THUYẾT THẠCH LÝ HOÀNG ĐẠO (ZODIAC STONE THEORY)
Thuyết Thạch Lý Hoàng Đạo (Zodiac Stones Theory) là thuyết rất cơ bản của
Thạch Lý Học Phương Tây, dựa trên Cung Hoàng Đạo, mười hai cung mỗi cung chủ
chế một màu, tùy vào ngày bản sinh mà màu sắc đậm nhạt khác nhau theo thời
gian, từ đó luận về đá bản sinh (Birthstones) được dùng nhiều trong văn hóa
phương tây. Mặc dù vậy, hầu hết các tài liệu đều xếp tương đối bất đồng, từ thế
kỷ 16 trở đi, hầu hết không được thống nhất. Ở đây, chỉ trích dẫn những quan
điểm được công nhận rộng rãi. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo
hoàng đạo như sau: Bạch Dương (21/3 đến 19/4) màu xanh đen, Kim Ngưu (20/4 đến
20/5) màu xanh dương đậm, Song Tử (21/5 đến 21/6) màu trắng trong, Cự Giải
(22/6 đến 22/7) màu xanh lá mạ, Sư Tử (23/7 đến 22/8) màu đen, Xử Nữ (23/8 đến
22/9) màu cam, Thiên Bình (23/9 đến 22/10) màu lục nhạt, Thiên Yết (23/10 đến
22/11) màu lam, Nhân Mã (23/11 đến 21/12) màu vàng, Ma Kết (22/12 đến 19/1) màu
đỏ tươi, Bảo Bình (20/1 đến 18/2) màu đỏ sậm, Song Ngư (19/2 đến 20/3) màu tím.
Các cung hoàng đạo này được chia thành bốn nhóm Đất - Khí - Lửa - Nước và vào
bốn mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông. Thuyết này được ứng dụng rộng rãi trong đời
sống từ thế kỷ 18, có tương đối nhiều các dị biệt tùy vào nguồn tư liệu theo
từng thời kỳ lịch sử. Ở đây, sử dụng thuyết hiện đang được công nhận rộng rãi.
Ở Việt Nam, thuyết này cũng được sử dụng khá nhiều, nhưng không hiểu vì
sao trong tất cả các cuốn Thạch Lý Học của Việt Nam, ngoại trừ cuốn Thạch Đá
Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc và cuốn Tất Cả Về Khoáng Vật Chữa Bệnh Mầu Nhiệm
(dịch của Jasper Stones của Nga), đều không nhắc đến thuyết này.
Theo Thuyết Thạch Lý Hoàng Đạo (Zodiac Stones Theory) thì loại đá này màu lá mạ (xanh lá cây nhạt), được xếp
vào loại đá bản mệnh của mùa đông và xếp vào đá bản mệnh của cung Cự Giải,
thuộc hệ Nước. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 22 tháng 6 đến 22 tháng 7 hằng
năm thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này.
Thuyết Đá tháng Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo tháng như sau:
tháng một màu đỏ cam, tháng hai màu tím tươi, tháng ba màu xanh lam, tháng tư
màu trắng trong, tháng năm màu lục đen, tháng sáu màu trắng đục, tháng bảy màu
đỏ tươi, tháng tám màu xanh chuối, tháng chín màu xanh lá, tháng mười màu đen,
tháng mười một màu vàng, tháng mười hai màu chàm.
THUYẾT THẠCH LÝ HOA GIÁP (HWANGAP THEORY)
Thuyết Hoa Giáp (Hwangap) có nhiều luận thuyết khác nhau. Theo phép tính
theo năm, Phương Đông dựa trên Can Chi, lập luận dựa trên ngũ hành, phối màu
tạo nên bộ hoa giáp sắc pháp. Từ Giáp Tý là sắc đỏ ban mai, chuyển dần cho đến
Quý Hợi là sắc tím trời khuya, tạo nên hơn 60 màu khác nhau. Theo phép tính
theo tháng, người ta căn cứ vào địa chi của tháng sinh, theo như sau: Tháng
giêng là Dần, tháng 2 là Mão, tháng 3 là Thìn, tháng 4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ,
tháng 6 là Mùi, tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu, tháng 9 là Tuất, tháng 10 là
Hợi, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu, cùng phối hợp với ngũ hành của tháng để
chia màu sắc đá, như sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng dùng đá có tông màu lục, lam,
dương), Tị Ngọ thuộc Hỏa (ứng dùng đá có tông màu cam đỏ hồng), Thân Dậu thuộc
Kim (ứng dùng đá có tông màu trắng, xám, ánh bạc), Tý Hợi thuộc Thủy (ứng dùng
đá có tông màu đen, chàm, tím), Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ (ứng dùng đá có
tông màu vàng, trong, ánh kim). Từ can và chi kết hợp, tạo thành phối 60 màu
sắc khác nhau trong Hoa Giáp. Thuyết về tháng bản mệnh này được dùng nhiều rộng
rãi vì đơn giản, dễ tính ra.
Cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, cuốn Đá Quý Việt Nam của ts.
