Zincite
(红锌矿) Hồng Tân Khoáng
Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị Liệu, Thạch Học Trị Liệu dịch từ chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ. Lithotherapy phân thành Litho đến từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá, therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ] tức là chữa trị, lithotherapy tức là chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với đá ở ngoài da. Lithotherapy là một môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận huyền học và thần bí học. Mặc dù có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả năng của nó, đã được ứng dụng từ lâu trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại, nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức màn bí mật của những điều thần kỳ giống như nền Đông Y của người Trung Quốc hay Nam Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc biệt trình bày về những lý luận căn bản trong Thạch Lý Học đối với Zincite, nằm trong chuỗi khảo cứu, viết riêng cho tuần báo UNESCO.
Giới thiệu về đá Zincite
Giới thiệu về các thuyết: Giá trị thạch lý học của Zincite được trình bày thành các thuyết cơ bản: thuyết Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học (Chromotherapy), thuyết Linh Khí (Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves), thuyết Thái Lặc Mã (Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết Hoa Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié).
Thuyết bản mệnh Phương Đông người ta căn cứ vào địa chi của tháng sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần, tháng 2 là Mão, tháng 3 là Thìn, tháng 4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi, tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu, tháng 9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu, cùng phối hợp với ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng dùng đá có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ thuộc Hỏa (ứng dùng đá có tông màu cam đỏ hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có tông màu trắng, xám, ánh bạc), Tý Hợi thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu đen, chàm, tím), Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ (ứng dùng đá có tông màu vàng, trong, ánh kim). Và theo đó, Thuyết Bản Mệnh phương đông xếp loại đá này vào năm Bính Tí, thuộc Hỏa Cục, về Dương Phần. Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Bính Tí sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu Cam, thuộc về hành Hỏa, ứng về tháng Tí Ngọ, tức tháng 5 và 11.
Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo tháng như sau: tháng một màu đỏ cam, tháng hai màu tím tươi, tháng ba màu xanh lam, tháng tư màu trắng trong, tháng năm màu lục đen, tháng sáu màu trắng đục, tháng bảy màu đỏ tươi, tháng tám màu xanh chuối, tháng chín màu xanh lá, tháng mười màu đen, tháng mười một màu vàng, tháng mười hai màu chàm. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo hoàng đạo như sau: Bạch Dương màu xanh đen, Kim Ngưu màu xanh dương đậm, Song Tử màu trắng trong, Cự Giải màu xanh lá mạ, Sư Tử màu đen, Xử Nữ màu cam, Thiên Bình màu lục nhạt, Thiên Yết màu lam, Nhân Mã màu vàng, Ma Kết màu đỏ tươi, Bảo Bình màu đỏ sậm, Song Ngư màu tím. Đá này màu Cam được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng 1, mùa Xuân và xếp vào đá bản mệnh của cung Xử Nữ, thuộc hệ Đất. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 23 tháng 8 đến 22 tháng 9 hằng năm, hoặc vào tháng 1 thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này.
Theo thuyết Quang Lý học thì đá Zincite có màu cam. Ý nghĩa của màu sắc này được biểu hiện ở các nên văn hóa khác nhau. Trong Nho giáo, tôn giáo và triết học của Trung Quốc cổ đại, cam là màu sắc của sự biến đổi. Theo Khổng giáo, sự tồn tại được điều chỉnh bởi sự tương tác của nguyên tắc hoạt động nam giới, dương khí, và nguyên tắc thụ động nữ giới, âm khí. Màu vàng và đỏ được so sánh với ánh sáng, lửa, tâm linh và trực giác, dường như đối lập nhưng lại bổ sung. Trong sự tương tác giữa hai màu này đã dẫn đến màu da cam, màu sắc của sự chuyển đổi. Trong Sanatan Dharma (Hindu Giáo), màu vàng nghệ sẫm cao có liên quan đến sự hy sinh, kiêng cữ trong tôn giáo, tìm kiếm ánh sáng và sự cứu rỗi. Vàng nghệ hoặc “bhagwa” là màu sắc thiêng liêng nhất đối với người Hindu và thường được mặc bởi sanyasis người đã rời nhà của họ để tìm kiếm sự thật cuối cùng. Theo một số nghiên cứu, màu cam có khả năng tăng cường oxy lên não và do đó cho phép não hoạt động tốt hơn và sáng tạo hơn. Tuy nhiên, bạn nên tránh màu cam khi cần tạo ra một không gian yên tĩnh và suy tư. Màu cam là một màu tạo ra năng lượng phong thủy thúc đẩy những mối quan hệ trong cuộc sống, gắn kết cộng đồng. Đây là màu được thụ hưởng sự mạnh mẽ của màu đỏ và sự hạnh phúc của màu vàng. Nó đi liền với sự vui tươi, nhẹ nhàng và tươi mát. Màu cam mang đến sự hạnh phúc, sôi động và bắt mắt. Biểu trưng cho sự cố gắng, thu hút, quyết rũ, hạnh phúc, sáng tạo. Với mắt người màu cam tương đối nóng và chính vì thế nó mang tới cảm giác ấm nóng, tuy nhiên nó không mạnh mẽ màu đỏ.
Thuyết Thelema cho rằng đá Zincite thuộc Sepherot Gevurah hoặc geburah (גבורה) là sephirah thứ năm trong Cây Sự Sống, và nó là thuộc tính cảm xúc thứ hai của sephirot. Nó nằm dưới Binah, ngang qua Chesed, và phía trên Hod. Gevurah là "bản chất của sự phán đoán (DIN) và giới hạn, và phù hợp với sự kính sợ và là yếu tố của lửa". Trong Bahir, nó được viết: "Và ai là Người Chỉ Huy? Chúng ta biết rằng có ba thế lực (Gevurah). Sức Mạnh Là Chỉ huy của tất cả các Dạng Thánh ở bên trái của Chúa Trời. Ngài ấy là Gabriel. Gevurah có liên quan đến màu đỏ. Chesed và Gevurah cùng nhau tạo ra một sự cân bằng bên trong, như cách tiếp cận của tâm hồn với thế giới bên ngoài. Cánh tay phải Chesed hoạt động để thu hút những người khác gần, cánh tay trái Gevurah có quyền lựa chọn để đẩy lùi những người được coi là không xứng đáng. (Ngay cả đối với những người mà mối quan hệ ban đầu của họ là "cánh tay trái đẩy đi"thì trước đó người ta phải áp dụng nguyên tắc bổ sung của "tay phải kéo lại gần"). Cuối cùng, quyền năng của Gevurah trở thành sức mạnh, và sức mạnh này dùng để hiện thực hóa mong muốn bẩm sinh của Chesed. Chỉ với sức mạnh của Gevurah, Chesed mới có thể xâm nhập vào bề mặt của sự thật. Baal Shem Tov thảo luận về khả năng của Gevurah để thực hiện việc rút lui của Divine (Tzimtzum), từ đó tạo ra tiềm năng cho Chesed xuất hiện trong quá trình sáng tạo. (bình luận cho Parshat Toldot). Gevurah xuất hiện trong cấu trúc của Sefirot dọc theo trục trái, trực tiếp dưới Binah, và tương ứng trong tzelem Elokim với "cánh tay trái". Giá trị số của Gevurah, 216, là 6 lần 6 lần 6. Các bảng giao ước mà Moses nhận được tại Sinai dài “6 by 6 by 6” gan tay. Torah được trao cho Moses và Israel từ "Miệng của Gevurah". Điều quan trọng nhất là các vị hiền nhân của chúng ta sử dụng tên của Sefirah khác để nói về chính Thiên Chúa, khác với Gevurah (Trong Kinh thánh, Thiên Chúa được gọi là "Netzach [vĩnh cửu] của Israel" (Samuel 1 15:29) , nhưng không phải là Netzach đơn độc). Thông qua nỗ lực kép của Chesed và Gevurah, không chỉ để hình thành nên sự thật, mà còn để khắc phục hiện thực (thông qua phương tiện "cánh tay trái đẩy ngược lại"), những tia lửa này đã được cứu chuộc và nâng lên để trở lại và đoàn kết với nguồn cuối cùng của họ. Theo nghĩa phổ quát, đây là bí mật của sự xuất hiện của Mashiach và sự phục sinh của người chết. "Và trong thời của Caedmon, nó đã trở nên phổ biến rộng rãi rằng Gevurah đồng nghĩa với tình yêu, và những người khôn ngoan cố gắng biết Gevurah để xây dựng các giải pháp mà có thể giữ anh em của họ khỏi cái chết."
Thuyết Chakra cho rằng loại đá này thuộc Chakra Svadhishthana (tiếng Phạn: स्वाधिष्ठान, IAST: Svādhiṣṭhāna, tiếng Anh: "one’s own base"), hoặc \ chakra, là chakra chính thứ hai theo Hindu Tantrism (hệ thống). Vị chúa của chakra swadhisthana là Thần Bhoramdev Saraswati. Svadhishthana được minh họa như một hoa sen trắng (Nelumbo nucifera). Nó có sáu cánh hoa màu đỏ tươi có ghi các âm tiết: बं ban, भं bhaṃ, मं maṃ, यं yaṃ, रं raṃ and लं laṃ. Bên trong hoa sen này là một trăng lưỡi liềm trắng đại diện cho vùng nước do vị thần Varuna chủ tọa.Nguồn gốc thần chú, nằm trong vùng sâu nhất trong vòng tròn, là một mặt trăng màu trắng वं vaṃ. Svadhishthana có liên hệ với vô thức và cảm xúc. Nó liên quan chặt chẽ đến Muladhara trong đó Muladhara là nơi các samskaras hay hồi ức khác nhau (có thể là Karmas hay nghiệp) nằm im không hoạt động, và Svadhisthana là nơi Samskaras hay hồi ức tìm thấy các biểu hiện. Nó liên quan đến yếu tố nước, cảm giác vị giác và các hành động tạo sinh.Svadhishthana chứa mong muốn vô thức, đặc biệt là ham muốn tình dục. Người ta nói rằng để nâng cao kundalini shakti (năng lượng của ý thức) lên trên Svadhishthana rất khó khăn. Nhiều vị thánh đã phải đối mặt với những cám dỗ về tình dục liên kết với chakra này. không còn sợ nước , nhận thức được sựu tồn tại của các vì sao và khả năng thưởng thức bất cứ thứ gì mà bản thân hay người khác mong muốn. Các nhà huyền học phương Tây tạo ra kabbalistic để liên kếtcủa Svadhishthana qua Sephirah Yesod. Yesod cũng liên quan đến các cơ quan sinh dục. Chức năng của nó trong cây sự sống là thu thập các nguồn năng lượng khác nhau đã được tạo ra từ gốc cây dưới thấp và phân phát cho Malkuth, thế giới vật chất, nơi mà năng lượng có thể tìm thấy biểu hiện của vật chất. Theo cách giải thích của Sufism, thân thể tâm linh của một con người được miêu tả là một hệ thống được kết nối (Lataif-e-sitta), trong đó có một trung tâm năng lượng được gọi là nafs. Theo Lataif-e-sitta, nafs ở ngay phía dưới rốn. Các nafs kết hợp tất cả các yếu tố tự hạ thấp của con người, thứ bị thuần hóa để đạt được sự gần gũi với Allah thượng đế.
Đá Zincite có màu cam, theo thuyết Phật giáo Mật tông là bổn sắc của A Di Đà Như Lai (Amitabha) . Ngài là sự chuyển hóa của sự hỗn độn thành sự phân minh. Màu đỏ đại diện cho vô úy tướng ứng với miệng. Đeo Zincite sẽ được A Di Đà Như Lai Phật hộ trì, hỗ trợ về miệng và sự phân minh. Vì đây cũng là màu của cõi atula, đá Zincite được coi là bùa hộ về vị dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về vị dục thông qua vị phật phân minh. Tử thư nhắc đến màu đỏ như biểu hiện cho sự phân minh, trí huệ, đồng thời sự tỵ nạnh ganh ghét. Tử Thư Tây Tạng viết rằng: Vào ngày thứ tư, một ánh sáng đỏ – đó là yếu tố tinh khiết của lửa, sẽ chiếu sáng và đồng thời đức Phật A Di Đà từ cõi phương Tây màu đỏ, Cõi Cực Lạc (The Blissful) sẽ xuất hiện trước mặt con. Thân ngài màu đỏ, ngài cầm hoa sen trong tay, ngài ngự trên ngai con chim công, ngài đang ôm người phối ngẫu là Phật Mẫu Pandaravasini. Ánh sáng đỏ của tưởng uẩn trong tánh thanh tịnh căn bản của nó là Diệu Quan Sát Trí (wisdom of discrimination), màu đỏ rực rỡ, được trang hoàng bởi những dĩa ánh sáng quang minh, rõ rệt, sắc bén, óng ánh từ tim của đức Phật A Di Đà. Vào ngày thứ tư, có các tia sáng của hỏa đại màu đỏ xuất phát từ phương tây. Chính giữa luồng ánh sáng đó có đức Phật A Di Đà, đứng trên tòa sen đang rộng hai tay tiếp dẫn. Luồng ánh sáng này chiếu soi khắp mười phương thế giới không chỗ nào không soi đến. Gần đó có một lớp ánh sáng màu nâu đục, tượng trưng cho cảnh giới của ngạ quỷ cũng đồng thời xuất hiện.
Theo thuyết Reki (Linh Khí) Đá Zincite trong hành Hỏa và thuộc vào Kinh Túc Thiếu Âm Tâm, Kinh Thủ Quyết Âm Tâm Bào. Kinh Túc Thiếu Âm Tâm liên quan đến bệnh vai, mặt trong chi trên đau, gan tay nóng hoặc lạnh, mồm khô, khát muốn uống nước, đau mắt, đau vùng tim, nấc khan, sườn ngực đau tức, chứng thực thì phát cuồng, chứng hư thì bi ai, khiếp sợ, ở tim, ngực, tâm thần. Ví dụ như huyệt Thông Lý (Huyệt Lạc với kinh Tiểu trường) có tác dụng liên quan đến đau cổ tay, đau cẳng tay, đau khuỷu tay, tim đập mạnh, hồi hộp, sốt, trong ngực bồn chồn, sốt không có mồ hôi, đau đầu, hoa mắt, cứng lưỡi, không nói được; huyệt Âm Khích (Huyệt Khích) có tác dụng liên quan đến ngực đầy tức, đau vùng tim, tim đập mạnh, hồi hộp, ra mồ hôi trộm, chảy máu mũi, nôn ra máu; huyệt Thần Môn (Huyệt Du thuộc Thổ, huyệt Nguyên) có tác dụng liên quan đến lòng bàn tay nóng, đau vùng tim, tim đập mạnh, hồi hộp, mất ngủ, hay quên, ngớ ngẩn, động kinh; huyệt Thiếu Phủ (Huyệt Huỳnh thuộc Hỏa) có tác dụng liên quan đến ngón tay út co quắp, lòng bàn tay nóng, đau khó chịu trong ngực, tim đập hồi hộp, sốt rét lâu ngày, tiểu dầm; huyệt Thiếu Xung (Huyệt Tỉnh thuộc Mộc) có tác dụng liên quan đến đau vùng tim, đau cạnh sườn, tim đập mạnh, hồi hộp, cấp cứu trúng phong, sốt cao, vui giận thất thường. Kinh Thủ Quyết Âm Tâm Bào liên quan đến các chứng mặt đỏ, nách sưng, cánh tay, khuỷu tay co quắp, gan tay nóng, đau vùng tim, bồn chồn, tức ngực sườn, tim đập thình thịch, cuồng, nói lảm nhảm, hôn mê, ở ngực, tim, dạ dày, bệnh tâm thần, sốt. Ví dụ như huyệt Giản Sử (Huyệt Kinh thuộc Kim) có tác dụng liên quan đến Đau cánh tay, nóng gan bàn tay, bệnh nhiệt có tâm phiền, tim đập hồi hộp, đau vùng tim, Trúng phong đờm rãi nhiều, nôn, khan tiếng, điên cuồng, sốt rét; huyệt Nội Quan có tác dụng liên quan đến đau cẳng tay, đau vùng tim, đau sườn ngực, tâm phiền, hồi hộp, nôn, đầy chướng bụng, tiêu hóa kém, điên cuồng; huyệt Đại Lăng (Huyệt Nguyên, huyệt Du thuộc Thổ) có tác dụng liên quan đến đau cổ tay, lòng bàn tay nóng, khuỷu tay co, đau vùng tim, đau sườn ngực, tâm phiền, nôn, đầy chướng bụng, tiêu hóa kém, điên cuồng, cười mãi không hết, dễ sợ hãi, bệnh nhiệt; huyệt Lao Cung (Huyệt Huỳnh thuộc Hỏa) có tác dụng liên quan đến run bàn tay, ra mồ hôi lòng bàn tay, đau vùng tim, tâm phiền, khát, tim đập hồi hộp, cười mãi không thôi, lóet miệng, nôn, sốt về đêm; huyệt Trung Xung (Huyệt Tỉnh thuộc Mộc) có tác dụng liên quan đến lòng bàn tay nóng, cứng lưỡi, đau vùng tim, tâm phiền, trúng phong bất tỉnh,hôn mê, sốt không ra mồ hôi.
Theo thuyết Tứ Trụ, đá Zincite thuộc mệnh Hỏa rất hạp với mệnh Mộc sinh vào ngày xuân,được nguyệt lệnh mà phần lớn là thân mạnh,vì vừa qua mùa đông lạnh,có chút lạnh lẽo,mượn Hỏa sưởi ấm cơ thể tự do phát triển vươn xa,có Thủy nuôi dưỡng sẽ sinh trưởng nhanh.Tóm lại,Mộc mùa xuân tốt nhất nên có Thủy,Hỏa đến điều hòa mới phát triển tốt. Nếu là Mộc mùa suy yếu,ưa được Hỏa tiết,Thổ dưỡng,Kim khắc không ưa Thủy đến tương trợ. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Hỏa sinh mùa thu. Hỏa mùa thu phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh mới có thể thịnh vượng, chuyển nguy thành yên bình đồng thời đạt được tài lợi, sẽ không bị khốn đốn. Nếu gặp Hỏa đến phù trì, có thể phát huy tài cáng, dựa vào nổ lực của bản thân có thể được thù lao xứng đáng. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Hỏa sinh mùa đông. Hỏa mùa đông phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh, nếu không Thủy vượng sẽ tiêu diệt Hỏa, mãi mãi khó có thể đứng dậy. Hỏa mùa đông thân yếu có Hỏa đến giúp thì Tỷ Kiếp khác Tài tinh, có thể nhìn thấy tiền tài phát triển thịnh vượng, nhưng duyên với vợ bạc, quan hệ không thân mật, hoặc vợ có tình trạng sức khỏe không tốt. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa đông. Kim của mùa đông có tính chất hàn lạnh, nếu Mộc nhiều cũng không thể điêu khắc mà tái hiện công hiệu của Kim. Nếu Thủy quá nhiều, Kim sẽ bị chìm vào ưu phiền. Thổ có thể khắc Thủy, làm cho Kim không chịu ảnh hưởng của hàn lạnh, mà Hỏa có thể sinh trợ Thổ, Thổ có thể sinh trợ Kim, Thổ Kim là mẹ con tương sinh, có thể thành công. Kim cũng ưa Tỷ kiên nhưng cần có Hỏa xuất hiện mới có thể ôn dưỡng Quan ấn.
Thuyết Ngũ Hành Can Chi cho rằng Zincite thuộc về Hỏa (Cam) phối Hỏa (Nhọn và Góc), tức Hỏa Cục. Do đó, Zincite giúp khắc chế các bản mệnh Mộc-Thổ như Giáp Thìn, Giáp Tuất, Ất Mùi, Ất Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Zincite cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Thổ (Hỏa sinh Thổ), gồm có mệnh thuộc Hỏa-Thổ và thuần Thổ: Mậu Ngọ, Kỷ Tỵ, Bính Thìn, Bính Tuất, Đinh Mùi, Đinh Sửu, Mậu Thìn, Mậu Tuất, Kỷ Mùi, Kỷ Sửu, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại ngọc này.
Thuyết Ngũ Hành Khí Tiết nói, người có mệnh cục Thổ (sinh vào ngày Mậu-Kỷ, Thìn-Mùi-Tuất-Sửu) gặp vào những ngày thuộc hành Mộc (như ngày Giáp-Ất, Dần-Mão) thì , bởi Thổ khắc Mộc, mật và dạ dày dễ tổn thương, biểu hiện lên cơ thể là bị nấc cục, đau dạ dày, tiêu chảy, hoàng thũng, khó nuốt, chán ăn, buồn nôn. Bên ngoài sẽ biểu hiện ra da khô, tay phải mỏi. Trẻ nhỏ bị suy dinh dưỡng, vàng lá lách. Đặc tính của Thổ là ẩm ướt, dễ bị chìm, sắc mặt vàng vọt. Sách mệnh lý nói: Thổ tại Mộc vượng, lá lách tổn thương. Muốn khắc chế, phải lấy Hỏa giải độc, Zincite thuộc Hỏa, có tác dụng tốt với thể trạng người Thổ cục (Hỏa sinh Thổ), đề phòng cho những ngày Mộc thịnh (Giáp-Ất, Dần-Mão) hay tháng hành Mộc như tháng giêng và tháng hai. Người đeo đá Zincite, có thể dùng Hỏa khắc chế được Mộc hại.
Dựa trên thuyết Orthotherabi và công thức cấu tạo của đá Zincite (ZnO) gồm: Nguyên tố Oxygen (O) có số nguyên tử là 8, chiếm tỉ trọng trong cơ thể người là 0.65. Thành phần của nguyên tố này trong cơ thể trung bình là 43kg chiếm tỷ lệ là 24%. Tác động đến sức khỏe và sự sống của hầu hết các loài động thực vật trên thế giới. Nguyên tố Zinc (Zn) nguyên tử khối là 30, tỉ trọng cơ thể là 32x10-4, khối lượng trung bình 0.0023kg, tỷ lệ nguyên tố là 0.00031% trong không khí. Có vai trò trong việc tạo ra nhiều loại proteins khác nhau của cơ thể, đặc biệt là các chi và ngón tay chân.
Dựa trên công thức hóa học của đá Zincite, theo thuyết Hài Hòa Bộ Tám loại đá này mang yếu tố kim tinh với nguyên tố chủ đạo là nguyên tố Nước, vì vậy tác động lên vùng thắt lưng, các tĩnh mạch, âm đạo, cổ họng, bả vai và thận, eo. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến các bệnh liên quan sản khoa, và sự sinh sản, (sẩy thai, đẻ sớm...) các thương tích liên quan xương sống và hông, liệt nửa người. Mặt khác, nó còn làm tăng cường tình cảm và cảm xúc, đặc biệt là sự cảm nhận vẻ đẹp, cảm xúc của phụ nữ, nữ tính, hài hòa, đồng cảm, thân thiện, tình dục nữ,... Nhấn mạnh yếu tố cảm xúc. Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là trấn giữ các mối quan hệ của nhà chiêm tinh thứ 5 và 12: hậu duệ (nhà Nati) và tù đày (nhà Carcer). Dành hỗ trợ cho những người có mối quan hệ với con cái không được như ý để cải thiện tình hình của mối quan hệ. Hàn gắng các rạng vỡ của mối quan hệ. Và hỗ trợ các mối quan hệ liên quan đến luật pháp, cai trị. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố kim tinh bảo trợ về ngôn ngữ và văn chương nói chung (Dante Alighieri). Dành cho những người làm trong lĩnh vực liên quan đến các ngành ngôn ngữ và văn chương như giáo viên, nhà thơ, nhà văn, biên kịch, thư ký, nhà nghiên cứu, thủ thư...
Thuyết Bát Quái Kinh Dịch
Thuyết Bát Quái Kinh Dịch dựa vào hình thái tinh hệ của tinh thể gồm tám loại, được phân định thành tám quái thuộc nội quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập Phương (cubic - isometric) ứng Càn , Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam Phương (rhombohedral) ứng Ly, Lục Phương (hexagonal - trigonal) ứng Đoài, Tam Tà (triclinic) ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic) ứng Tốn, Phi Tinh (noncrystallinic) ứng Khôn. Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng khác: Lập Phương ứng Càn, Tam Tà ứng Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn, Tam Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở đây chỉ trình bày thuyết của Thông Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm tám màu, ứng với tám quái thuộc ngoại quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính, đều nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ nhất được trình bày trong I-ching: Binary Numbers, Astrology, And Chakras, dựa trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng, Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ, Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành ứng bát quái cho rằng: Càn ứng dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn ứng cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề xuất dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam, Cấn ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại quái tương ứng với hình dạng và màu sắc của tinh thể, từ đó tính ra được quái trong 64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại ứng một bộ phận cơ thể theo y lý trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể. Đá Zincite có màu Cam tương ứng quẻ ngoại quái Khảm, có tinh hệ Lục Phương tương ứng quẻ nội quái Đoài, ghép lại chính là quẻ quái số
60: quẻ Thủy Trạch Tiết (節 jié). Quái số 60 ứng với vị trí lỗ ghèn trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên quan đến mắt như dị ứng mắt, tật khúc xạ
(cận thị, viễn thị, loạn thị,…), thoái hóa điểm vàng, đau mắt đỏ, tăng nhãn áp,
viêm màng bồ đào, giác mạc hình nón,…. Quẻ Thủy Trạch Tiết có nghĩa là Tiết là có hạn
mà ngừng lại. Việc mà đã có tiết độ, thì có thể đem đến được sự hanh thông, cho
nên quẻ Tiết có nghĩa hanh, người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy.
Nơi tìm thấy đá: Zincite có thể được tìm thấy ở Franklin, Khu khai thác Franklin, Công ty Sussex, New Jersey, Hoa Kỳ, Iran,…
Lời cảm ơn: bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến sĩ Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu tập Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments