Gordaite - (戈代特, qua, đại, đặc)


THUYẾT THẠCH LÝ HOÀNG ĐẠO (ZODIAC STONE THEORY)

Thuyết Thạch Lý Hoàng Đạo (Zodiac Stones Theory) là thuyết rất cơ bản của Thạch Lý Học Phương Tây, dựa trên Cung Hoàng Đạo, mười hai cung mỗi cung chủ chế một màu, tùy vào ngày bản sinh mà màu sắc đậm nhạt khác nhau theo thời gian, từ đó luận về đá bản sinh (Birthstones) được dùng nhiều trong văn hóa phương tây. Mặc dù vậy, hầu hết các tài liệu đều xếp tương đối bất đồng, từ thế kỷ 16 trở đi, hầu hết không được thống nhất. Ở đây, chỉ trích dẫn những quan điểm được công nhận rộng rãi. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo hoàng đạo như sau: Bạch Dương (21/3 đến 19/4) màu xanh đen, Kim Ngưu (20/4 đến 20/5) màu xanh dương đậm, Song Tử (21/5 đến 21/6) màu trắng trong, Cự Giải (22/6 đến 22/7) màu xanh lá mạ, Sư Tử (23/7 đến 22/8) màu đen, Xử Nữ (23/8 đến 22/9) màu cam, Thiên Bình (23/9 đến 22/10) màu lục nhạt, Thiên Yết (23/10 đến 22/11) màu lam, Nhân Mã (23/11 đến 21/12) màu vàng, Ma Kết (22/12 đến 19/1) màu đỏ tươi, Bảo Bình (20/1 đến 18/2) màu đỏ sậm, Song Ngư (19/2 đến 20/3) màu tím. Các cung hoàng đạo này được chia thành bốn nhóm Đất - Khí - Lửa - Nước và vào bốn mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông. Thuyết này được ứng dụng rộng rãi trong đời sống từ thế kỷ 18, có tương đối nhiều các dị biệt tùy vào nguồn tư liệu theo từng thời kỳ lịch sử. Ở đây, sử dụng thuyết hiện đang được công nhận rộng rãi.

Ở Việt Nam, thuyết này cũng được sử dụng khá nhiều, nhưng không hiểu vì sao trong tất cả các cuốn Thạch Lý Học của Việt Nam, ngoại trừ cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc và cuốn Tất Cả Về Khoáng Vật Chữa Bệnh Mầu Nhiệm (dịch của Jasper Stones của Nga), đều không nhắc đến thuyết này.

Theo Thuyết Thạch Lý Hoàng Đạo (Zodiac Stones Theory) thì loại đá  này màu lam (xanh dương nhạt), được xếp vào loại đá bản mệnh của mùa đông và xếp vào đá bản mệnh của cung Thiên Yết, thuộc hệ Nước. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 22 tháng 10 đến 23 tháng 11 hằng năm thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này.

Thuyết Đá tháng Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo tháng như sau: tháng một màu đỏ cam, tháng hai màu tím tươi, tháng ba màu xanh lam, tháng tư màu trắng trong, tháng năm màu lục đen, tháng sáu màu trắng đục, tháng bảy màu đỏ tươi, tháng tám màu xanh chuối, tháng chín màu xanh lá, tháng mười màu đen, tháng mười một màu vàng, tháng mười hai màu chàm.

 

THUYẾT THẠCH LÝ HOA GIÁP (HWANGAP THEORY)

Thuyết Hoa Giáp (Hwangap) có nhiều luận thuyết khác nhau. Theo phép tính theo năm, Phương Đông dựa trên Can Chi, lập luận dựa trên ngũ hành, phối màu tạo nên bộ hoa giáp sắc pháp. Từ Giáp Tý là sắc đỏ ban mai, chuyển dần cho đến Quý Hợi là sắc tím trời khuya, tạo nên hơn 60 màu khác nhau. Theo phép tính theo tháng, người ta căn cứ vào địa chi của tháng sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần, tháng 2 là Mão, tháng 3 là Thìn, tháng 4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi, tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu, tháng 9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu, cùng phối hợp với ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng dùng đá có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ thuộc Hỏa (ứng dùng đá có tông màu cam đỏ hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có tông màu trắng, xám, ánh bạc), Tý Hợi thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu đen, chàm, tím), Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ (ứng dùng đá có tông màu vàng, trong, ánh kim). Từ can và chi kết hợp, tạo thành phối 60 màu sắc khác nhau trong Hoa Giáp. Thuyết về tháng bản mệnh này được dùng nhiều rộng rãi vì đơn giản, dễ tính ra.

Cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh đều có nói đến thuyết này. Tuy nhiên, sự phân định màu sắc và ngũ hành không giống nhau. Ví dụ như Ts Hoàng Thế Ngữ trong cuốn Đá Quý Việt Nam đưa ra Hỏa ứng màu đỏ, Thủy ứng màu xanh, Thổ ứng màu nâu, Mộc ứng màu lục, Kim ứng màu vàng trắng đen. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định khác Hỏa ứng màu đỏ hồng tím, Thủy ứng màu đen sẫm, Thổ ứng vàng nâu, Mộc ứng lam lục, Kim ứng trắng bạc.

 

Thuyết Thạch lý hoa giáp tương ứng loại đá này màu xanh da trời (dương nhạt), tuỳ sắc độ từ tông lai xanh lá đến tông lai xanh dương, thuộc về các năm canh tý, tân sửu, nhâm dần, quý mão. Các nam sinh năm canh tý, nhâm dần, thuộc dương là phù hợp để đeo loại đá này. Các nữ sinh năm tân sửu, quý mão thuộc âm là phù hợp để đeo loại đá này.

THUYẾT THẠCH LÝ QUANG SẮC (CHROMATHERAPY THEORY)

Thuyết Quang Lý Học (Chromatherapy) được ra đời rất lâu từ giả kim thuật, nhưng chính thức định hình đặt tên bởi tiến sĩ Christian Agrapart. Thạch Lý Học sử dụng lại thuật ngữ này, nhưng không sử dụng liệu pháp ánh sáng như Agrapart mà lý luận dựa trên màu của loại đá. Nó gồm một phần nghiên cứu về màu sắc trong y học của Agrapart và một phần nghiên cứu về màu sắc trong tâm lý học. Màu sắc trong tâm lý học đã được nghiên cứu lâu đời như bảng phân chia màu sắc và tâm trạng "rose of temperaments" (Temperamenten Rose) của Goethe và Schiller (1798). Nhưng nghệ thuật này chỉ thăng hoa nhờ nghiên cứu của Carl Jung khi ghép tính biểu tượng của màu sắc vào tâm lý con người. Từ đó, những người nghiên cứu sau này sử dụng sự tương ứng màu sắc đó trong viên đá và đặt nền tảng lý thuyết cho Thạch Lý Học. Dựa vào bảng màu sắc đó, cho phép gợi ý đến tác động chữa bệnh hoặc lên tinh thần con người.

Ở Việt Nam, thuyết Quang Lý Học này cũng được sử dụng rộng rãi. Hầu hết các sách đều có đề cập trừ cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Trong đó cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh có thể coi là chi tiết nhất về thuyết này.

Theo Thuyết Thạch Lý Quang Sắc (Chromatherapy Theory) loại đá này màu xanh lam ≈ khám phá và cởi mở. Nó nằm giữa màu tím và màu lục trong ánh sáng quang phổ.Nó tăng cường khả năng tìm tòi, khám phá. Có tác dụng phát triển dành cho những người thiếu năng động, khép kín nhằm làm tăng tính cách hiếu động, cởi mở, ham thích du lịch. Dành cho những người trong các ngành đòi hỏi sự tò mò như các chuyên gia khoa học, những nhà thám hiểm, điều tra viên, công an, ...

Theo thời hiện đại, đây là một trong 3 màu chính của bảng màu sắc truyền thống, cùng với đỏ và lục. Ý nghĩa của màu xanh dương chính là thiết lập sự điềm tĩnh, thanh bình. Nó là màu của bầu trời và đại dương, do đó, tạo cảm giác rộng lớn, mênh mông. Màu xanh dương đi liền với cảm giác sâu thẳm, vững vàng và yên bình. Bên cạnh đó, nó còn là màu của sự trung thành, tin tưởng, thông thái, tự tin và mang lại sự ý nghĩa trong sáng, tinh khiết. Màu xanh dương có liên hệ mật thiết đối với trí tuệ và sự thông minh. Tuy nhiên, nên tránh màu xanh dương trong các trường hợp bị trầm cảm.

THUYẾT THẠCH LÝ MẬT TÔNG (BUDDHISM THEORY)

Thuyết Phật Giáo Mật Tông là phái phật giáo duy nhất có ứng dụng trong Thạch Lý Học. Lý thuyết dựa trên hình ảnh của Ngũ Trí Như Lai và Tử Thư. Ngũ Phật còn gọi là Ngũ Trí Như Lai, Ngũ Trí Phật, Ngũ Phương phật, hay còn được gọi Ngũ Thiền Định Phật; là tên gọi chỉ năm vị Phật trong Mật Tông, lấy Đại Nhật Như Lai làm chủ tôn, có sự khu biệt giữa Ngũ Phật giới Kim Cương và Ngũ Phật giới Thai Tạng. Năm đức Phật này đại diện cho 5 phẩm chất của con người và tạo ra sự tuyệt mỹ và hay nhất để phá bỏ những sai trái trong 5 phẩm chất đó. Mỗi đức Phật là một con đường tuyệt diệu để đi đến cảnh giới Niết Bàn và Vô sanh. Tu theo những vị đó sẽ mau chóng vào được cung điện Niết Bàn. Ngũ trí Như Lai là 5 vị Phật tối cao của Phật giáo Tây Tạng. Năm vị phật này đại diện bởi năm màu, gọi là Ngũ Sắc Trí (pancha-varna): Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairochana) đại diện bởi màu trắng và tím, A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya) đại diện bởi màu lam và đen, Bảo Sanh Như Lai (Ratnasambhava) đại diện bởi màu vàng và cam, A Di Đà Như Lai (Amitabha) đại diện bởi màu đỏ và hồng, Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi) đại diện bởi màu lục.  Nitin Kumar căn cứ vào kinh điển Chandamaharosana Tantra dẫn ra những quy tắc sử dụng màu săc trong mật tông, đáng chú ý cho rằng: màu lam đại diện cho phẫn nộ tướng ứng vị trí tai, màu vàng đại diện cho sinh dưỡng tướng ứng vị trí mũi, màu đỏ đại diện cho vô úy tướng ứng miệng, màu lục đại diện cho uy đức tướng ứng vị trí đầu. Trong Tử Thư Tây Tạng cũng tuyên về màu sắc tương ứng lục đạo: ánh sáng trắng là của cõi trời, ánh sáng đỏ là của cõi Atula, ánh sáng lam là của cõi người, ánh sáng lục là của cõi súc sanh, ánh sáng vàng là của cõi quỷ đói, ánh sáng xám là của cõi địa ngục.

Ở Việt Nam, thuyết này hầu như chưa bao giờ được nhắc đến trong các sách Thạch Lý Học đã xuất bản. Tuy nhiên một số kinh sách về ngũ sắc trí đã được dịch và xuất bản những năm gần đây như Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe Trong Bardo của Guru Rinpoche, Những Giáo Pháp Bí Mật Của Tử Thư Tây Tạng của Detlef Ingo Lauf.

Thuyết Phật Giáo Mật Tông, loại đá này có màu lam, là bổn sắc của A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya). Ngài là sự chuyển hóa của sân hận thành từ bi. Màu lam và đen đại diện cho phẫn nộ tướng ứng với tai. Đeo đá này sẽ được A Súc Bệ Như Lai Phật hộ trì, hỗ trợ về tai và sự điềm tĩnh. Vì đây cũng là màu của cõi người, đá này được coi là bùa hộ về thính dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về thính dục thông qua vị phật phẫn nộ. Tử Thư cho rằng màu này cũng được hộ lãnh bởi Phật Tỳ Lô Giá Na và Phật Kim Cương Tát Đỏa. Tử Thư nói về màu lam như sau:

Bầu trời hiện ra màu lam và chính giữa có đức Phật Tỳ Lô Giá na, tượng trưng cho sự thật tuyệt đối hay sự trong sạch vô biên, xuất hiện. Từ tim của đức Phật Kim Cương Tát Đỏa, trên tấm vải màu lam quang minh của Đại viên cảnh trí, sẽ xuất hiện một cái dĩa lam giống như một cái chén màu lam ngọc, hướng mặt xuống, được trang hoàng bằng những cái dĩa và những cái dĩa nhỏ hơn.

THUYẾT THẠCH LÝ LINH KHÍ (REIKI THEORY)

Thuyết Thạch Lý Linh Khí (Reiki Theory), dựa trên sự kết hợp của hệ thống Kinh Lạc trong Y Thuật Trung Hoa, hệ thống Luân Xa trong Y Thuật Ấn Độ và thuyết Ngũ Hành trong thạch học, dùng trong xoa bóp, ấn huyệt, được đề xuất bởi Mikao Usui năm 1922. Nếu hệ thống luân xa thật sự ít khi được áp dụng trong Reiki thực hành, hệ thống Kinh Lạc lại được sử dụng trong ấn huyệt rất rộng rãi. Kinh lạc là đường khí huyết vận hành trong cơ thể, đường chính của nó gọi là kinh, nhánh của nó gọi là lạc, kinh với lạc liên kết đan xen ngang dọc, liên thông trên dưới trong ngoài, là cái lưới liên lạc toàn thân. Kinh lạc phân ra hai loại kinh mạch và lạc mạch.Trong kinh mạch gồm chính kinh và kỳ kinh, chính kinh có mười hai sợi, tả hữu đối xứng, tức thủ túc tam âm kinh và thủ túc tam dương kinh, gọi chung mười hai kinh mạch, mỗi kinh thuộc một tạng hoặc một phủ. Kỳ kinh có tám sợi, tức đốc mạch, nhâm mạch, xung mạch, đái mạch, âm duy mạch, dương duy mạch, âm kiểu mạch, dương kiểu mạch. Thông thường nhắc đến mười hai kinh mạch và thêm vào hai mạch nhâm đốc gọi chung mười bốn kinh mạch chính. Bệnh tật đều do sự vận hành bế tắc của khí luân chuyển trong 12 kinh mạch này, nếu được khơi thông, ắt sẽ hết bệnh tật. Y Tông Tâm Lĩnh bàn về Kinh Lạc nói, mười hai kinh lạc, có Thủ thái âm phế kinh (手太阴肺) thuộc về hành Kim, Thủ thiếu âm tâm kinh ( 手少阴心) thuộc về hành Hỏa, Thủ quyết âm tâm bào kinh (手厥阴心包) thuộc về hành Hỏa, Thủ thiếu dương tam tiêu kinh (手少阳三焦) thuộc về  hành Hỏa, Thủ thái dương tiểu tràng kinh (手太阳小肠经) thuộc về hành Hỏa, Thủ dương minh đại tràng kinh (阳明大肠经) thuộc về hành Kim), Túc thái âm tỳ kinh (足太阴脾) thuộc về hành Thổ, Túc thiếu âm thận kinh (足少肾经) thuộc về hành Thủy, Túc quyết âm can kinh (足厥阴肝) thuộc về hành Mộc, Túc thiếu dương đảm kinh (足少阳胆) thuộc về hành Mộc, Túc thái dương bàng quang kinh (足太阳膀胱) thuộc về hành Thủy, Túc dương minh vị kinh (阳明胃) thuộc về hành Thổ. Mỗi mạch lại ứng những bệnh lý khác nhau. Cách sử dụng truyền thống là dùng đá phù hợp làm thành cây ấn huyệt để trị liệu khơi thông kinh mạch, giống với châm cứu. Lục và Lam thuộc Mộc, Đỏ và Cam thuộc Hỏa, Vàng và Trong thuộc Thổ, Trắng và Xám thuộc Kim, Đen và Tím thuộc Thủy.

Ở Việt Nam, hầu như không có tài liệu về môn này hoặc tài liệu về Reiki từng được xuất bản, tuy nhiên, nhiều học giả cho biết đã từng có sách về môn này xuất bản trước 1975 mà chúng tôi chưa có dịp khảo cứu được.

Thuyết Thạch Lý Linh Khí (Reiki Theory) cho rằng đá này có màu lam được coi là thuộc về hành Thủy, vì vậy có tác dụng với Túc quyết âm can kinh và Túc thiếu dương đảm kinh. Túc quyết âm can kinh chủ trị về bệnh can, bao quát bệnh cao huyết áp, nhức đầu, mất ngủ, hay chiêm bao, bệnh đảm, bệnh hệ sinh dục tiết niệu, và bệnh chứng của bộ vị kinh này đi qua.Túc thiếu dương đảm kinh chủ trị về bệnh chứng của các bộ vị bên đầu, mắt, tai, ngực sườn, bệnh can đảm, bệnh thần chí, bệnh phát sốt, xây xẩm, sưng chân, táo bón và bệnh chứng của bộ vị kinh này đi qua.Các bệnh này sẽ được chữa lành bằng cách sử dụng các viên đá để ấn vào các huyệt đạo thuộc kinh lạc tương ứng.

THUYẾT THẠCH LÝ NGŨ HÀNH (WUHANH THEORY)

Thuyết Ngũ Hành dựa trên lý học phương đông, canh theo can chi bản mệnh của một người theo ngày tháng năm sinh, rồi tính sự xung khắc hay tương hợp trong ngũ hành. Từ đó đưa ra nguyên tắc vận dụng trong thạch học, nhờ vào ngũ hành trong khoáng thạch đối chế lại với bản mệnh, nhằm điều hòa bản thân. Thuyết Ngũ Hành quy định theo thiên can: Giáp Ất thuộc Mộc, Bính Đinh thuộc Hỏa, Mậu Kỷ thuộc Thổ, Canh Tân thuộc Kim, Nhâm Quý thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành quy định theo địa chi: Dần Mão thuộc Mộc, Ngọ Mùi thuộc Hỏa, Thân Dậu thuộc Kim, Hợi Tý thuộc Thủy, Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ. Từ thiên can, địa chi, quy định nên phối hành của bản mệnh: Mậu Thìn thuộc về Thổ phối Thổ,… Khoáng thạch được phân theo ngũ hành dựa trên màu sắc và hình dạng. Thuyết Ngũ Hành quy định màu sắc: Lục và Lam thuộc Mộc, Đỏ và Cam thuộc Hỏa, Vàng và Trong thuộc Thổ, Trắng và Xám thuộc Kim, Đen và Tím thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành quy định theo thể dạng: trụ và dài thuộc Mộc, nhọn và góc thuộc Hỏa, vuông và cân thuộc Thổ, cong và tròn thuộc Kim, uốn và lượn thuộc Thủy. Từ đó suy ra được phối hành của khoáng thạch: ví dụ Huyền Thiết Thạch (Hematite) đen có thể dạng khối tròn (Botryoidal) được xem là Thủy phối Kim. Thuyết Ngũ Hành quy định tương sinh như sau: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Thuyết Ngũ Hành quy định tương khắc như sau: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc. Dựa vào tương sinh tương khắc của Ngũ Hành để khắc chế hay phù trợ cho bản mệnh thông qua việc đeo những khoáng thạch khác nhau trên cơ thể.

Ở Việt Nam, thuyết Hoa Giáp được trình bày trong hầu hết các sách về Thạch Lý Học, nhưng hầu hết chỉ dừng lại ở lý luận về màu sắc theo thuyết Ngũ hành. Cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh đều có nói đến thuyết này. Tuy nhiên, sự phân định màu sắc và ngũ hành không giống nhau. Ví dụ như Ts Hoàng Thế Ngữ trong cuốn Đá Quý Việt Nam đưa ra Hỏa ứng màu đỏ, Thủy ứng màu xanh, Thổ ứng màu nâu, Mộc ứng màu lục, Kim ứng màu vàng trắng đen. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định khác Hỏa ứng màu đỏ hồng tím, Thủy ứng màu đen sẫm, Thổ ứng vàng nâu, Mộc ứng lam lục, Kim ứng trắng bạc. Cá biệt có cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm là có nhắc đến thuyết này ứng dụng lý luận lên hình dạng của tinh thể, tuy nhiên không có khai triển đầy đủ. Thuyết này các phái đạo gia phong thủy khai thác và phát triển rất hoàn chỉnh, được trình bày tóm tắt như bên trên đây.

Thuyết Ngũ Hành cho rằng Lam Đồng Quáng thuộc về Mộc (xanh dương đậm) phối Hỏa (nhọn), tức Mộc Cục. Do đó, Lam Đồng Quáng giúp khắc chế các bản mệnh Thủy – Hỏa như Nhâm Ngọ, Quý Tỵ, Bính Tý, Đinh Hợi, vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Lam Đồng Quáng cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Hỏa (Mộc sinh Hỏa), gồm mệnh thuộc Hỏa Mộc và thuần Hỏa: Bính Dần, Đinh Mão, Giáp Ngọ, Ất Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Tỵ, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại ngọc này.

THUYẾT THẠCH LÝ TỨ TRỤ

Thuyết Tứ Trụ (Sìzhù) có thể ứng dụng từ Bát Tự trong Thuyết Tứ Trụ để bổ cứu, dựa vào màu của đá để tương hỗ lấy mệnh. Chủ yếu dựa vào thiên can, lấy âm dương và ngũ hành của thiên can để tính lấy bốn phép Kiêu Ấn, Thực Thương, Tỷ Kiếp, Quan Sát và Tài, dụng vào địa chi mà thành Thập Thần. Từ đó luận ra được Nhật Can và Nguyệt Lệnh, dựa vào sự phối hợp của nó trong sinh thời mà dự biết lợi yếu của bản mệnh. Biết được lợi yếu của bản mệnh rồi, mới dùng ngũ hành trong đá ngọc mà điều hòa. Có sách viết: Nhật Can mạnh yếu cần có sự tương trợ của Nguyệt Lệnh. Trong trường hợp không có Nguyệt Lệnh hỗ trợ, các can chi trong trụ liền suy yếu. Có thể dùng phương pháp đá phong thủy để bổ cứu, điều hậu cho Nhật Can.

Ở Việt Nam, thuyết Tứ Trụ được sử dụng cực kỳ nhiều, tất cả các sách Thạch Lý Học tại Việt Nam đều có dẫn xuất như cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh , cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc. Tuy nhiên, có khá nhiều sai biệt giữa các sách với nhau về cách tính, điều này cũng dễ hiểu vì đây là ứng dụng tùy thuộc vào cách luận Tứ Trụ. Ở đây chỉ giữ lại một thuyết để thống nhất là sử dụng sách của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm.

Theo thuyết Tứ Trụ, đá ngọc có màu lam thuộc mệnh Mộc.

Đá ngọc thuộc mệnh Mộc cũng rất hạp với Hỏa sinh mùa đông. Hỏa mùa đông phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh, nếu không Thủy vượng sẽ tiêu diệt Hỏa, mãi mãi khó có thể đứng dậy. Hỏa mùa đông thân yếu có Hỏa đến giúp thì Tỷ Kiếp khác Tài tinh, có thể nhìn thấy tiền tài phát triển thịnh vượng, nhưng duyên với vợ bạc, quan hệ không thân mật, hoặc vợ có tình trạng sức khỏe không tốt. Nếu chỉ có Tỷ Kiếp mà không có Tài, đại diện cho vận thế thuận lợi, không có lợi ích thực tế.

THUYẾT THẠCH LÝ LU N XA (CHAKRA THEORY)

Thuyết Luân Xa (Chakra) được trình bày trong trào lưu Thời Đại Mới (New Age) bởi các lãnh tụ Thông Thiên Học như Johann Georg Gichtel, hoặc Yoga như Swami Sivananda. Vẫn vận dụng chủ yếu là màu sắc của viên đá, được dịch nghĩa theo hình ảnh các luân xa trong văn hóa Ấn Độ trong Áo Nghĩa Thư. Từ nguyên thủy trong tiếng Sanskrit cakra mang ý nghĩa là "bánh xe" hay "vòng tròn", các luân xa được miêu tả như là xếp thành một cột thẳng từ gốc của cột sống lên đến đỉnh đầu, liên quan tới một số chức năng tâm sinh lý, một khía cạnh của nhận thức, đánh dấu bởi một màu sắc nào đó. Chúng thường được hình tượng hóa bằng các hoa sen với số cánh khác nhau cho mỗi luân xa. Các luân xa được cho là đem lại năng lượng cho cơ thể và có liên quan đến các phản ứng của cơ thể, tình cảm hay tâm lý của một người, là các điểm chứa năng lượng sống (prana, cũng được gọi là shakti) lưu chuyển giữa các điểm đó dọc theo các đường chảy (gọi là nadis). Chức năng của các chakra là xoay tròn để thu hút vào năng lượng sống từ viên đá để giữ cân bằng cho sức khỏe về tâm linh, tâm lý, tình cảm và sinh lý của cơ thể.

Ở Việt Nam, thuyết Luân Xa được biết đến rộng rãi nhất trong số các thuyết về thạch lý học. Tất cả các sách đều có đề cập đến thuyết này trừ cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Sự nhận định cũng ít nhiều sai khác. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định Luân xa gốc ứng màu đỏ đen, luân xa xương cùng ứng màu cam phấn hồng, luân xa thái dương ứng màu vàng, luân xa tim ứng màu xanh lá, luân xa họng ứng màu xanh lam, luân xa trán ứng màu chàm tím, luân xa vương miện ứng màu trắng và tím nhạt.

Vishuddha (tiếng Phạn: विशुद्ध, IAST: Viśuddha, tiếng Anh: "sự thuần khiết đặc biệt"), hoặc Vishuddhi, hoặc chakra cổ họng là chakra chính thứ năm theo truyền thống Mật Tông Hindu. Nội tiết tố: Thyroid (tuyến giáp).Vishuddha được đặt ở khu vực họng, gần xương sống, với Kshetram (vị  trí thiêng liêng) hay điểm kích hoạt bề mặt trong hố cổ họng. Do vị trí của nó, nó được gọi là Chakra cổ họng. Theo truyền thống Ấn Độ giáo, chakra này được mô tả là có một "màu trắng" với mười sáu cánh hoa màu "tím" hoặc màu "khói" của Ấn Độ cổ, thường tương ứng với màu xanh dương của màu hiện đại.

Trong hệ thống của Sufi Lataif-e-sitta, không có Lataif trong cổ họng, nhưng có ba trong khu vực của trái tim được sắp xếp theo chiều ngang và không theo chiều dọc. Đó là Qalb, hay trái tim, là chiến trường giữa các lực lượng thấp của Nafs và lực lượng cao hơn của Ruh, hay tinh thần; Ruh, được một số người cho là nằm ở phía bên phải của ngực; và Sirr, hay bí mật, nằm giữa  cả hai và ở giữa ngực.

THUYẾT THẠCH LÝ VI LƯỢNG TRỊ LIỆU (OLIGOTHERAPY THEORY)

Thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy) đề xuất bởi bác sĩ Jacques Ménétrier và Gabriel Bertrand, vào giữa thế kỷ 20. Những người thực hành Thạch Lý Học áp dụng lý thuyết này trong việc trị liệu thông qua cơ sở giống như Thuyết Vi Lượng Đồng Căn (Homeopathy) của Samuel Hahnemann. Christian Friedrich Samuel Hahnemann (1755-1843), một nhà vật lý học, hóa học và y học người Đức, đã đưa ra một lý thuyết liên quan đến sự quan hệ yếu tố trong chứng và chất của cơ thể người, sau này phát triển thành hệ thống Vi Lượng Đồng Căn. Mỗi vi lượng trong đá được cho là sẽ tác động đến vi lượng tương ứng trong cơ thể người, và nhờ đó bộ phận chứa vi lượng đó được chữa khỏi.

Ở Việt Nam, thuyết Vi Lượng được nhắc đến duy nhất trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh, nhưng khá sơ khai, vì cho rằng đây là thuyết phức tạp, chuyên sâu. Các cuốn khác, hầu như không hề biết gì về thuyết này.

Mỗi viên đá, bằng vi lượng chứa trong nó, được tin là sẽ tác động lên phần sinh lý cơ thể, giúp gợi ý cho việc chữa bệnh hoặc tác động lên tinh thần.

Đá này có công thức là [NaZn4(SO4)(OH)6Cl·6H2O], bao gồm các nguyên tố: Zn (zincum, Tiếng Việt: kẽm), H (hydrogen, Tiếng Việt: hydro), O (oxygen, Tiếng Việt: oxy), S (sulfur, Tiếng Việt: lưu huỳnh), Na (natrium, Tiếng Việt: natri), Cl (chlorum, Tiếng Việt: clo).

Trong cơ thể con người, Silic (Si) chiếm chỉ số năng lượng (MASS) là 0,0023, tỉ lệ nguyên tố là 0.0058, vì vậy nó tác động tích cực cho sức khỏe, mặc dù, tác dụng không rõ ràng ở chứng bệnh hay vị trí nào của cơ thể.

Nguyên tố Oxygen (O) có số nguyên tử là 8, chiếm tỉ trọng trong cơ thể người là 0.65. Thành phần của nguyên tố này trong cơ thể trung bình là 43kg chiếm tỷ lệ là 24%. Tác động đến sức khỏe và sự sống của hầu hết các loài động thực vật trên thế giới.

Nguyên tố Carbon (C) có số hiệu nguyên tử là 6, tỉ trọng cúa nó trong cơ thể ta là 0.18, khối lượng trung bình 16kg chiếm tỷ lệ 12% trong cơ thể. Tác động tích cực cho sức khỏe do Carbon là thành phần chính cấu tạo nên sinh vật sống. Tuy nhiên, thuyết Oligotherapy chú trọng vào các vi chất, chứ không phải các chất cơ bản, nên thường Carbon không được tính vào thuyết này.

Nguyên tố Nitrogen (N) có số hiệu nguyên tử là 7, tỉ trọng trong cơ thể người là 0.03, khối lượng trung bình 1.8kg đạt tỷ lệ 1.1% trong cơ thể. Tác động tích cực cho sức khỏe do Nitro là thành phần chủ yếu của cơ bắp của sinh vật, cấu tạo nên ADN và các amino axit. Tác dụng lên cơ bắp, hỗ trợ khả năng vận động, cử động. Được cho là có tác dụng hỗ trợ điều trị thương tích ở cơ và phục hồi cơ.

Nguyên tố Calcium (Ca) có số nguyên tử là 20, tỉ trọng Canxi trong cơ thể là 0.014 và khối lượng trung bình trong cơ thể người là 1kg đạt tỷ lệ là 0.22%. Tác động tích cực cho sức khỏe do Canxi là thành phần chủ yếu của răng và hệ xương, đặc biệt là trong các thành phần Calmodulin và Hydroxylapatite. Tác dụng lên hệ xương, chiều cao, sự vận động và phục hồi xương. Được coi là có tác dụng tốt cho chứng gãy xương, hay tăng chiều cao ở trẻ em. Được sử dụng nhiều cho các vận động viên, hoặc các ngành nghề cơ bắp.

Nguyên tố Phosphorus (P) có số nguyên tử là 15, tỉ trọng trong cơ thể là 0.011, đạt khối lượng trung bình 0.78kg chiếm tỷ lệ 0.22%. Tác động tích cực cho sức khỏe do phốt pho là thành phần chủ yếu của răng và hệ xương, đặc biệt trong quá trình phosphorylation. Tác dụng lên hệ xương, chiều cao, sự vận động và phục hồi xương. Được coi là có tác dụng tốt cho chứng gãy xương, hay tăng chiều cao ở trẻ em. Được sử dụng nhiều cho các vận động viên, hoặc các ngành nghề cơ bắp

Nguyên tố Potassium (K) có nguyên tử khối là 19, tỉ trọng cơ thể là 0.25 và có khối lượng trung bình 0.14kg đạt tỷ lệ 0.033%. Tác động vừa tích cực do Kali là thành phần chủ chốt trong các dây thần kinh nơ ron, và các búi co cơ trong cơ thể. Tác dụng lên các bệnh về cơ khớp, và các bệnh về thần kinh hoặc tâm lý.

Nguyên tố Sulfur (S) có nguyên tử khối là 16, tỉ trọng cơ thể là 0.25, khối lượng trung bình 0.14kg, tỷ lệ nguyên tố là 0.038% trong không khí. Tác động tích cực cho sức khỏe do lưu huỳnh là thành phần chủ yếu của cơ bắp của sinh vật. Lưu huỳnh cũng cấu thành nên nhiều chất hóc môn trong cơ thể như Cysteine, Methionine, Biotin, Thiamine.Tác dụng lên cơ bắp, hỗ trợ khả năng vận động, cử động. Được cho là có tác dụng hỗ trợ điều trị thương tích ở cơ và phục hồi cơ.

Nguyên tố Sodium (Na) có số hiệu nguyên tử là 11, tỉ trọng trong cơ thể là 0.15 đạt khối lượng trung bình 0.1kg chiếm tỷ lệ nguyên tố là 0.037%. Tác động vừa tích cực do Natri là thành phần chủ chốt trong các xung thần kinh nơ ron, và các búi cơ trong cơ thể. Tác dụng lên các bệnh về cơ khớp, và các bệnh về thần kinh hoặc tâm lý. Các ion Na đóng vai trò quan trọng trong nhiều quá trình sinh lý của cơ thể.

Nguyên tố Chlorine (Cl) là nguyên tố có số nguyên tử là 17, trong cơ thể người đạt 0.15 tỉ trọng và có khối lượng trung bình là 0.095kg chiếm tỷ lệ 0.024% trong cơ thể chúng ta. Tác động tích cực do Clo là thành phần tạo nên dịch ngoại bào. Tác dụng lên tế bào, hỗ trợ điều trị chung trong cơ thể.

Nguyên tố Magnesium (Mg) có số hiệu nguyên tử là 12, chiếm tỉ trọng cơ thể là 500x10-4 và khối lượng trung bình 0.019kg đạt tỷ lệ nguyên tố là 0.007% trong cơ thể người. Tác động vừa tích cực cho sức khỏe do Magnesium là nguyên tố chủ đạo của xương và phần cứng trong cơ thể. Tác dụng lên hệ xương, chiều cao, sự vận động và phục hồi xương. Được coi là có tác dụng tốt cho chứng gãy xương, hay tăng chiều cao ở trẻ em. Được sử dụng nhiều cho các vận động viên, hoặc các ngành nghề cơ bắp

Nguyên tố Iron (Fe) chỉ số nguyên tử là 26, trong cơ thể người đạt tỉ trọng là 60*10-4, khối lượng trung bình 0.0042kg chiếm tỷ lệ 0.00067%. Tác động vừa tích cực cho sức khỏe do sắt là nguyên tố chủ đạo trong máu (Hemoglobin, Cytochromes) và vài loại hóc-môn trong cơ thể. Tác dụng lên hệ tuần hoàn, máu huyết. Được coi là có tác dụng tốt trong việc cầm máu, chữa các chứng xuất huyết, và các chứng liên quan đến máu.

Nguyên tố Fluorine (F) số hiệu nguyên tử là 9, đạt tỉ trọng trong cơ thể người  là 0.034 và có khối lượng trung bình đạt 0.0026kg chiếm tỷ lệ là 0.0012% so với các nguyên tố khác. Tác động tích cực cho sức khỏe do có liên hệ với sự phát triển của răng. Tác dụng lên các chứng bệnh về răng như đau răng, sưng nướu, các bệnh răng vàng, hôi miệng ...

Nguyên tố Zinc (Zn) nguyên tử khối là 30, tỉ trọng cơ thể là 32x10-4, khối lượng trung bình 0.0023kg, tỷ lệ nguyên tố là 0.00031% trong không khí. Có vai trò trong việc tạo ra nhiều loại protein khác nhau của cơ thể, đặc biệt là các chi và ngón tay chân.

Nguyên tố Silicon (Si) có số nguyên tử là 14, chiếm tỉ trọng trong cơ thể là 20x10-4 và có khối lượng trung bình 0.001kg đạt tỷ lệ nguyên tố là 0.0058%.

Nguyên tố Rubidium (Rd) có số hiệu nguyên tử là 37. Đạt tỉ trọng là 4.6x10-4, khối lượng trung bình khoản 0.00068kg chiếm tỷ lệ so với các nguyên tố khác trong cơ thể chúng ta là 0.000033%.

Nguyên tố Strontium (Sr) có số nguyên tử là 38, chiếm tỉ trọng 4.6x10-4 ,trong cơ thể và  khối lượng ở mức trung bình là 0.00032kg chiếm tỷ lệ nguyên tố là 0.000033% trong không khí. Tác động tích cực cho sức khỏe do có liên hệ với sự phát triển của xương. Tác dụng lên hệ xương, chiều cao, sự vận động và phục hồi xương. Được coi là có tác dụng tốt cho chứng gãy xương, hay tăng chiều cao ở trẻ em. Được sử dụng nhiều cho các vận động viên, hoặc các ngành nghề cơ bắp.

Nguyên tố Bromine (Br) số hiệu nguyên tử là 35,chiếm 2.9×10-7 tỉ trọng cơ thể, khối lượng trung bình khoản 0.00026kg chiếm tỷ lệ là 0.00003% khối lượng cơ thể người. Tác động tích cực lên da và các vùng da của cơ thể, do thành phần có liên hệ đến collagen. Tác động tốt cho người có vấn đề về da, và các bệnh lý về da như nổi mẫn, lở loét, bỏng ...

Nguyên tố Lead (Pb) số hiệu nguyên tử là 82, tỉ trọng Chì trong cơ thể là 1.7×10-4 và đạt khối lượng trung bình 0.00012kg chiếm tỷ lệ nguyên tố là 0.0000045% so với những nguyên tố khác. Có tác dụng nhất định với cơ thể con người, dù chưa rõ ràng.

Nguyên tố Copper (Cu) số hiệu nguyên tử là 29, Đồng có tỉ trọng trong cơ thể chúng ta là 0.001 và có khối lượng trung bình 0.000072kg đạt tỷ lệ nguyên tố là 0.0000104% so với những nguyên tố khác.  Có tác dụng nhất định với cơ thể con người, dù chưa rõ ràng.

Nguyên tố Aluminum (Al) số hiệu nguyên tử là 13, tỉ trọng của nguyên tố Nhôm trong cơ thể chúng ta là 870×10-7 đạt khối lượng trung bình 0.00006kg chiếm tỷ lệ so với các nguyên tố khác là 0.000015%.   Có tác dụng nhất định với cơ thể con người, dù chưa rõ ràng.

Nguyên tố Cadmium (Cd) số hiệu nguyên tử là 48, đạt tỉ trọng 720×10-7 ở cơ thể người. Cadimi có  khối lượng trung bình 0.00005kg chiếm tỷ lệ nguyên tố là 0.0000045% trong cơ thể. Có tác dụng nhất định với cơ thể con người, dù chưa rõ ràng.

Nguyên tố Cerium (Ce) số hiệu nguyên tử là 58. Nguyên tố này có tỉ trọng trong cơ thể là 570×10-7, Xêri có khối lượng trung bình 0.00004kg đạt tỷ lệ nguyên tố là 0.000004% trong cơ thể.   Có tác dụng nhất định với cơ thể con người, dù chưa rõ ràng.

Nguyên tố Barium (Ba) số hiệu nguyên tử là 56, Bari có tỉ trọng trong cơ thể là 310×10-7 và khối lượng trung bình của nó là 0.000022kg chiếm tỷ lệ nguyên tố là 0.0000012% so với nguyên tố khác.   Có tác dụng nhất định với cơ thể con người, dù chưa rõ ràng.

Nguyên tố Tin (Sn) số hiệu nguyên tử là 50, Thiếc có tỉ trọng trong cơ thể là 240×10-7, khối lượng trung bình 0.00002kg chiếm tỷ lệ nguyên tố là 6.00E-07%. Tác động đến sức khỏe và sự sống của hầu hết các loài động thực vật trên thế giới.

Nguyên tố Iodine (I) số hiệu nguyên tử là 53, tỉ trọng cơ thể là 160×10-7. I-ot có khối lượng trung bình 0.00002kg trong cơ thể đạt tỷ lệ nguyên tố là 7.50E-07%. Tác động vừa tích cực cho sức khỏe do I ốt là nguyên tố chủ đạo của một vài loại hóc môn trong cơ thể như thyroxine, triiodothyronine. Tác dụng lên tâm trạng, và sự điều hòa chung cho cơ thể.

Nguyên tố Titanium (Ti) số hiệu nguyên tử là 22, tỉ trọng cơ thể là 130×10-7, khối lượng trung bình 0.00002kg, tỷ lệ nguyên tố là 0% trong không khí.   Có tác dụng nhất định với cơ thể con người, dù chưa rõ ràng.

Nguyên tố Boron (B) số hiệu nguyên tử là 5, tỉ trọng cơ thể là 690×10-7, khối lượng trung bình 0.000018kg, tỷ lệ nguyên tố là 0.000003% trong không khí, Các hợp chất bo được sử dụng như thành phần trong các màng thấm đường, phần tử nhạy cacbonhiđrat và tiếp hợp sinh học. Các ứng dụng sinh học được nghiên cứu bao gồm liệu pháp giữ nơtron bằng bo và phân phối thuốc trong cơ thể. Các hợp chất khác của bo có hứa hẹn trong điều trị bệnh viêm khớp, Ung thư..

Nguyên tố Manganese (Mn) số hiệu nguyên tử là 25, tỉ trọng cơ thể là 170×10-7, khối lượng trung bình 0.000012kg, tỷ lệ nguyên tố là 0.0000015% trong không khí. Loại đá này chứa Mangan, một trong cấu thành của chất MnSOD trong cơ thể. Chất MnSOD là một chất chống oxi hóa phân giải dây chuyền, là nguyên nhân gây ra bệnh ung thư, các bệnh viêm da, xơ vữa động mạch, và lão hóa. Vì vậy, thành phần mangan được cho là có tác dụng tốt đối với các bệnh ung thư, đặc biệt liên quan tim mạch.

Nguyên tố Lithium (Li) số hiệu nguyên tử là 3, tỉ trọng cơ thể là 31×10-7, khối lượng trung bình 0.000007kg, tỷ lệ nguyên tố là 0.0000015% trong cơ thể. Là chất ổn định được thần kinh dùng trong rối loạn lưỡng cực, trung hòa được cả hai sự cuồng và trầm cảm. Lithium có thể dùng phối nhằm tăng hiệu quả của các thuốc chống trầm cảm khác. Các muối liti có thể củng giúp ít trong việc chẩn đoán liên quan như rối loạn schizoaffective và trầm cảm có chu kỳ.

Nguyên tố Arsenic (As) số hiệu nguyên tử là 33, tỉ trọng cơ thể là 260×10-7, khối lượng trung bình 0.000007kg, tỷ lệ nguyên tố là 8.90E-08% trong cơ thể. Hỗ trợ các phản ứng trong cơ thể. Điều hòa hoạt động tương tác với các vitamin.

Nguyên tố Molybdenum (Mo) số hiệu nguyên tử là 42, tỉ trọng cơ thể là 130×10-7, khối lượng trung bình 0.000005kg, tỷ lệ nguyên tố là 4.50E-08% trong cơ thể. Vai trò quan trọng nhất của các nguyên tử molypden trong các sinh vật sống là các nguyên tử dị-kim loại trong khu vực hoạt hóa của một số enzym nhất định. Enzym nitrogenaza tham gia vào bước cuối cùng để khử phân tử nitơ thường chứa molypden trong khu vực hoạt hóa. Nhu cầu hấp thụ trung bình mỗi ngày đối với molypden là khoảng 0,3 mg.

Nguyên tố Wolfram (W) số hiệu nguyên tử là 74, tỉ trọng cơ thể là 1.3×10-7, khối lượng trung bình 0.00000002kg, tỷ lệ nguyên tố là 8.90E-08% trong cơ thể. Là nguyên tố nặng nhất được có mặt trong cơ thể xuất hiện trong các enzyme  enzyme oxidoreductase. Các enzyme mang Wolfram thường khử các acide carbonyl thành các aldehyde.

Nguyên tố Selenium (Se) số hiệu nguyên tử là 34, tỉ trọng cơ thể là 190×10-7, khối lượng trung bình 0.000015kg, tỷ lệ nguyên tố là 4.50E-08% trong không khí.  Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

Nguyên tố Nickel (Ni) số hiệu nguyên tử là 28, tỉ trọng cơ thể là 140×10-7, khối lượng trung bình 0.000015kg, tỷ lệ nguyên tố là 0.0000015% trong không khí.  Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

Nguyên tố Chromium (Cr) số hiệu nguyên tử là 24, tỉ trọng cơ thể là 24×10-7, khối lượng trung bình 0.000014kg, tỷ lệ nguyên tố là 8.90E-08% trong không khí. Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

Nguyên tố Mercury (Hg) số hiệu nguyên tử là 80, tỉ trọng cơ thể là 190×10-7, khối lượng trung bình 0.000006kg, tỷ lệ nguyên tố là 8.90E-08% trong cơ thể. Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

Nguyên tố Caesium (Cs) số hiệu nguyên tử là 55, tỉ trọng cơ thể là 21×10-7, khối lượng trung bình 0.000006kg, tỷ lệ nguyên tố là 1.00E-07% trong cơ thể. Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

Nguyên tố Germanium (Ge) số hiệu nguyên tử là 32, tỉ trọng cơ thể là 130×10-7, khối lượng trung bình 5×10−6kg, tỷ lệ nguyên tố là 0% trong cơ thể. Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

Nguyên tố Cobalt (Co) số hiệu nguyên tử là 27, tỉ trọng cơ thể là 21×10-7, khối lượng trung bình 0.000003kg, tỷ lệ nguyên tố là 3.00E-07% trong cơ thể. Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

Nguyên tố Atimoni (Sb) số hiệu nguyên tử là 51, tỉ trọng cơ thể là 110×10-7, khối lượng trung bình 0.000002kg, tỷ lệ nguyên tố là 0% trong cơ thể. Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

Nguyên tố Silver (Ag) số hiệu nguyên tử là 47, tỉ trọng cơ thể là 10×10-7, khối lượng trung bình 0.000002kg, tỷ lệ nguyên tố là 0% trong cơ thể. Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người. Trong y học, ông tổ ngành y Hyppocrates đã sử dụng bạc để chữa bệnh và ghi chép lại trong y văn của mình rằng: “Bạc có tính chất ngăn ngừa và chống lại một số loại bệnh”. Trong thế chiến thứ nhất, trước khi có các loại thuốc kháng sinh, bạc là “dược phẩm” quan trọng để chống lại bệnh tật nơi chiến trường. Năm 1920, dung dịch muối bạc được FDA (Hoa Kỳ) chấp thuận cho sử dụng làm chất kháng khuẩn. Ngoài ra, các thầy thuốc ở phương Bắc còn sử dụng một loại dung dịch có chứa nguyên tố bạc gọi là keo bạc trong nhiều bài thuốc trị bệnh bí truyền có tác dụng đặc trị các chứng bệnh tiêu hóa, hô hấp, nhiễm trùng, lở loét. Đông y sử dụng đồng bạc xòe, thìa bạc để cạo gió, đánh cảm từ lâu.

Nguyên tố Niobium (Nb) số hiệu nguyên tử là 41, tỉ trọng cơ thể là 1600×10-7, khối lượng trung bình 0.0000015kg, tỷ lệ nguyên tố là 0% trong cơ thể. Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

Nguyên tố Zirconium (Zr) số hiệu nguyên tử là 40, tỉ trọng cơ thể là 6000×10-7, khối lượng trung bình 0.000001kg, tỷ lệ nguyên tố là 3.00E-07% trong cơ thể. Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

Nguyên tố Lanthanum (La) số hiệu nguyên tử là 57, tỉ trọng cơ thể là 1370×10-7, khối lượng trung bình 0.0000008kg, tỷ lệ nguyên tố là 0% trong cơ thể. Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

Nguyên tố Tellurium (Te) số hiệu nguyên tử là 52, tỉ trọng cơ thể là 120×10-7, khối lượng trung bình 0.0000007kg, tỷ lệ nguyên tố là 0% trong cơ thể. Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

Nguyên tố Gallium (Ga) số hiệu nguyên tử là 31, tỉ trọng cơ thể là 140×10-7, khối lượng trung bình 0.0000007kg, tỷ lệ nguyên tố là 0% trong cơ thể. Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

Nguyên tố Yttrium (Y) số hiệu nguyên tử là 39, tỉ trọng cơ thể là 140×10-7, khối lượng trung bình 0.0000006kg, tỷ lệ nguyên tố là 0% trong cơ thể. Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

Nguyên tố Bismuth (Bi) số hiệu nguyên tử là 83, tỉ trọng cơ thể là 140×10-7, khối lượng trung bình 0.0000005kg, tỷ lệ nguyên tố là 0% trong cơ thể. Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

Nguyên tố Thallium (Tl) số hiệu nguyên tử là 81, tỉ trọng cơ thể là 140×10-7, khối lượng trung bình 0.0000005kg, tỷ lệ nguyên tố là 0% trong cơ thể. Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

Nguyên tố Indium (In) số hiệu nguyên tử là 49, tỉ trọng cơ thể là 140×10-7, khối lượng trung bình 0.0000004kg, tỷ lệ nguyên tố là 0% trong cơ thể. Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

Nguyên tố Gold (Au) số hiệu nguyên tử là 79, tỉ trọng cơ thể là 140×10-7, khối lượng trung bình 0.0000002kg, tỷ lệ nguyên tố là 3.00E-07% trong cơ thể. Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người. Trong dược thư cổ Bản thảo cương mục, Lý Thời Trân (Trung Quốc) gọi vàng là "thái nhân", "hoàng nha" và viết rằng: "Vàng ròng được luyện thành các vảy mỏng dùng làm thuốc trị các bệnh thần kinh và hạn chế sự phát triển của các loại vi khuẩn". Sách Nam dược thần hiệu của danh y Tuệ Tĩnh cũng viết: "Tinh kim - vàng ròng vị cay, tính bình, hơi độc, hoà huyết, trấn tâm, an ngũ tạng, trừ bệnh cốt nhiệt và bệnh phong. Vàng sống có độc, vàng đã tôi luyện không độc". Trong Lĩnh Nam bản thảo, Hải Thượng Lãn Ông ghi nhận: "Tinh kim tục gọi ấy vàng ròng. Vị cay, khí bình, ít độc xung. Hoà huyết, trấn tâm, yên năm tạng.”. Ở Trung Quốc, người ta dùng vàng tự nhiên để trị kinh giản, điên cuồng, tim đập mạnh và loạn nhịp, lở độc, giải trúng độc các loại đá quý. Dùng uống trong làm hoàn, tán; dùng ngoài, tán bột bôi. Theo kinh nghiệm của người xưa, bụi vàng có khả năng rút mủ lên da thịt non, khi đem nung đỏ và tôi vào nước, người ta được một thứ dịch có tác dụng chữa chứng co giật ở trẻ em. Một số thuốc quý của Đông y được bọc bằng một lớp vỏ rất mỏng bằng vàng ròng, khi dùng người bệnh có thể nuốt cả vỏ. Xưa kia, trong thuật châm cứu, người ta còn dùng kim được chế bằng vàng hoặc bằng bạc để chữa bệnh, kim vàng có tác dụng "bổ", kim bạc có tác dụng "tả".

Nguyên tố Scandium (Sc) số hiệu nguyên tử là 21, tỉ trọng cơ thể là 140×10-7, khối lượng trung bình 0.0000002kg, tỷ lệ nguyên tố là 0% trong cơ thể. Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

Nguyên tố Tantalum (Ta) số hiệu nguyên tử là 73, tỉ trọng cơ thể là 140×10-7, khối lượng trung bình 0.0000002kg, tỷ lệ nguyên tố là 0% trong cơ thể. Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

Nguyên tố Vanadium (V) số hiệu nguyên tử là 23, tỉ trọng cơ thể là 260×10-7, khối lượng trung bình 0.00000011kg, tỷ lệ nguyên tố là 1.20E-08% trong cơ thể. Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

Nguyên tố Thorium (Th) số hiệu nguyên tử là 90, tỉ trọng cơ thể là 140×10-7, khối lượng trung bình 0.0000001kg, tỷ lệ nguyên tố là 0% trong cơ thể. Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

Nguyên tố Uranium (U) số hiệu nguyên tử là 92, tỉ trọng cơ thể là 1.3×10-7, khối lượng trung bình 0.0000001kg, tỷ lệ nguyên tố là 3.00E-09% trong cơ thể. Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

Nguyên tố Samarium (Sm) số hiệu nguyên tử là 62, tỉ trọng cơ thể là 1.3×10-7, khối lượng trung bình 0.00000005kg, tỷ lệ nguyên tố là 0% trong cơ thể. Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

Nguyên tố Beryllium (Be) số hiệu nguyên tử là 4, tỉ trọng cơ thể là 50×10-10, khối lượng trung bình 0.000000036kg, tỷ lệ nguyên tố là 4.50E-08% trong cơ thể.Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

Nguyên tố Radium (Ra) số hiệu nguyên tử là 88, tỉ trọng cơ thể là 1×10-17, khối lượng trung bình 0.00000000000003kg, tỷ lệ nguyên tố là 1.00E-19% trong cơ thể.Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.

THUYẾT THẠCH LÝ BÁT HOÀ NGUYÊN TỐ (LAW OF OCTAVES THEORY)

Thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves) của Newlands ứng dụng trong giả kim thuật, cho phép tính toán sự liên hệ của khoáng chất trong đá và chiêm tinh,từ đó suy dẫn đến các ứng dụng của đá lên cơ thể con người. Vào năm 1864, John Alexander Reina Newlands (1837-1898), nhà hóa học người Anh, tìm ra quy luật bát bội: Mỗi nguyên tố hóa học đều thể hiện tính chất tương tự như nguyên tố thứ 8 khi xếp các nguyên tố theo khối lượng nguyên tử tăng dần. Điều này kích thích các nhà huyền học giả kim thuật vì giả kim từ lâu không thể tạo ra bất kỳ quy luật nào tương xứng phù hợp với khoa học hiện đại. Quy luật số 8 ứng với tám hành tinh (gồm cả trái đất) mà nền tảng của nó đã có từ lâu, và còn tương ứng nhiều hình thức tâm linh huyền học khác liên đới với con số 8 như Geomancy (bói đất). Từ đó người ta (mà nổi tiếng nhất là nhà huyền học George Ivanovich Gurdjieff, người cực kỳ yêu quý thuyết Law of Octaves) xây dựng nên hệ tính để tìm ra nguyên tố chủ đạo và hành tinh chủ đạo trong một viên đá. Từ đó, dẫn suy ra những đặc tính chữa bệnh hoặc tác động lên tinh thần.

Ở Việt Nam, hầu như không có sách nào đề cập đến thuyết này. Ngay cả ở những sách nước ngoài cũng rất hiếm gặp. Thường ở các sách huyền học như các tạp bản của George Gurdjieff, và người kế thừa dưới dạng các enneagram (bát tố đồ).

Loại đá này chứa [Cl (chlorum, Tiếng Việt: clo)], nên thuộc ảnh hưởng của Hoả Tinh (Mars).

Loại đá này mang yếu tố của hỏa tinh với nguyên tố chủ đạo  là nguyên tố Lửa. Vì vậy nó tác động lên hệ sinh dục, bộ phận sinh dục, tuyến thượng thận. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến tình dục như yếu sinh lý, liệt dương, khoái cảm kém nhằm tăng cường sinh lực tình dục. Nó còn giúp tăng cường ý chí và tư tưởng, đặc biệt là sự tham vọng, đầy năng lượng, đam mê, nam tính, hành động, kỷ luật, lòng nhiệt huyết, nhiệt tình trong tình dục... nhấn mạnh yếu tố ý chí. Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là trấn giữ các mối quan hệ của nhà chiêm tinh thứ 3 và 10: anh em, bà con (nhà Fratres); chức vụ, nhiệm (nhà Regnum). Dành hỗ trợ cho những người có mối quan hệ đã nêu không được suông sẻ để cải thiện tình hình. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố hỏa tinh bảo trợ về toán và suy luận nói chung (Dante Alighieri). Dành cho những người làm trong lĩnh vực liên quan đến tính toán như các ngành toán, vật lý, kỹ sư, cơ giới, thủ quỹ, thủ kho, buôn bán, kế toán...

Loại đá này chứa [Na (natrium, Tiếng Việt: natri), S (sulfur, Tiếng Việt: lưu huỳnh)], nên thuộc ảnh hưởng của Mộc Tinh (Jupiter).

Loại đá này mang yếu tố mộc tinh, vì vậy có tác động lên vùng bụng, gan, tuyến yên, lớp mỡ quanh eo, đùi. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến sự nghèo khó (suy dinh dưỡng) và cả giàu có (béo phì), các chứng liên quan đến bụng, gan (đau bụng). Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là trấn giữ các mối quan hệ của nhà chiêm tinh thứ 2 và 9: tài sản, tiền bạc (nhà Lucrum) và du hành, du lịch (nhà Iter). Dành hỗ trợ cho những người có vấn đề với tiền bạc hay gặp vận rủi, những người muốn đi du lịch, hay di cư không được xuông sẻ, thúc đẩy tiền bạc và thường xuyên du hành. tăng cường vật chất và sở hữu, đặc biệt là sự phát triển, thịnh vượng, may mắn, tự do, du hành, luật pháp, nhân đạo,... nhấn mạnh đến yếu tố giàu có vật chất. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố mộc tinh bảo trợ về địa lý và cấu trúc nói chung (Dante Alighieri). Vì vậy, đá này dành cho những người làm trong lĩnh vực liên quan đến các địa lý và du lịch như hướng dẫn viên du lịch, phi công, hoa tiêu, tài xế, cục địa dư, tàu hỏa, khảo cổ, xây dựng cầu đường...

Loại đá này chứa [H (hydrogen, Tiếng Việt: hydro), O (oxygen, Tiếng Việt: oxy)], nên thuộc ảnh hưởng của Địa Tinh (Primius)

Loại đá này mang yếu tố Primius với nguyên tố chủ đạo là nguyên tố Đất, vì vậy tác động lên hệ cơ bắp, búi cơ tay chân, cơ hoành, da răng và các lông tóc bên ngoài. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến các yếu tố tóc, lông và cơ như chứng rụng tóc, đau răng, bị da liễu, hoặc các chứng liên quan đến cơ như chuột rút, teo cơ, phù thủng... Ngoài ra còn tăng cường vật chất và sở hữu, đặc biệt là sự đột phá, cấp tiến, cách mạng, cải biên xã hội, đẩy mạnh tự do, bất cần, vô chính phủ... nhấn mạnh đến yếu tố sở hữu. Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là không trấn giữ cung nào theo Chiêm Tinh Cổ, nhưng trấn giữ vị trí con rồng (Dragons), ở hai vị trí đầu rồng và đuôi rồng, Chiêm tinh gọi là Caput Draconis và Cauda Draconis, tiếng Việt hay dịch là La Hầu và Kế Đô. Không có quan niệm chính thức cho hai vị trí này. Thông thường, người ta coi nó là đại diện cho tính tốt và xấu trong mỗi con người. Vì vậy, nó thúc đẩy các mối quan hệ về con người và bản chất con người. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố này bảo trợ về không gian và thời gian nói chung. Dành cho những người làm trong lĩnh vực liên quan đến các không gian và thời gian như người làm đồng hồ, những người rung chuông, gác cổng, những người canh giờ tàu hỏa,... hoặc những người cảnh báo tư tưởng (gọi là những người tiền vệ - avantgarde).

 

Reactions

Post a Comment

0 Comments