Hoàng Thế Ngữ, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh đều có
nói đến thuyết này. Tuy nhiên, sự phân định màu sắc và ngũ hành không giống
nhau. Ví dụ như Ts Hoàng Thế Ngữ trong cuốn Đá Quý Việt Nam đưa ra Hỏa ứng màu
đỏ, Thủy ứng màu xanh, Thổ ứng màu nâu, Mộc ứng màu lục, Kim ứng màu vàng trắng
đen. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định khác
Hỏa ứng màu đỏ hồng tím, Thủy ứng màu đen sẫm, Thổ ứng vàng nâu, Mộc ứng lam
lục, Kim ứng trắng bạc.
Thuyết Thạch lý hoa giáp tương ứng loại đá này màu xanh lá mạ, tuỳ sắc độ
từ tông lai vàng đến tông lai xanh lá cây đậm, thuộc về các năm mậu tý, kỷ sửu,
canh dần, tân mão, nhâm thìn, quý tỵ. Các nam sinh năm mậu tý, canh dần, nhâm
thìn, thuộc dương là phù hợp để đeo loại đá này. Các nữ sinh năm kỷ sửu, tân
mão, quý tỵ thuộc âm là phù hợp để đeo loại đá này.
HUYẾT THẠCH LÝ QUANG SẮC (CHROMATHERAPY THEORY)
Thuyết Quang Lý Học (Chromatherapy) được ra đời rất lâu từ giả kim thuật,
nhưng chính thức định hình đặt tên bởi tiến sĩ Christian Agrapart. Thạch Lý Học
sử dụng lại thuật ngữ này, nhưng không sử dụng liệu pháp ánh sáng như Agrapart
mà lý luận dựa trên màu của loại đá. Nó gồm một phần nghiên cứu về màu sắc
trong y học của Agrapart và một phần nghiên cứu về màu sắc trong tâm lý học.
Màu sắc trong tâm lý học đã được nghiên cứu lâu đời như bảng phân chia màu sắc
và tâm trạng "rose of temperaments" (Temperamenten Rose) của Goethe
và Schiller (1798). Nhưng nghệ thuật này chỉ thăng hoa nhờ nghiên cứu của Carl
Jung khi ghép tính biểu tượng của màu sắc vào tâm lý con người. Từ đó, những
người nghiên cứu sau này sử dụng sự tương ứng màu sắc đó trong viên đá và đặt
nền tảng lý thuyết cho Thạch Lý Học. Dựa vào bảng màu sắc đó, cho phép gợi ý
đến tác động chữa bệnh hoặc lên tinh thần con người.
Ở Việt Nam, thuyết Quang Lý Học này cũng được sử dụng rộng rãi. Hầu hết
các sách đều có đề cập trừ cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn
Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Trong đó cuốn Ứng Dụng Năng
Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh có thể coi là chi tiết nhất về thuyết
này.
Theo Thuyết Thạch Lý Quang Sắc (Chromatherapy Theory) loại đá này có màu
xanh lục đại diện cho sinh sản và phát triển. Đá này làm tăng cường khả năng
sinh sản, phát triển. Có tác dụng phát triển dành cho những người yếu về sinh
lực và sinh lý, dành cho bà mẹ đang có thai hoặc trẻ nhỏ còi cọc. Nó cũng là
hòn đá dành cho người hộ sinh, hoặc cách ngành chăm sóc sức khỏe, khoa sản.
Người La Mã đã đánh giá màu xanh lá cây cao hơn. Nó là màu sắc của Venus –
vị thần của những khu vườn, hoa màu và vườn nho. Họ cũng tìm ra đất có sắc tố
lục, được sử dụng rộng rãi cho những bức tường ở Pompeii, Herculaneum, Lyon,
Vasion-la-Romanie và các thành phố La Mã khác. Họ cũng dùng chất nhuộm màu lục
được làm bằng cách ngâm các đĩa đồng vào rượu lên men. Vào thế kỉ II sau Công
nguyên, người La Mã đã sử dụng màu xanh lá cây trong tranh giấy, tranh khảm và
thủy tinh. Có đến mười từ khác nhau trong bảng chữ Latin dùng miêu tả nhóm màu
xanh lá.
THUYẾT THẠCH LÝ MẬT TÔNG (BUDDHISM THEORY)
Thuyết Phật Giáo Mật Tông là phái phật giáo duy nhất có ứng dụng trong
Thạch Lý Học. Lý thuyết dựa trên hình ảnh của Ngũ Trí Như Lai và Tử Thư. Ngũ
Phật còn gọi là Ngũ Trí Như Lai, Ngũ Trí Phật, Ngũ Phương phật, hay còn được
gọi Ngũ Thiền Định Phật; là tên gọi chỉ năm vị Phật trong Mật Tông, lấy Đại
Nhật Như Lai làm chủ tôn, có sự khu biệt giữa Ngũ Phật giới Kim Cương và Ngũ
Phật giới Thai Tạng. Năm đức Phật này đại diện cho 5 phẩm chất của con người và
tạo ra sự tuyệt mỹ và hay nhất để phá bỏ những sai trái trong 5 phẩm chất đó.
Mỗi đức Phật là một con đường tuyệt diệu để đi đến cảnh giới Niết Bàn và Vô
sanh. Tu theo những vị đó sẽ mau chóng vào được cung điện Niết Bàn. Ngũ trí Như
Lai là 5 vị Phật tối cao của Phật giáo Tây Tạng. Năm vị phật này đại diện bởi
năm màu, gọi là Ngũ Sắc Trí (pancha-varna): Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairochana)
đại diện bởi màu trắng và tím, A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya) đại diện bởi màu
lam và đen, Bảo Sanh Như Lai (Ratnasambhava) đại diện bởi màu vàng và cam, A Di
Đà Như Lai (Amitabha) đại diện bởi màu đỏ và hồng, Bất Không Thành Tựu Như Lai
(Amoghasiddhi) đại diện bởi màu lục.
Nitin Kumar căn cứ vào kinh điển Chandamaharosana Tantra dẫn ra những
quy tắc sử dụng màu săc trong mật tông, đáng chú ý cho rằng: màu lam đại diện
cho phẫn nộ tướng ứng vị trí tai, màu vàng đại diện cho sinh dưỡng tướng ứng vị
trí mũi, màu đỏ đại diện cho vô úy tướng ứng miệng, màu lục đại diện cho uy đức
tướng ứng vị trí đầu. Trong Tử Thư Tây Tạng cũng tuyên về màu sắc tương ứng lục
đạo: ánh sáng trắng là của cõi trời, ánh sáng đỏ là của cõi Atula, ánh sáng lam
là của cõi người, ánh sáng lục là của cõi súc sanh, ánh sáng vàng là của cõi
quỷ đói, ánh sáng xám là của cõi địa ngục.
Ở Việt Nam, thuyết này hầu như chưa bao giờ được nhắc đến trong các sách
Thạch Lý Học đã xuất bản. Tuy nhiên một số kinh sách về ngũ sắc trí đã được
dịch và xuất bản những năm gần đây như Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe Trong
Bardo của Guru Rinpoche, Những Giáo Pháp Bí Mật Của Tử Thư Tây Tạng của Detlef
Ingo Lauf.
Thuyết Phật Giáo Mật Tông, loại đá này có màu lục, là bổn sắc của Bất
Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi). Ngài là sự chuyển hóa của sự ganh tỵ
thành sự kham nhẫn. Màu lục đại diện cho uy đức tướng ứng với đầu. Đeo đá này
sẽ được Bất Không Thành Tựu Như Lai Phật
hộ trì, hỗ trợ về cơ thể và sự uy đức. Vì đây cũng là màu của cõi súc sanh, đá
này được coi là bùa hộ về xúc dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về xúc dục
thông qua vị phật uy đức. Tử thư nhắc đến màu lục như biểu hiện cho sự kham
nhẫn, uy đức, đồng thời sự tham lam. Tử Thư Tây Tạng viết rằng:
Vào ngày thứ năm, có bộ Nghiệp, tức là tính chất tinh khiết của không khí
hay gió. Nó có màu xanh lá cây, màu của ganh tỵ. Từ cõi Các Hành Vi Tích Tựu
(Realm of Accumulated Actions), Phật xuất hiện. Bộ Nghiệp được kết hợp với hành
vi, sự thành tựu và tính hiệu quả. Nó có quyền lực mãnh liệt và không có gì
chịu đựng nổi trong cung cách của nó cho nên nó được coi như có tính chất triệt
phá. Phật Bất Không Thành Tựu mang ý nghĩa thành tựu mọi hành vi, mọi quyền
lực.
THUYẾT THẠCH LÝ LINH KHÍ (REIKI THEORY)
Thuyết Thạch Lý Linh Khí (Reiki Theory), dựa trên sự kết hợp của hệ thống
Kinh Lạc trong Y Thuật Trung Hoa, hệ thống Luân Xa trong Y Thuật Ấn Độ và
thuyết Ngũ Hành trong thạch học, dùng trong xoa bóp, ấn huyệt, được đề xuất bởi
Mikao Usui năm 1922. Nếu hệ thống luân xa thật sự ít khi được áp dụng trong
Reiki thực hành, hệ thống Kinh Lạc lại được sử dụng trong ấn huyệt rất rộng
rãi. Kinh lạc là đường khí huyết vận hành trong cơ thể, đường chính của nó gọi
là kinh, nhánh của nó gọi là lạc, kinh với lạc liên kết đan xen ngang dọc, liên
thông trên dưới trong ngoài, là cái lưới liên lạc toàn thân. Kinh lạc phân ra
hai loại kinh mạch và lạc mạch.Trong kinh mạch gồm chính kinh và kỳ kinh, chính
kinh có mười hai sợi, tả hữu đối xứng, tức thủ túc tam âm kinh và thủ túc tam
dương kinh, gọi chung mười hai kinh mạch, mỗi kinh thuộc một tạng hoặc một phủ.
Kỳ kinh có tám sợi, tức đốc mạch, nhâm mạch, xung mạch, đái mạch, âm duy mạch,
dương duy mạch, âm kiểu mạch, dương kiểu mạch. Thông thường nhắc đến mười hai
kinh mạch và thêm vào hai mạch nhâm đốc gọi chung mười bốn kinh mạch chính.
Bệnh tật đều do sự vận hành bế tắc của khí luân chuyển trong 12 kinh mạch này,
nếu được khơi thông, ắt sẽ hết bệnh tật. Y Tông Tâm Lĩnh bàn về Kinh Lạc nói,
mười hai kinh lạc, có Thủ thái âm phế kinh (手太阴肺经) thuộc về hành
Kim, Thủ thiếu âm tâm kinh ( 手少阴心经) thuộc về hành Hỏa, Thủ quyết âm tâm bào kinh (手厥阴心包经) thuộc về hành
Hỏa, Thủ thiếu dương tam tiêu kinh (手少阳三焦经) thuộc về hành Hỏa, Thủ thái dương tiểu tràng kinh (手太阳小肠经) thuộc về hành
Hỏa, Thủ dương minh đại tràng kinh (手阳明大肠经) thuộc về hành
Kim), Túc thái âm tỳ kinh (足太阴脾经) thuộc về hành Thổ, Túc thiếu âm thận kinh (足少阴肾经) thuộc về hành
Thủy, Túc quyết âm can kinh (足厥阴肝经) thuộc về hành Mộc, Túc thiếu dương đảm kinh (足少阳胆经) thuộc về hành
Mộc, Túc thái dương bàng quang kinh (足太阳膀胱经) thuộc về hành
Thủy, Túc dương minh vị kinh (足阳明胃经) thuộc về hành Thổ. Mỗi mạch lại ứng những bệnh lý khác
nhau. Cách sử dụng truyền thống là dùng đá phù hợp làm thành cây ấn huyệt để
trị liệu khơi thông kinh mạch, giống với châm cứu. Lục và Lam thuộc Mộc, Đỏ và
Cam thuộc Hỏa, Vàng và Trong thuộc Thổ, Trắng và Xám thuộc Kim, Đen và Tím
thuộc Thủy.
Ở Việt Nam, hầu như không có tài liệu về môn này hoặc tài liệu về Reiki
từng được xuất bản, tuy nhiên, nhiều học giả cho biết đã từng có sách về môn
này xuất bản trước 1975 mà chúng tôi chưa có dịp khảo cứu được.
Thuyết Thạch Lý Linh Khí (Reiki Theory) cho rằng đá này có màu lục được
coi là thuộc về hành Thủy, vì vậy có tác dụng với Túc quyết âm can kinh và Túc
thiếu dương đảm kinh. Túc quyết âm can kinh chủ trị về bệnh can, bao quát bệnh
cao huyết áp, nhức đầu, mất ngủ, hay chiêm bao, bệnh đảm, bệnh hệ sinh dục tiết
niệu, và bệnh chứng của bộ vị kinh này đi qua.Túc thiếu dương đảm kinh chủ trị
về bệnh chứng của các bộ vị bên đầu, mắt, tai, ngực sườn, bệnh can đảm, bệnh
thần chí, bệnh phát sốt, xây xẩm, sưng chân, táo bón và bệnh chứng của bộ vị
kinh này đi qua.Các bệnh này sẽ được chữa lành bằng cách sử dụng các viên đá để
ấn vào các huyệt đạo thuộc kinh lạc tương ứng.
THUYẾT THẠCH LÝ NGŨ HÀNH (WUHANH THEORY)
Thuyết Ngũ Hành dựa trên lý học phương đông, canh theo can chi bản mệnh
của một người theo ngày tháng năm sinh, rồi tính sự xung khắc hay tương hợp
trong ngũ hành. Từ đó đưa ra nguyên tắc vận dụng trong thạch học, nhờ vào ngũ
hành trong khoáng thạch đối chế lại với bản mệnh, nhằm điều hòa bản thân.
Thuyết Ngũ Hành quy định theo thiên can: Giáp Ất thuộc Mộc, Bính Đinh thuộc
Hỏa, Mậu Kỷ thuộc Thổ, Canh Tân thuộc Kim, Nhâm Quý thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành
quy định theo địa chi: Dần Mão thuộc Mộc, Ngọ Mùi thuộc Hỏa, Thân Dậu thuộc
Kim, Hợi Tý thuộc Thủy, Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ. Từ thiên can, địa chi, quy
định nên phối hành của bản mệnh: Mậu Thìn thuộc về Thổ phối Thổ,… Khoáng thạch
được phân theo ngũ hành dựa trên màu sắc và hình dạng. Thuyết Ngũ Hành quy định
màu sắc: Lục và Lam thuộc Mộc, Đỏ và Cam thuộc Hỏa, Vàng và Trong thuộc Thổ,
Trắng và Xám thuộc Kim, Đen và Tím thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành quy định theo
thể dạng: trụ và dài thuộc Mộc, nhọn và góc thuộc Hỏa, vuông và cân thuộc Thổ,
cong và tròn thuộc Kim, uốn và lượn thuộc Thủy. Từ đó suy ra được phối hành của
khoáng thạch: ví dụ Huyền Thiết Thạch (Hematite) đen có thể dạng khối tròn
(Botryoidal) được xem là Thủy phối Kim. Thuyết Ngũ Hành quy định tương sinh như
sau: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.
Thuyết Ngũ Hành quy định tương khắc như sau: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy
khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc. Dựa vào tương sinh tương khắc của Ngũ
Hành để khắc chế hay phù trợ cho bản mệnh thông qua việc đeo những khoáng thạch
khác nhau trên cơ thể.
Ở Việt Nam, thuyết Hoa Giáp được trình bày trong hầu hết các sách về Thạch
Lý Học, nhưng hầu hết chỉ dừng lại ở lý luận về màu sắc theo thuyết Ngũ hành.
Cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng
Thế Ngữ, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh đều có nói
đến thuyết này. Tuy nhiên, sự phân định màu sắc và ngũ hành không giống nhau.
Ví dụ như Ts Hoàng Thế Ngữ trong cuốn Đá Quý Việt Nam đưa ra Hỏa ứng màu đỏ,
Thủy ứng màu xanh, Thổ ứng màu nâu, Mộc ứng màu lục, Kim ứng màu vàng trắng
đen. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định khác
Hỏa ứng màu đỏ hồng tím, Thủy ứng màu đen sẫm, Thổ ứng vàng nâu, Mộc ứng lam lục,
Kim ứng trắng bạc. Cá biệt có cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh
Nghiêm là có nhắc đến thuyết này ứng dụng lý luận lên hình dạng của tinh thể,
tuy nhiên không có khai triển đầy đủ. Thuyết này các phái đạo gia phong thủy
khai thác và phát triển rất hoàn chỉnh, được trình bày tóm tắt như bên trên
đây.
Thuyết Ngũ Hành cho rằng Lam Đồng Quáng thuộc về Mộc (xanh dương đậm) phối
Hỏa (nhọn), tức Mộc Cục. Do đó, Lam Đồng Quáng giúp khắc chế các bản mệnh Thủy
– Hỏa như Nhâm Ngọ, Quý Tỵ, Bính Tý, Đinh Hợi, vì vậy, những bản mệnh trên có
lợi khi đeo loại ngọc này. Lam Đồng Quáng cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc
Hỏa (Mộc sinh Hỏa), gồm mệnh thuộc Hỏa Mộc và thuần Hỏa: Bính Dần, Đinh Mão,
Giáp Ngọ, Ất Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Tỵ, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với
loại ngọc này.
THUYẾT THẠCH LÝ TỨ TRỤ
Thuyết Tứ Trụ (Sìzhù) có thể ứng dụng từ Bát Tự trong Thuyết Tứ Trụ để bổ
cứu, dựa vào màu của đá để tương hỗ lấy mệnh. Chủ yếu dựa vào thiên can, lấy âm
dương và ngũ hành của thiên can để tính lấy bốn phép Kiêu Ấn, Thực Thương, Tỷ
Kiếp, Quan Sát và Tài, dụng vào địa chi mà thành Thập Thần. Từ đó luận ra được
Nhật Can và Nguyệt Lệnh, dựa vào sự phối hợp của nó trong sinh thời mà dự biết
lợi yếu của bản mệnh. Biết được lợi yếu của bản mệnh rồi, mới dùng ngũ hành
trong đá ngọc mà điều hòa. Có sách viết: Nhật Can mạnh yếu cần có sự tương trợ
của Nguyệt Lệnh. Trong trường hợp không có Nguyệt Lệnh hỗ trợ, các can chi
trong trụ liền suy yếu. Có thể dùng phương pháp đá phong thủy để bổ cứu, điều
hậu cho Nhật Can.
Ở Việt Nam, thuyết Tứ Trụ được sử dụng cực kỳ nhiều, tất cả các sách Thạch
Lý Học tại Việt Nam đều có dẫn xuất như cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế
Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm, cuốn Ứng Dụng
Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh , cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ
Thanh Trúc. Tuy nhiên, có khá nhiều sai biệt giữa các sách với nhau về cách
tính, điều này cũng dễ hiểu vì đây là ứng dụng tùy thuộc vào cách luận Tứ Trụ.
Ở đây chỉ giữ lại một thuyết để thống nhất là sử dụng sách của ĐĐ. Thích Minh
Nghiêm.
Theo thuyết Tứ Trụ, đá ngọc có màu lục thuộc mệnh Mộc.
Đá thuộc mệnh Mộc rất hạp với mệnh Hỏa sinh vào mùa thu. Hỏa mùa thu phần
lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh mới có thể thịnh vượng, chuyển nguy thành yên
bình đồng thời đạt được tài lợi, sẽ không bị khốn đốn. Nếu thân yếu không có Ấn
lại gặp Thủy khắc sẽ khó tránh nguy cơ bị tiêu trừ, cơ thể không khỏe mạnh,
thậm chí mất mạng. Nếu là Hỏa mùa thu có thân yếu lại gặp Thổ hao tiết, khó
sáng và không thể phát huy tài hoa, vất vả cả đời. Nếu thân yếu lại gặp Kim đến
tiết hao phần lớn là vất vả, nhiều thất bại, ít thành công, kinh tế khó khăn,
nghèo khổ lao đao.
THUYẾT THẠCH LÝ LU N XA (CHAKRA THEORY)
Thuyết Luân Xa (Chakra) được trình bày trong trào lưu Thời Đại Mới (New Age)
bởi các lãnh tụ Thông Thiên Học như Johann Georg Gichtel, hoặc Yoga như Swami
Sivananda. Vẫn vận dụng chủ yếu là màu sắc của viên đá, được dịch nghĩa theo
hình ảnh các luân xa trong văn hóa Ấn Độ trong Áo Nghĩa Thư. Từ nguyên thủy
trong tiếng Sanskrit cakra mang ý nghĩa là "bánh xe" hay "vòng
tròn", các luân xa được miêu tả như là xếp thành một cột thẳng từ gốc của
cột sống lên đến đỉnh đầu, liên quan tới một số chức năng tâm sinh lý, một khía
cạnh của nhận thức, đánh dấu bởi một màu sắc nào đó. Chúng thường được hình
tượng hóa bằng các hoa sen với số cánh khác nhau cho mỗi luân xa. Các luân xa
được cho là đem lại năng lượng cho cơ thể và có liên quan đến các phản ứng của
cơ thể, tình cảm hay tâm lý của một người, là các điểm chứa năng lượng sống
(prana, cũng được gọi là shakti) lưu chuyển giữa các điểm đó dọc theo các đường
chảy (gọi là nadis). Chức năng của các chakra là xoay tròn để thu hút vào năng
lượng sống từ viên đá để giữ cân bằng cho sức khỏe về tâm linh, tâm lý, tình
cảm và sinh lý của cơ thể.
Ở Việt Nam, thuyết Luân Xa được biết đến rộng rãi nhất trong số các thuyết
về thạch lý học. Tất cả các sách đều có đề cập đến thuyết này trừ cuốn Sổ Tay
Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Sự nhận định cũng ít nhiều sai
khác. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định Luân
xa gốc ứng màu đỏ đen, luân xa xương cùng ứng màu cam phấn hồng, luân xa thái
dương ứng màu vàng, luân xa tim ứng màu xanh lá, luân xa họng ứng màu xanh lam,
luân xa trán ứng màu chàm tím, luân xa vương miện ứng màu trắng và tím nhạt.
Anahata, đại diện bởi màu xanh lá (tiếng Phạn: अनाहत, IAST:
Anāhata, tiếng Anh: "unstruck") hay chakra tim là chakra chính thứ
tư, theo Hindu Yogic, Shakta và truyền thống Tantric Phật giáo. Trong tiếng
Phạn, anahata có nghĩa là "không hề hấn gì, không làm phiền, và không bị
đánh bại". Anahata Nad đề cập đến khái niệm Vedic về âm thanh không bị xáo
trộn (âm thanh của vương quốc thiên thần). Anahata có liên quan đến sự cân
bằng, bình tĩnh và thanh thản.
Ở cấp độ chakra Anahata xuất hiện khả năng tích hợp hai lực đối lập và
theo cách này để đạt được hiệu quả (âm thanh, trong trường hợp này), mà không
có hai lực lượng phải đương đầu nhau (mà không chạm vào hai phần). Năng lượng
này đặc biệt cho sự hợp tác và hội nhập, mang lại hòa bình và một viễn cảnh mới
trong một thế giới, cho đến cấp độ này (chỉ xem xét các năng lực đặc trưng cho
ba lực lượng trung tâm đầu tiên: Muladhara, Swasdhistana và Manipura)chỉ tạo ra
ít hay nhiều sự đối đầu ý thức giữa các lực lượng đối lập. Trên thực tế, tên
Anahata cho thấy hiệu quả hiệp lực của sự tương tác của năng lượng ở cấp độ này.
THUYẾT THẠCH LÝ VI LƯỢNG TRỊ LIỆU (OLIGOTHERAPY THEORY)
Thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy) đề xuất bởi bác sĩ Jacques
Ménétrier và Gabriel Bertrand, vào giữa thế kỷ 20. Những người thực hành Thạch
Lý Học áp dụng lý thuyết này trong việc trị liệu thông qua cơ sở giống như
Thuyết Vi Lượng Đồng Căn (Homeopathy) của Samuel Hahnemann. Christian Friedrich
Samuel Hahnemann (1755-1843), một nhà vật lý học, hóa học và y học người Đức,
đã đưa ra một lý thuyết liên quan đến sự quan hệ yếu tố trong chứng và chất của
cơ thể người, sau này phát triển thành hệ thống Vi Lượng Đồng Căn. Mỗi vi lượng
trong đá được cho là sẽ tác động đến vi lượng tương ứng trong cơ thể người, và
nhờ đó bộ phận chứa vi lượng đó được chữa khỏi.
Ở Việt Nam, thuyết Vi Lượng được nhắc đến duy nhất trong cuốn Ứng Dụng
Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh, nhưng khá sơ khai, vì cho rằng đây
là thuyết phức tạp, chuyên sâu. Các cuốn khác, hầu như không hề biết gì về
thuyết này.
Mỗi viên đá, bằng vi lượng chứa trong nó, được tin là sẽ tác động lên phần
sinh lý cơ thể, giúp gợi ý cho việc chữa bệnh hoặc tác động lên tinh thần.
Đá này có công thức là [Ca2Fe2+5Be4(PO4)6(OH)4·6H2O], bao gồm các nguyên
tố: Fe (ferrum, Tiếng Việt: sắt), P (phosphorus, Tiếng Việt: phosphor), H
(hydrogen, Tiếng Việt: hydro), O (oxygen, Tiếng Việt: oxy), Be (beryllium,
Tiếng Việt: beryli), Ca (calcium, Tiếng Việt: calci).
Nguyên tố Oxygen (O) có số nguyên tử là 8, chiếm tỉ trọng trong cơ thể
người là 0.65. Thành phần của nguyên tố này trong cơ thể trung bình là 43kg
chiếm tỷ lệ là 24%. Tác động đến sức khỏe và sự sống của hầu hết các loài động
thực vật trên thế giới.
Nguyên tố Calcium (Ca) có số nguyên tử là 20, tỉ trọng Canxi trong cơ thể
là 0.014 và khối lượng trung bình trong cơ thể người là 1kg đạt tỷ lệ là 0.22%.
Tác động tích cực cho sức khỏe do Canxi là thành phần chủ yếu của răng và hệ
xương, đặc biệt là trong các thành phần Calmodulin và Hydroxylapatite. Tác dụng
lên hệ xương, chiều cao, sự vận động và phục hồi xương. Được coi là có tác dụng
tốt cho chứng gãy xương, hay tăng chiều cao ở trẻ em. Được sử dụng nhiều cho
các vận động viên, hoặc các ngành nghề cơ bắp.
Nguyên tố Phosphorus (P) có số nguyên tử là 15, tỉ trọng trong cơ thể là
0.011, đạt khối lượng trung bình 0.78kg chiếm tỷ lệ 0.22%. Tác động tích cực
cho sức khỏe do phốt pho là thành phần chủ yếu của răng và hệ xương, đặc biệt
trong quá trình phosphorylation. Tác dụng lên hệ xương, chiều cao, sự vận động
và phục hồi xương. Được coi là có tác dụng tốt cho chứng gãy xương, hay tăng
chiều cao ở trẻ em. Được sử dụng nhiều cho các vận động viên, hoặc các ngành
nghề cơ bắp
Nguyên tố Iron (Fe) chỉ số nguyên tử là 26, trong cơ thể người đạt tỉ
trọng là 60*10-4, khối lượng trung bình 0.0042kg chiếm tỷ lệ 0.00067%. Tác động
vừa tích cực cho sức khỏe do sắt là nguyên tố chủ đạo trong máu (Hemoglobin,
Cytochromes) và vài loại hóc-môn trong cơ thể. Tác dụng lên hệ tuần hoàn, máu
huyết. Được coi là có tác dụng tốt trong việc cầm máu, chữa các chứng xuất
huyết, và các chứng liên quan đến máu.
Nguyên tố Beryllium (Be) số hiệu nguyên tử là 4, tỉ trọng cơ thể là
50×10-10, khối lượng trung bình 0.000000036kg, tỷ lệ nguyên tố là 4.50E-08%
trong cơ thể.Hiện không rõ tác dụng với cơ thể con người.
THUYẾT THẠCH LÝ BÁT HOÀ NGUYÊN TỐ (LAW OF OCTAVES THEORY)
Thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves) của Newlands ứng dụng trong giả kim
thuật, cho phép tính toán sự liên hệ của khoáng chất trong đá và chiêm tinh,từ
đó suy dẫn đến các ứng dụng của đá lên cơ thể con người. Vào năm 1864, John
Alexander Reina Newlands (1837-1898), nhà hóa học người Anh, tìm ra quy luật
bát bội: Mỗi nguyên tố hóa học đều thể hiện tính chất tương tự như nguyên tố
thứ 8 khi xếp các nguyên tố theo khối lượng nguyên tử tăng dần. Điều này kích
thích các nhà huyền học giả kim thuật vì giả kim từ lâu không thể tạo ra bất kỳ
quy luật nào tương xứng phù hợp với khoa học hiện đại. Quy luật số 8 ứng với
tám hành tinh (gồm cả trái đất) mà nền tảng của nó đã có từ lâu, và còn tương
ứng nhiều hình thức tâm linh huyền học khác liên đới với con số 8 như Geomancy
(bói đất). Từ đó người ta (mà nổi tiếng nhất là nhà huyền học George Ivanovich
Gurdjieff, người cực kỳ yêu quý thuyết Law of Octaves) xây dựng nên hệ tính để
tìm ra nguyên tố chủ đạo và hành tinh chủ đạo trong một viên đá. Từ đó, dẫn suy
ra những đặc tính chữa bệnh hoặc tác động lên tinh thần.
Ở Việt Nam, hầu như không có sách nào đề cập đến thuyết này. Ngay cả ở
những sách nước ngoài cũng rất hiếm gặp. Thường ở các sách huyền học như các
tạp bản của George Gurdjieff, và người kế thừa dưới dạng các enneagram (bát tố
đồ).
Loại đá này chứa [Ca (calcium, Tiếng Việt: calci), Fe (ferrum, Tiếng Việt:
sắt)], nên thuộc ảnh hưởng của Hoả Tinh (Mars).
Loại đá này mang yếu tố của hỏa tinh với nguyên tố chủ đạo là nguyên tố Lửa. Vì vậy nó tác động lên hệ
sinh dục, bộ phận sinh dục, tuyến thượng thận. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho
các bệnh liên quan đến tình dục như yếu sinh lý, liệt dương, khoái cảm kém nhằm
tăng cường sinh lực tình dục. Nó còn giúp tăng cường ý chí và tư tưởng, đặc
biệt là sự tham vọng, đầy năng lượng, đam mê, nam tính, hành động, kỷ luật,
lòng nhiệt huyết, nhiệt tình trong tình dục... nhấn mạnh yếu tố ý chí. Về mặt
tinh thần, loại đá này được cho là trấn giữ các mối quan hệ của nhà chiêm tinh
thứ 3 và 10: anh em, bà con (nhà Fratres); chức vụ, nhiệm (nhà Regnum). Dành hỗ
trợ cho những người có mối quan hệ đã nêu không được suông sẻ để cải thiện tình
hình. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố hỏa tinh bảo trợ về toán và
suy luận nói chung (Dante Alighieri). Dành cho những người làm trong lĩnh vực
liên quan đến tính toán như các ngành toán, vật lý, kỹ sư, cơ giới, thủ quỹ,
thủ kho, buôn bán, kế toán...
Loại đá này chứa [P (phosphorus, Tiếng Việt: phosphor)], nên thuộc ảnh
hưởng của Mộc Tinh (Jupiter).
Loại đá này mang yếu tố mộc tinh, vì vậy có tác động lên vùng bụng, gan,
tuyến yên, lớp mỡ quanh eo, đùi. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên
quan đến sự nghèo khó (suy dinh dưỡng) và cả giàu có (béo phì), các chứng liên
quan đến bụng, gan (đau bụng). Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là trấn
giữ các mối quan hệ của nhà chiêm tinh thứ 2 và 9: tài sản, tiền bạc (nhà
Lucrum) và du hành, du lịch (nhà Iter). Dành hỗ trợ cho những người có vấn đề
với tiền bạc hay gặp vận rủi, những người muốn đi du lịch, hay di cư không được
xuông sẻ, thúc đẩy tiền bạc và thường xuyên du hành. tăng cường vật chất và sở
hữu, đặc biệt là sự phát triển, thịnh vượng, may mắn, tự do, du hành, luật
pháp, nhân đạo,... nhấn mạnh đến yếu tố giàu có vật chất. Thuyết của Dante
Alighieri, cho rằng yếu tố mộc tinh bảo trợ về địa lý và cấu trúc nói chung
(Dante Alighieri). Vì vậy, đá này dành cho những người làm trong lĩnh vực liên
quan đến các địa lý và du lịch như hướng dẫn viên du lịch, phi công, hoa tiêu, tài
xế, cục địa dư, tàu hỏa, khảo cổ, xây dựng cầu đường...
Loại đá này chứa [H (hydrogen, Tiếng Việt: hydro), Be (beryllium, Tiếng
Việt: beryli), O (oxygen, Tiếng Việt: oxy)], nên thuộc ảnh hưởng của Địa Tinh
(Primius)
Loại đá này mang yếu tố Primius với nguyên tố chủ đạo là nguyên tố Đất, vì
vậy tác động lên hệ cơ bắp, búi cơ tay chân, cơ hoành, da răng và các lông tóc
bên ngoài. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến các yếu tố
tóc, lông và cơ như chứng rụng tóc, đau răng, bị da liễu, hoặc các chứng liên
quan đến cơ như chuột rút, teo cơ, phù thủng... Ngoài ra còn tăng cường vật
chất và sở hữu, đặc biệt là sự đột phá, cấp tiến, cách mạng, cải biên xã hội,
đẩy mạnh tự do, bất cần, vô chính phủ... nhấn mạnh đến yếu tố sở hữu. Về mặt
tinh thần, loại đá này được cho là không trấn giữ cung nào theo Chiêm Tinh Cổ,
nhưng trấn giữ vị trí con rồng (Dragons), ở hai vị trí đầu rồng và đuôi rồng,
Chiêm tinh gọi là Caput Draconis và Cauda Draconis, tiếng Việt hay dịch là La
Hầu và Kế Đô. Không có quan niệm chính thức cho hai vị trí này. Thông thường,
người ta coi nó là đại diện cho tính tốt và xấu trong mỗi con người. Vì vậy, nó
thúc đẩy các mối quan hệ về con người và bản chất con người. Thuyết của Dante
Alighieri, cho rằng yếu tố này bảo trợ về không gian và thời gian nói chung.
Dành cho những người làm trong lĩnh vực liên quan đến các không gian và thời
gian như người làm đồng hồ, những người rung chuông, gác cổng, những người canh
giờ tàu hỏa,... hoặc những người cảnh báo tư tưởng (gọi là những người tiền vệ
- avantgarde).
0 Comments