Johannsenite
Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị Liệu, Thạch
Học Trị Liệu dịch từ chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ.
Lithotherapy phân thành Litho đến từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá,
therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ] tức là chữa trị, lithotherapy tức là
chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với đá ở ngoài da. Lithotherapy là một
môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận huyền học và thần bí học. Mặc dù
có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả năng của nó, đã được ứng dụng từ lâu
trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại, nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức màn
bí mật của những điều thần kỳ giống như nền Đông Y của người Trung Quốc hay Nam
Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc biệt trình bày về những lý luận
căn bản trong Thạch Lý Học đối với Johannsenite, nằm trong chuỗi khảo
cứu, viết riêng cho tuần báo UNESCO.
Giới thiệu về đá Johannsenite
Giới thiệu về các thuyết: Giá trị thạch lý học của Johannsenite được trình bày thành
các thuyết cơ bản: thuyết Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học
(Chromotherapy), thuyết Linh Khí (Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng
Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of
Octaves), thuyết Thái Lặc Mã (Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết
Hoa Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié).
Thuyết Bản Mệnh Phương Đông người ta căn cứ vào địa chi của tháng
sinh, theo như sau: tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý, cùng phối hợp với ngũ hành
của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Tý Hợi thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông
màu đen, chàm, tím). Và theo đó, Thuyết Bản Mệnh phương đông xếp loại đá này
vào năm Quý Hợi, thuộc Thủy Cục, về Âm Phần. Thích hợp cho người nữ/nam, sinh
năm Qu1 Hợi sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu đen, thuộc về hành Thủy, ứng
về tháng Tý và Hợi, tức tháng 10 và 11.
Thuyết
Bản Mệnh Phương Tây được định nghĩa theo tháng như sau: tháng
mười màu đen. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo hoàng đạo như
sau: Sư Tử màu đen. Đá này màu đen được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng mười,
mùa đông và xếp vào đá bản mệnh của cung Sư Tử, thuộc hệ Lửa. Vì vậy, những ai
sinh vào giữa 23 tháng 7 đến 22 tháng 8 hằng năm, hoặc vào tháng 8 thì được xem
là có lợi khi đeo loại đá này.
Theo Thuyết Quang Lý Học thì đá Johannsenite có màu đen. Ý nghĩa của
màu sắc này được biểu hiện ở các nên văn hóa khác nhau. Đối với người Ai Cập cổ đại, màu
đen có sự liên kết với tích cực; là màu sắc của sự sinh sản và đất màu đen đầy
phù sa bị ngập nước bởi sông Nile. Đó là màu sắc của Anubis, thần của thế giới
âm ti, người mang hình dạng của một con chó sói đen, và bảo vệ chống lại quỹ dữ
từ cái chết. Đối với người Hy Lạp cổ đại, màu đen cũng là màu sắc của thế giới
âm ti, tách ra khỏi thế giới của cuộc sống bên dòng sông Acheron, có nước đen.
Những ai đã phạm tội tồi tệ nhất đã được gửi đến ngục Tartarus, ngục sâu nhất
và tối tăm nhất. Ở trung tâm là cung điện của Hades, vua của thế giới người
chết, nơi ông ngồi trên một ngai vàng bằng gỗ mun màu đen. Ở Trung Quốc, màu đen có liên
quan đến nước, một trong năm yếu tố cơ bản được cho là tạo ra vạn vật; là
mùa đông, mùa lạnh, phía bắc, và thường được tượng trưng bởi một con rùa
đen. Nó cũng liên quan đến rối loạn, bao gồm rối loạn tích cực dẫn đến thay đổi
và cuộc sống mới. Khi hoàng đế Tần Thủy Hoàng nắm quyền lực từ triều đại nhà
Chu, ông đã đổi màu đế vương từ màu đỏ sang màu đen, nói rằng màu đen đã dập
tắt màu đỏ. Chỉ khi triều đại Hán xuất hiện vào năm 206 trước công nguyên, màu
đỏ được phục hồi như là màu hoàng đế. Trong cuộc sống những người thực sự thích
màu đen không nhiều. Nhưng những người thích sử dụng màu đen lại nhiều vô kể. Bởi
trong quan niệm hiện đại, màu đen mới là biểu tượng của giàu sang và quyền lực. Ở Nhật, màu đen có liên quan đến
sự huyền bí, ban đêm, cái chưa biết, siêu nhiên, sự vô hình và cái chết. Kết
hợp với màu trắng, nó có thể biểu tượng cho trực giác. Tại Indonesia, màu đen
có liên quan đến chiều sâu, thế giới ngầm, quỷ dữ, thiên tai, và bàn tay trái.
Tuy nhiên, khi kết hợp màu đen với màu trắng, nó tượng trưng cho sự hài hòa và
cân bằng. Màu đen mang lại sự huyền bí nhưng sang trọng là màu đi liền với quyền
lực. Trong cuộc sống màu đen luôn có một sức hấp dẫn, lôi cuốn và vô cùng bí
ẩn. Nó có khả năng che lấp mọi cái xấu, mọi cái không tốt của con người. Màu
đen còn là biểu tượng của cái ác, của những thế lực xấu xa, đen tối. Nếu coi
cuộc sống này là một bộ phim thì màu đen là những nhân vật phản diện. Khi ngắm
nhìn màu đen con người ta vừa có cảm giác run sợ, vừa có cảm giác bị lôi cuốn
kích thích trí tò mò.
Thuyết Thelema cho rằng đá Johannsenite thuộc Sepherot Binah (có nghĩa là "Sự Hiểu Biết", Hebrew:
בינה), là sephira trí tuệ thứ hai trên Cây Sự Sống. Nó nằm dưới Keter (trong hệ
thống các sephirah), ngang Chokmah và trên Gevurah. Nó thường dẫn ra bốn con
đường đến: Keter, Chockmah, Gevurah, và Tiphereth (một số Kabbalists khác đặt
một đường dẫn từ Binah để Chesed.) Trong một số hình tượng, người ta đề cập đến
(là một sephirot bị xáo trộn, thể hiện trạng thái nhìn từ trong ra ngoài của sự
vật) nó có thể liên quan đến "mắt trái", "bán cầu não trái"
hoặc "trái tim". Trên phương diện tâm lý, Binah là
"trí tuệ được xử lý", còn được gọi là lý luận suy diễn. Nó là “davar
mitoch davar” - hiểu một ý tưởng thông qua một ý tưởng khác. Trong khi Chockmah
là trí tuệ không xuất phát từ khả năng suy luận (nó được lấy cảm hứng hoặc được
dạy), Binah là khả năng suy luận bẩm sinh trong người làm việc để phát triển ý
tưởng một cách đầy đủ. Binah có liên quan đến nữ tính. Trong hình thức hoàn
toàn khớp nối của nó, Binah sở hữu hai partzufim. Cao hơn trong số này được gọi
là Imma Ila'ah ("mẹ bề trên"), trong khi thấp hơn được gọi là tevunah
("nhận thức"). Hai phần này được gọi chung là Imma ("mẹ"). Trong văn bản thời
Trung cổ, Tomer Devorah, Rabbi Moses Cordovero đã làm sáng tỏ các phẩm chất đạo
đức gắn liền với mỗi Sefira, người ta phải bắt chước theo. Thuộc tính liên kết
với Binah là hoàn toàn ăn năn, vì “Binah làm dịu đi tất cả các mức độ nghiêm
trọng và vô hiệu hóa sự cay đắng trong họ, người ta nên ăn năn và sửa chữa tất
cả các lỗi lầm”. Trong truyền thuyết phương Tây, Binah được coi là sự sống của
Chokhmah, và đưa nó vào các luồng sáng tạo khác nhau. Ví dụ trong xe hơi, bạn
có nhiên liệu và động cơ. Trong khi Chokmah là nhiên liệu, Binah là động cơ.
Nếu không có cái này thì cái kia vô dụng.
Thuyết Chakra cho rằng loại đá này thuộc Chakra Muladhara
(tiếng Phạn: मूलाधार,
IAST: Mūlādhāra, Hồng Kông, tiếng Anh: "root support") hoặc chakra gốc
là một trong bảy chakras chính theo hệ thống Hindu. Nó được tượng trưng bởi một
hoa sen với bốn cánh hoa và màu đỏ. Thần của mooladhar là thần Shri Ganesha.
Muladhara nằm gần xương cụt ngay tại xương mông, đôi khi ở kshetram (vị trí
thiêng liêng), hoặc điểm kích hoạt trên bề mặt, nằm giữa đáy chậu và xương cụt
hoặc xương chậu. Do vị trí và kết nối với hoạt động bài tiết, nó liên quan đến
hậu môn. Trong bindu, những điểm đó tạo thành một phần
của kí tự, là Brahma hay thần sáng tạo. Ông ấy có màu đỏ đậm, với bốn khuôn mặt
và bốn cánh tay, giữ một cây gậy, một bình rượu thần, và một japa mala hay chuỗi
hạt cầu nguyện, và thực hiện cử chỉ để xua tan nỗi sợ hãi. Thay vào đó, thay vì
giữ một cây gậy và một bình rượu thần, ông ta có thể giữ hoa sen và thánh thư.
Ông ta ngồi trên một con thiên nga. Shakti của ông là nữ thần Dakini được miêu
tả cùng với anh ta. Cô ấy xinh đẹp, với ba mắt và bốn cánh tay. Dakini thường
được miêu có làn da màu đỏ hoặc trắng, giữ một cây đinh ba, một cây gậy hình sọ
người, một con thiên nga và một bình nước uống, và ngồi trên một con thiên nga.
Đôi khi, thay vì một con thiên nga và bình nước uống, bà cầm thanh kiếm và lá
chắn.Ở giữa ô vuông, dưới nguồn gốc âm tiết, là một tam giác ngược màu đỏ đậm.
Shakti Kundalini được cho là ngủ ở đây, chờ đợi để được đánh thức và mang đến
cho Brahman, đây là nơi nguồn gốc bắt đầu. Nó được đại diện bởi biểu tượng
Lingam được bao bọc bởi ba con rắn có một nửa màu xám khói. Chakra này cũng có thể được kích hoạt bằng
cách tụng thần chú gốc. Người ta nói rằng có thể tụng thần chú gốc của Chakra
Muladhara hơn 100.000.000 lần có thể đạt được tất cả các Siddhis (năng lực thần
bí) của Muladhara Chakra. Khi so sánh với hệ thống Tantric quan trọng khác của
Kim Cương Thừa ở Tây Tạng, chakra Muladhara không tìm thấy sự tương đồng ở nơi
giống như vậy, không giống như các chakra khác. Thay vào đó, hệ thống Tây Tạng
đặt hai chakra vào cơ quan tình dục: vòng ngọc ở giữa, gần đầu và phần đầu của
cơ quan tình dục. Những chakra này cực kỳ quan trọng cho việc tạo ra phúc lành
to lớn và đóng một vai trò quan trọng trong thực hiện hành vi tình dục tantric
cao trào nhất. Một đặc điểm duy nhất, giọt màu đỏ, còn được gọi là bồ đề tâm đỏ,
không nằm ở đây, mà nằm ở vòng tròn rốn .
Đá Johannsenite có màu
đen, Theo Thuyết Phật Giáo Mật Tông là
bổn sắc của A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya). Ngài là sự chuyển hóa của sân hận
thành từ bi. Màu lam và đen đại diện cho phẫn nộ tướng ứng với tai. Đeo Johannsenite sẽ
được A Súc Bệ Như Lai Phật hộ trì, hỗ trợ về tai và sự điềm tĩnh. Vì đây cũng
là màu của cõi người, đá Johannsenite được coi
là bùa hộ về thính dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về thính dục thông qua vị
phật phẫn nộ. Tử thư nhắc đến màu đen như sự mượn tạm hình tướng phẫn nộ để
biểu thị sự từ bi, cũng là sự hiển lộ của sân hận cần hóa giải thông qua các
biệt xảo. Tử Thư Tây Tạng viết: Đến lượt ở phương bắc là Vetali, màu đen, cầm
một kim cương sử và một cái tách bằng sọ người, bà tượng trưng phẩm chất bất
biến của pháp tánh kim cương sử là bất hoại và cái tách bằng sọ người là một
biểu tượng khác nữa của phương tiện thiện xảo. Từ hướng tây thiên nữ
Srgalamukha màu đen, đầu con cáo cầm lưỡi dao cạo bên tay phải và chùm ruột bên
tay trái đang ăn chùm ruột và liếm máu. từ hướng tây thiên nữ Srgalamukha màu
đen, đầu con cáo cầm lưỡi dao cạo bên tay phải và chùm ruột bên tay trái đang
ăn chùm ruột và liếm máu. từ phía tây bắc thiên nữ Kakamukha màu đen, đầu quạ,
cầm tách sọ người bên tay trái một thanh kiếm bên tay phải đang ăn tim và phổi.
Con hãy nhận ra bất cứ cái gì xuất hiện đều là vở tuồng diễn kịch của tâm, đó
là những phóng tưởng của tự con. cơn lốc xoáy rất lớn của nghiệp, một cơn lốc
đáng sợ, không thể chịu đựng được, quay cuồng dữ dội, từ phía sau đẩy con tới.
Con đừng sợ cơn lốc đó, đó chính là phóng tưởng mê lầm của con. Bóng tối đen
dày đặc rất kinh hãi, không chịu nổi, sẽ đi đằng trước mặt con cùng với những
tiếng kêu rùng rợn như tiếng thét „Đánh và Giết‟. con sẽ kinh nghiệm giống như
mô tả trước, như là gió xoáy, bão tuyết, mưa đá, xung quanh tối đen và nhiều
người săn đuổi con. Nếu con sắp sanh ra làm một quỷ đói, con sẽ thấy những thân
cây cụt ngọn và những hình dáng màu đen chỉa đầu nhọn lên, những động và hang
cạn và những đụn đất nhỏ màu đen. Nếu con sắp sanh ra làm một chúng sanh ở địa
ngục, con sẽ nghe những chúng sanh có nghiệp ác hát những bài hát, hoặc con sẽ
phải đi vào một cách bất lực, hoặc con sẽ cảm thấy rằng con đã đi vào một vùng
đất tối tăm, với những căn nhà có màu đen màu đỏ, những cái hố đen và những con
đường màu đen. Những người thường xuyên gặp hoàn cảnh gây sân hận, cần được
thanh lọc, có thể dùng loại đá màu đen để giải trừ.
Theo Thuyết Reki (Linh Khí) Đá Johannsenite trong
hành Thủy và thuộc vào Kinh Túc Thiếu Âm Thận, Kinh Túc Thái Dương Bàng Quang. Kinh Túc Thiếu âm Thận liên quan các chứng ở
hệ sinh dục, tiết niệu, ruột, họng, ngực.Ví dụ như huyệt Chiếu hải (huyệt giao hội của kinh thiếu âm thận với
mạch âm kiểu) có
tác dụng liên quan đến đau sưng mắt cá trong, kinh nguyệt không đều, táo
bón, đau bụng do thoát vị, ngứa sinh dục ngoài, khô họng; huyệt Phục lưu (huyệt kinh thuộc kim) có tác dụng liên
quan đến liệt cơ, teo cơ, lạnh cẳng chân, tiểu rắt, lưỡi khô, mồm khô,
sôi bụng, phù thũng, ra mồ hôi trộm, cảm không có mồ hôi và mạch yếu nhỏ; huyệt Giao tín (huyệt khích của mạch
âm kiểu) có
tác dụng liên quan đến kinh nguyệt không
đều, băng huyết, sa dạ con, tinh hoàn sưng đau, tiêu chảy, bí tiểu; huyệt Trúc tân (huyệt khích của mạch
âm duy) có
tác dụng liên quan đến đau mặt trong cẳng chân, điên cuồng. Kinh
Túc Thái Dương Bàng Quang liên
quan đến bệnh ở mắt, mũi, đầu, gáy, thắt lưng, hậu môn, não, sôt, bệnh các tạng
phủ (dùng các huyệt Du sau lưng). Ví dụ như huyệt Thừa Quang có tác dụng liên quan đến đau đầu, hoa mắt, ngạt mũi; huyệt Thông Thiên có tác dụng liên quan đến đau đầu, hoa mắt, ngạt mũi, chảy nước mũi, sổ
mũi; huyệt Lạc Khước có tác dụng
liên quan đến đau đầu, ù tai, mờ mắt, điên cuồng; huyệt Ngọc Chẩm
có tác dụng liên quan đến
đau đầu, đau mắt, ngạt mũi; huyệt Thiên Trụ có tác dụng liên quan đến đau đầu, cứng gáy, đau mắt, hoa
mắt, ngạt mũi, Trí nhớ sút kém, suy nhược thần kinh.
Theo Thuyết Can Chi Tứ Trụ, đá ngọc thuộc mệnh Thủy rất hạp với mệnh Mộc sinh
vào ngày xuân,được nguyệt lệnh mà phần lớn là thân mạnh,vì vừa qua mùa đông
lạnh,có chút lạnh lẽo,mượn Hỏa sưởi ấm cơ thể tự do phát triển vươn xa,có Thủy
nuôi dưỡng sẽ sinh trưởng nhanh. Mộc sinh vào cuối xuân,do thời tiết đã
ấm,dương khí đã vượng thịnh,cần nhiều Thủy hơn để điều hòa nếu không sẽ vì
thiếu Thủy mà thành khô héo. Tóm lại, Mộc mùa xuân tốt nhất nên có Thủy,Hỏa đến
điều hòa mới phát triển tốt.Nếu lực của Thủy vừa phải,Mộc có thể duy trì cân
bằng,sẽ được tài phú.
Thuyết Hoa Giáp cho rằng Johannsenite thuộc về Thủy (Đen) phối Thổ (Vuông và Cân), tức Thủy
Cục. Do đó, Johannsenite giúp khắc chế các bản mệnh Kim – Mộc như Giáp Thân, Ất
Dậu, Canh Dần, Tân Mão, vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc
này. Johannsenite cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Mộc (Thủy sinh
Mộc), gồm có mệnh thuộc Thủy Mộc và thuần Mộc: Giáp Tý, Ất Hợi, Nhâm Dần, Quý
Mão, Giáp Dần, Ất Mão, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại ngọc này.
Thuyết Khí Tiết nói, người có mệnh cục
Mộc (sinh vào ngày Giáp-Ất, Dần Mão) gặp vào những ngày thuộc hành Kim (như các
ngày Canh-Tân, Thân-Dậu) và những tháng hành Kim (như tháng bảy, tháng tám) thì
bởi Kim khắc Mộc, sinh ra bệnh ở gan và mật. Bên trong, biểu hiện ở bệnh lương
tinh, lao phổi, thổ huyết, đau đầu, suyễn, trúng phong, phù nề tê liệt,
chứng phong, đau gân cốt. Bên ngoài biểu hiện da khô, đau mắt, chân tay run rẩy...
Sách mệnh lý nói: gân cốt đau nhức, là do Mộc bị Kim thương hại, phải lấy Thủy
giải độc, Johannsenite thuộc Thủy, có tác dụng
tốt cho thể trạng người Mộc Cục (Thủy sinh Mộc), nhất là vào những ngày hay
tháng Kim thịnh (Canh-Tân, Thân-Dậu) và các tháng hành Kim như tháng bảy, tháng
tám. Người đeo đá Johannsenite, có thể dùng Thủy khắc
chế được Kim hại.
Dựa Trên Thuyết Orthotherapy và công thức cấu tạo của đá Johannsenite (CaMn2+Si2O6) gồm: Nguyên tố Calcium (Ca) có số nguyên tử là 20, tỉ trọng
Canxi trong cơ thể là 0.014 và khối lượng trung bình trong cơ thể người là 1kg
đạt tỷ lệ là 0.22%. Tác động tích cực cho sức khỏe
do Can xi là thành phần chủ yếu của răng và hệ xương, đặc biệt là trong các
thành phần Calmodulin và Hydroxylapatite. Tác dụng lên hệ xương, chiều cao, sự
vận động và phục hồi xương. Được coi là có tác dụng tốt cho chứng gãy xương,
hay tăng chiều cao ở trẻ em. Được sử dụng nhiều cho các vận động viên, hoặc các
ngành nghề cơ bắp. Nguyên tố Manganese
(Mn) số hiệu nguyên tử là 25, tỉ trọng cơ thể là 170×10-7, khối lượng
trung bình 0.000012kg, tỷ lệ nguyên tố là 0.0000015% trong không khí. Loại đá
này chứa Mangan, một trong cấu thành của chất MnSOD trong cơ thể. Chất MnSOD là
một chất chống oxi hóa phân giải dây chuyền, là nguyên nhân gây ra bệnh ung
thư, các bệnh viêm da, xơ vữa động mạch, và lão hóa. Vì vậy, thành phần mangan
được cho là có tác dụng tốt đối với các bệnh ung thư, đặc biệt liên quan tim mạch.
Nguyên tố Silicon (Si) có số nguyên tử là 14, chiếm tỉ trọng trong cơ thể là
20x10-4 và có khối lượng trung bình 0.001kg đạt tỷ lệ nguyên tố
là 0.0058%. Nguyên tố Oxygen (O) có số nguyên tử là 8, chiếm tỉ trọng trong cơ
thể người là 0.65. Thành phần của nguyên tố này trong cơ thể trung bình là 43kg
chiếm tỷ lệ là 24%. Tác động đến sức khỏe và sự sống của hầu hết các loài động
thực vật trên thế giới.
Dựa trên công thức hóa học của đá Johannsenite, Theo Thuyết Hài Hòa Bộ Tám loại đá này
mang yếu tố của hỏa tinh với nguyên tố chủ đạo
là nguyên tố Lửa. Vì vậy nó tác động lên hệ sinh dục, bộ phận sinh dục,
tuyến thượng thận. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến tình
dục như yếu sinh lý, liệt dương, khoái cảm kém nhằm tăng cường sinh lực tình dục.
Nó còn giúp tăng cường ý chí và tư tưởng, đặc biệt là sự tham vọng, đầy năng lượng,
đam mê, nam tính, hành động, kỷ luật, lòng nhiệt huyết, nhiệt tình trong tình dục...
nhấn mạnh yếu tố ý chí. Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là trấn giữ các
mối quan hệ của nhà chiêm tinh thứ 3 và 10: anh em, bà con (nhà Fratres); chức
vụ, nhiệm (nhà Regnum). Dành hỗ trợ cho những người có mối quan hệ đã nêu không
được suông sẻ để cải thiện tình hình. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu
tố hỏa tinh bảo trợ về toán và suy luận nói chung (Dante Alighieri). Dành cho
những người làm trong lĩnh vực liên quan đến tính toán như các ngành toán, vật
lý, kỹ sư, cơ giới, thủ quỹ, thủ kho, buôn bán, kế toán...
Thuyết Bát Quái Kinh
Dịch dựa
vào hình thái tinh hệ của tinh thể gồm tám loại, được phân định thành tám quái
thuộc nội quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập Phương (cubic
- isometric) ứng Càn , Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam Phương (rhombohedral)
ứng Ly, Lục Phương (hexagonal - trigonal) ứng Đoài, Tam Tà (triclinic) ứng
Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic) ứng Tốn, Phi Tinh
(noncrystallinic) ứng Khôn. Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng khác: Lập
Phương ứng Càn, Tam Tà ứng Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn, Tam
Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở đây
chỉ trình bày thuyết của Thông Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm tám
màu, ứng với tám quái thuộc ngoại quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính, đều
nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ nhất được trình bày trong I-ching: Binary
Numbers, Astrology, And Chakras, dựa trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng,
Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ,
Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành ứng
bát quái cho rằng: Càn ứng dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn ứng
cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề xuất
dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam, Cấn
ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên
thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại quái tương ứng với hình dạng và màu sắc của
tinh thể, từ đó tính ra được quái trong 64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại
ứng một bộ phận cơ thể theo y lý trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể. Đá
Johannsenite có màu đen tương ứng
quẻ ngoại quái Khôn, có tinh hệ Đơn Tà tương ứng quẻ nội
quái Khảm, ghép lại chính là quẻ quái số 7: quẻ Địa Thủy Sư. Quái số 7 ứng với vị
trí lỗ tiểu trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh
liên quan đến cơ quan sinh dục như rận mu, nấm, viêm da tiếp xúc, viêm nhiễm cơ quan sinh dục,
viêm nan lông,….
Quẻ Địa Thủy Sư có nghĩa là Sư
là quân chúng. Quẻ này dưới Khảm trên Khôn, Khảm hiểm mà Khôn thuận, Khảm là nước
mà Khôn là đất, đời xưa ngụ hình ở nông, núp cái rất hiểm chỗ cả thuận, giấu
cái không thể lường trong chỗ rất tĩnh. Lại nữa, trong quẻ chỉ hào Chín Hai là
một hào Dương ở giữa quẻ dưới, là tượng làm tướng; trên dưới năm hào Âm đều phải
thuận mà theo, là tượng làm quân. Hào Chín Hai lấy tư cách Dương cương ở dưới
làm việc, hào Sáu Năm là hạng mềm yếu ở trên mà dùng người, tức là cái tượng
ông vua sai tướng ra quân, cho nên quẻ này gọi tên là Sư. Trượng nhân là tiếng
để gọi bậc trưởng lão, cái đạo dùng quân lợi về được chính đính, mà phải dùng
người lão thành, mới được tốt mà không có lỗi, người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy.
Nơi tìm thấy đá: Johannsenite có thể được tìm thấy ở Northern Cape (South Africa), Arkansas (USA), lima (Peru),...
Lời
cảm ơn: bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến
sĩ Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu
tập Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm
Hoàng Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments