bồn chồn có thể phát cuồng, đầy bụng, ăn ít, bệnh ở đầu, mặt, mũi, răng, họng. Bệnh ở não, dạ dày, ruột, sốt cao. Ví dụ như huyệt Ốc Ế liên quan đến đau vú, ho, suyễn, ngực sườn đầy tức. Ưng Song liên quan đến đau vú, ho, suyễn, ngực sườn đau tức. Nhũ Căn liên quan đến đau vú, ít sữa, ho suyễn, đau ngực. Bất Dung Đầy bụng, nôn mữa, đau dạ dày, kém ăn, nôn ra máu, đau vùng tim. Thừa Mãn đầy bụng, sôi bụng, đau dạ dày, nôn mửa, kém ăn, vàng da, nôn ra máu, iả chảy. Lương Môn đau dạ dày, đau vùng thượng vị, nôn mửa, kém ăn , tiêu chảy. Quan Môn sôi bụng, tiêu chảy, kém ăn, phù thủng, đau thượng vị, đầy bụng. Thái Ất đau dạ dày, tiêu hóa kém, điên cuồng, bứt rứt không yên. Hoạt Nhục Môn đau dạ dày, nôn mửa, điên cuồng. Theo thuyết Can Chi Tứ Trụ, đá ngọc thuộc mệnh Thổ rất hạp với mệnh Mộc sinh mùa thu,thông thường không được sự trợ giúp của nguyệt lệnh,Kim nặng quay quanh,phần lớn thuộc thân yếu. Nếu là Mộc mùa suy yếu,ưa được Thổ dưỡng, tương trợ. Đá ngọc thuộc mệnh Thổ cũng rất hạp với mệnh Thổ sinh mùa đông. Mùa đông, bên ngoài lạnh, bên trong ấm. Nếu có Thổ với lực lượng lớn phù trợ thì có thể được khỏe mạnh, trường thọ. Đá ngọc thuộc mệnh Thổ cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa xuân. Mùa xuân, do vừa qua mùa đông vẫn còn chút khí lạnh, do đó Kim cần Hỏa sưởi ấm mới có thể loại bỏ khí lạnh mà được phú quý. Kim sinh vào mùa xuân sẽ khá yếu mềm, do đó cần có Thổ sinh trợ, nhưng không ưa Thủy quá vượng, Thủy sẽ tăng thêm khí lạnh, làm cho Kim không thể tái hiện được khí thế của nó. Đá ngọc thuộc mệnh Thổ rất hạp với mệnh Kim sinh mùa đông. Kim của mùa đong có tính chất hàn lạnh, nếu Mộc nhiều cũng không thể điêu khắc mà tái hiện công hiệu của Kim. Thổ có thể khắc Thủy, làm cho Kim không chịu ảnh hưởng của hàn lạnh, mà Hỏa có thể sinh trợ Thổ, Thổ có thể sinh trợ Kim, Thổ Kim là mẹ con tương sinh, có thể thành công. Thuyết Ngũ Hành Can Chi cho rằng Ferrinatrite thuộc về Thổ (Vàng và Trong) phối Hỏa (Góc và Nhọn), tức Thổ Cục. Do đó, Ferrinatrite giúp khắc chế các bản mệnh Kim – Hỏa như Bính Thân, Đinh Dậu, Canh Ngọ, Tân Tỵ, vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Ferrinatrite cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Kim (Thổ sinh Kim), gồm có mệnh thuộc Thổ Kim và thuần Kim: Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Thìn, Canh Tuất, Tân Mùi, Tân Sửu, Canh Thân, Tân Dậu, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại ngọc này. Thuyết Ngũ Hành Khí Tiết nói, người có mệnh cục Kim (sinh vào ngày Canh-Tân, Thân-Dậu) gặp vào những ngày thuộc hành Hỏa (như các ngày Bính-Đinh, Tỵ-Ngọ) thì, bởi Kim khắc Hỏa, nên đại tràng, phổi dễ sinh bệnh, biểu hiện ở hay ho, đọng đàm, đau ruột, bệnh trĩ, tim đập nhanh, dễ hoảng sợ, lo lắng, mắc bệnh lao. Biểu hiện ra ngoài là da khô, mũi đỏ sưng, lưng mụn nhọt ung mủ, da đốm tụ huyết. Sách mệnh lý nói: Kim nhược tại Hỏa Vượng, tất có bệnh về máu huyết. Muốn khắc chế, phải lấy Thổ giải độc, Ferrinatrite thuộc Thổ, có tác dụng tốt với thể trạng người Kim cục (Thổ sinh Kim), đề phòng cho những ngày Hỏa thịnh (Bính-Đinh, Tỵ-Ngọ) hay tháng hành Hỏa như tháng tư và tháng năm. Người đeo đá Ferrinatrite, có thể dùng Thổ khắc chế được Hỏa hại. Dựa trên thuyết Orthotherapy và công thức cấu tạo của đá Ferrinatrite (Na3Fe(SO4)3·3(H2O) gồm: Nguyên tố Sodium (Na) có số hiệu nguyên tử là 11, tỉ trọng trong cơ thể là 0.15 đạt khối lượng trung bình 0.1kg chiếm tỷ lệ nguyên tố là 0.037%. Tác động vừa tích cực do Natri là thành phần chủ chốt trong các xung thần kinh nơ ron, và các búi cơ trong cơ thể. Tác dụng lên các bệnh về cơ khớp, và các bệnh về thần kinh hoặc tâm lý. Các ion Na đóng vai trò quan trọng trong nhiều quá trình sinh lý của cơ thể. Nguyên tố Iron (Fe) chỉ số nguyên tử là 26, trong cơ thể người đạt tỉ trọng là 60*10-4, khối lượng trung bình 0.0042kg chiếm tỷ lệ 0.00067%. Tác động vừa tích cực cho sức khỏe do sắt là nguyên tố chủ đạo trong máu (Hemoglobin, Cytochromes) và vài loại hóc-môn trong cơ thể. Tác dụng lên hệ tuần hoàn, máu huyết. Được coi là có tác dụng tốt trong việc cầm máu, chữa các chứng xuất huyết, và các chứng liên quan đến máu. Nguyên tố Sulfur (S) có nguyên tử khối là 16, tỉ trọng cơ thể là 0.25, khối lượng trung bình 0.14kg, tỷ lệ nguyên tố là 0.038% trong không khí. Tác động tích cực cho sức khỏe do lưu huỳnh là thành phần chủ yếu của cơ bắp của sinh vật. Lưu huỳnh cũng cấu thành nên nhiều chất hóc môn trong cơ thể như Cysteine, Methionine, Biotin, Thiamine.Tác dụng lên cơ bắp, hỗ trợ khả năng vận động, cử động. Được cho là có tác dụng hỗ trợ điều trị thương tích ở cơ và phục hồi cơ. Nguyên tố Oxygen (O) có số nguyên tử là 8, chiếm tỉ trọng trong cơ thể người là 0.65. Thành phần của nguyên tố này trong cơ thể trung bình là 43kg chiếm tỷ lệ là 24%. Tác động đến sức khỏe và sự sống của hầu hết các loài động thực vật trên thế giới. Dựa trên công thức hóa học của đá Ferrinatrite, theo thuyết Hài Hòa Bộ Tám loại đá này mang yếu tố Primius với nguyên tố chủ đạo là nguyên tố Đất, vì vậy tác động lên hệ cơ bắp, búi cơ tay chân, cơ hoành, da răng và các lông tóc bên ngoài. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến các yếu tố tóc, lông và cơ như chứng rụng tóc, đau răng, bị da liễu, hoặc các chứng liên quan đến cơ như chuột rút, teo cơ, phù thủng... Ngoài ra còn tăng cường vật chất và sở hữu, đặc biệt là sự đột phá, cấp tiến, cách mạng, cải biên xã hội, đẩy mạnh tự do, bất cần, vô chính phủ... nhấn mạnh đến yếu tố sở hữu. Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là không trấn giữ cung nào theo Chiêm Tinh Cổ, nhưng trấn giữ vị trí con rồng (Dragons), ở hai vị trí đầu rồng và đuôi rồng, Chiêm tinh gọi là Caput Draconis và Cauda Draconis, tiếng Việt hay dịch là La Hầu và Kế Đô. Không có quan niệm chính thức cho hai vị trí này. Thông thường, người ta coi nó là đại diện cho tính tốt và xấu trong mỗi con người. Vì vậy, nó thúc đẩy các mối quan hệ về con người và bản chất con người. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố này bảo trợ về không gian và thời gian nói chung. Dành cho những người làm trong lĩnh vực liên quan đến các không gian và thời gian như người làm đồng hồ, những người rung chuông, gác cổng, những người canh giờ tàu hỏa,... hoặc những người cảnh báo tư tưởng (gọi là những người tiền vệ - avantgarde). Thuyết Bát Quái Kinh Dịch dựa vào hình thái tinh hệ của tinh thể gồm tám loại, được phân định thành tám quái thuộc nội quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập Phương (cubic - isometric) ứng Càn , Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam Phương (rhombohedral)  ứng Ly, Lục Phương (hexagonal - trigonal) ứng Đoài, Tam Tà (triclinic) ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic) ứng Tốn, Phi Tinh (noncrystallinic) ứng Khôn. Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng khác: Lập Phương ứng Càn, Tam Tà ứng Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn, Tam Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở đây chỉ trình bày thuyết của Thông Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm tám màu, ứng với tám quái thuộc ngoại quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính, đều nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ nhất được trình bày trong I-ching: Binary Numbers, Astrology, And Chakras, dựa trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng, Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ, Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành ứng bát quái cho rằng: Càn ứng dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn ứng cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề xuất dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam, Cấn ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại quái tương ứng với hình dạng và màu sắc của tinh thể, từ đó tính ra được quái trong 64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại ứng một bộ phận cơ thể theo y lý trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể. Đá Ferrinatrite có màu trắng tương ứng quẻ ngoại quái Càn, có tinh hệ Lục Phương tương ứng quẻ nội quái Đoài, ghép lại chính là quẻ quái số 10: quẻ Thiên Trạch Lý. Quái số 10 ứng với vị trí sọ trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên quan đến đỉnh đầu như là do một số bệnh nội khoa gây nên như viêm xoang mũi, đau đầu căng cơ, dị dạng động mạch não, thiếu máu não. Quẻ Thiên Trạch Lý có nghĩa là Lý tức là lễ, lễ là cái mà người ta xéo lên. Nó là quẻ trời trên chầm dưới, trời mà ở trên, chầm mà ở dưới, đó là phận trên dưới, là nghĩa tôn ty, lẽ phải như thế. Lễ là gốc của đạo làm người và là con đường người ta thường thường xéo lên, cho nên mới là quẻ Lý. Về tượng quẻ: Trên là dương cương, là Càn, là trời: dưới là âm nhu, là Đoài, là chằm, vậy là trên dưới phân minh lại hợp lẽ âm dương tức là lễ, là lý. Có tính âm nhu, vui vẻ đi theo sau dương cương thì dù người đi trước mình dữ như cọp, cũng tỏ ra hiền từ với mình, cho nên bảo rằng dẫm lên đuôi cọp mà cọp không cắn. Ba chữ “lý hổ vĩ” chính nghĩa là dẫm lên đuôi cọp, chỉ nên hiểu là đi theo sau cọp, lấy sự nhu thuận, vui vẻ mà ứng phó với sự cương cường. Quẻ Lý là mềm xéo theo cứng. Đẹp lòng mà ứng với trời, thế cho nên xéo đuôi cọp, không cần người, hanh. Dương cương trung chính, xéo ngôi vua mà không mỏi mệt, sáng láng vậy, người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy.

Nơi tìm thấy đá: Ferrinatrite có thể được tìm thấy ở Fergana Region (Uzbekistan), Utah (USA), Tarapaca (Chile),...

Lời cảm ơn: bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến sĩ Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu tập Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).




Reactions

Post a Comment

0 Comments