Kalinite
THUYẾT THẠCH LÝ HOÀNG ĐẠO (ZODIAC STONE THEORY)
Theo
Thuyết Thạch Lý Hoàng Đạo (Zodiac Stones Theory) thì loại đá này màu trắng trong suốt, được xếp vào loại
đá bản mệnh của mùa hè và xếp vào đá bản mệnh của cung Song Tử, thuộc hệ Khí.
Vì vậy, những ai sinh vào giữa 21 tháng 5 đến 21 tháng 6 hằng năm thì được xem
là có lợi khi đeo loại đá này.
Thuyết Đá tháng Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo tháng như sau: tháng một màu đỏ cam, tháng hai màu tím tươi, tháng ba màu xanh lam, tháng tư màu trắng trong, tháng năm màu lục đen, tháng sáu màu trắng đục, tháng bảy màu đỏ tươi, tháng tám màu xanh chuối, tháng chín màu xanh lá, tháng mười màu đen, tháng mười một màu vàng, tháng mười hai màu chàm.
THUYẾT
THẠCH LÝ HOA GIÁP (HWANGAP THEORY)
Thuyết Hoa Giáp (Hwangap) có nhiều luận thuyết khác nhau. Theo phép tính theo năm, Phương Đông dựa trên Can Chi, lập luận dựa trên ngũ hành, phối màu tạo nên bộ hoa giáp sắc pháp. Từ Giáp Tý là sắc đỏ ban mai, chuyển dần cho đến Quý Hợi là sắc tím trời khuya, tạo nên hơn 60 màu khác nhau. Theo phép tính theo tháng, người ta căn cứ vào địa chi của tháng sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần, tháng 2 là Mão, tháng 3 là Thìn, tháng 4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi, tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu, tháng 9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu, cùng phối hợp với ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng dùng đá có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ thuộc Hỏa (ứng dùng đá có tông màu cam đỏ hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có tông màu trắng, xám, ánh bạc), Tý Hợi thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu đen, chàm, tím), Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ (ứng dùng đá có tông màu vàng, trong, ánh kim). Từ can và chi kết hợp, tạo thành phối 60 màu sắc khác nhau trong Hoa Giáp. Thuyết về tháng bản mệnh này được dùng nhiều rộng rãi vì đơn giản, dễ tính ra.
THUYẾT THẠCH LÝ QUANG SẮC (CHROMATHERAPY THEORY)
Theo
Thuyết Thạch Lý Quang Sắc (Chromatherapy Theory) loại đá này có màu trắng trong
đại diện cho sự điều hòa và cân bằng. Loại đá này tăng cường sự trầm tĩnh, cân
bằng trong tâm hồn. Có tác dụng thanh lọc, thanh tẩy tinh thần. Nó dành cho những
người bị trầm cảm, áp lực hoặc nhiều tâm sự. Cũng dành chủ yếu cho những người
làm việc trí óc như nhân viên văn phòng, nhân viên kế toán hay các ngành nghề
viết lách như nhà văn hay báo chí.
Là một trong những màu đầu tiên được sử dụng trong nghệ thuật. Hang động
Lascaux ở Pháp bảo tồn những bức tranh tường với hình ảnh những chú bò đực và
các động vật khác được vẽ bởi các nghệ sĩ thời kỳ đồ đá cách đây 18000 – 17000
năm. Họ đã sử dụng Calcite và đá vôi. Đôi khi nó được dùng làm nền, đôi khi thì
làm điểm nhấn. Cùng với than củi, màu đỏ và màu vàng trong những bức tranh làm
cho chúng sinh động hơn rất nhiều.
THUYẾT THẠCH LÝ MẬT TÔNG (BUDDHISM THEORY)
Thuyết
Phật Giáo Mật Tông, loại đá này có màu trắng, là bổn sắc của Tỳ Lô Giá Na Như
Lai (Vairochana). Ngài là sự chuyển hóa của vô minh thành trí huệ. Màu trắng đại
diện cho thanh tịnh tướng ứng với mắt. Đeo loại đá này sẽ được Tỳ Lô Giá Na Như
Lai Phật hộ trì, hỗ trợ về mắt và sự tinh anh. Vì đây cũng là màu của cõi trời,
đá này được coi là bùa hộ về sắc dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về sắc dục.
Tử Thư nói về màu trắng như sau:
Phật Tỳ Lô Giá Na hiện thân ở dạng có bốn mặt cùng lúc nhận biết tất cả
các phương hướng. Ngài có màu trắng bởi vì sự nhận biết đó không cần sự pha màu
nào cả, đích thị là màu chánh gốc, màu trắng. Ngài đang cầm một bánh xe có tám
nan hoa, nó thể hiện sự vượt lên trên mọi nhận thức về phương hướng và thời
gian. Toàn bộ sự biểu tượng hóa Ngài Phật Tỳ Lô Giá Na thể hiện khái niệm của
cái thấy không gian toàn cảnh cùng khắp; cả hai: trung tâm và chu vi đều có khắp
nơi. Đó là sự mở toang trọn vẹn của thức, siêu việt khỏi thức uẩn. Vượt lên
trên sắc uẩn là những tia sáng có hình như cái gương, màu trắng, lấp lánh, rõ từng
chi tiết, chiếu ra từ tim của Phật Kim Cương Tát Đỏa.
THUYẾT THẠCH LÝ LINH KHÍ (REIKI THEORY)
Thuyết
Thạch Lý Linh Khí (Reiki Theory) cho rằng đá này có màu trắng được coi là thuộc
về hành Kim, vì vậy có tác dụng với Thủ thái âm phế kinh và Thủ dương minh đại tràng kinh. Tương ứng với
các kinh lạc trên, đá này có tác dụng chữa trị cho các bệnh tương ưng sau. Thủ
thái âm phế kinh chủ trị về bệnh chứng các bộ vị phế, ngực, hầu họng, bệnh sốt,
tự hãn, đạo hãn, tiểu đường và bệnh chứng của bộ vị kinh này đi qua. Thủ dương
minh đại tràng kinh chủ trị về bệnh chứng của các bộ vị trước đầu, mặt, miệng,
răng, mắt, tai, mũi, hầu họng, bệnh chứng bộ vị ngực bụng, bệnh phát sốt, phong
chẩn, bệnh cao huyết áp và bệnh chứng của bộ vị kinh này đi qua.Các bệnh này sẽ
được chữa lành bằng cách sử dụng các viên đá để ấn vào các huyệt đạo thuộc kinh
lạc tương ứng.
THUYẾT THẠCH LÝ NGŨ HÀNH (WUHANH THEORY)
Ở Việt Nam, thuyết Hoa Giáp được trình bày trong hầu hết
các sách về Thạch Lý Học, nhưng hầu hết chỉ dừng lại ở lý luận về màu sắc theo
thuyết Ngũ hành. Cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, cuốn Đá Quý Việt Nam
của ts. Hoàng Thế Ngữ, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh
Linh đều có nói đến thuyết này. Tuy nhiên, sự phân định màu sắc và ngũ hành
không giống nhau. Ví dụ như Ts Hoàng Thế Ngữ trong cuốn Đá Quý Việt Nam đưa ra
Hỏa ứng màu đỏ, Thủy ứng màu xanh, Thổ ứng màu nâu, Mộc ứng màu lục, Kim ứng
màu vàng trắng đen. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý
quy định khác Hỏa ứng màu đỏ hồng tím, Thủy ứng màu đen sẫm, Thổ ứng vàng nâu,
Mộc ứng lam lục, Kim ứng trắng bạc. Cá biệt có cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của
ĐĐ. Thích Minh Nghiêm là có nhắc đến thuyết này ứng dụng lý luận lên hình dạng
của tinh thể, tuy nhiên không có khai triển đầy đủ. Thuyết này các phái đạo gia
phong thủy khai thác và phát triển rất hoàn chỉnh, được trình bày tóm tắt như
bên trên đây.
Thuyết Ngũ Hành cho
rằng Lam Đồng Quáng thuộc về Mộc (xanh dương đậm) phối Hỏa (nhọn), tức Mộc Cục.
Do đó, Lam Đồng Quáng giúp khắc chế các bản mệnh Thủy – Hỏa như Nhâm Ngọ, Quý Tỵ,
Bính Tý, Đinh Hợi, vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này.
Lam Đồng Quáng cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Hỏa (Mộc sinh Hỏa), gồm mệnh
thuộc Hỏa Mộc và thuần Hỏa: Bính Dần, Đinh Mão, Giáp Ngọ, Ất Tỵ, Bính Ngọ, Đinh
Tỵ, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại ngọc này.
THUYẾT
THẠCH LÝ TỨ TRỤ
Thuyết Tứ Trụ (Sìzhù) có thể ứng dụng từ Bát Tự trong
Thuyết Tứ Trụ để bổ cứu, dựa vào màu của đá để tương hỗ lấy mệnh. Chủ yếu dựa
vào thiên can, lấy âm dương và ngũ hành của thiên can để tính lấy bốn phép Kiêu
Ấn, Thực Thương, Tỷ Kiếp, Quan Sát và Tài, dụng vào địa chi mà thành Thập Thần.
Từ đó luận ra được Nhật Can và Nguyệt Lệnh, dựa vào sự phối hợp của nó trong
sinh thời mà dự biết lợi yếu của bản mệnh. Biết được lợi yếu của bản mệnh rồi,
mới dùng ngũ hành trong đá ngọc mà điều hòa. Có sách viết: Nhật Can mạnh yếu cần
có sự tương trợ của Nguyệt Lệnh. Trong trường hợp không có Nguyệt Lệnh hỗ trợ,
các can chi trong trụ liền suy yếu. Có thể dùng phương pháp đá phong thủy để bổ
cứu, điều hậu cho Nhật Can.
Ở Việt Nam, thuyết Tứ Trụ được sử dụng cực kỳ nhiều, tất
cả các sách Thạch Lý Học tại Việt Nam đều có dẫn xuất như cuốn Đá Quý Việt Nam
của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh
Nghiêm, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh , cuốn Thạch
Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc. Tuy nhiên, có khá nhiều sai biệt giữa các sách với
nhau về cách tính, điều này cũng dễ hiểu vì đây là ứng dụng tùy thuộc vào cách
luận Tứ Trụ. Ở đây chỉ giữ lại một thuyết để thống nhất là sử dụng sách của ĐĐ.
Thích Minh Nghiêm.
THUYẾT
THẠCH LÝ LUÂN XA (CHAKRA THEORY)
Thuyết Luân Xa (Chakra) được trình bày trong trào lưu Thời
Đại Mới (New Age) bởi các lãnh tụ Thông Thiên Học như Johann Georg Gichtel, hoặc
Yoga như Swami Sivananda. Vẫn vận dụng chủ yếu là màu sắc của viên đá, được dịch
nghĩa theo hình ảnh các luân xa trong văn hóa Ấn Độ trong Áo Nghĩa Thư. Từ
nguyên thủy trong tiếng Sanskrit cakra mang ý nghĩa là "bánh xe" hay
"vòng tròn", các luân xa được miêu tả như là xếp thành một cột thẳng
từ gốc của cột sống lên đến đỉnh đầu, liên quan tới một số chức năng tâm sinh
lý, một khía cạnh của nhận thức, đánh dấu bởi một màu sắc nào đó. Chúng thường
được hình tượng hóa bằng các hoa sen với số cánh khác nhau cho mỗi luân xa. Các
luân xa được cho là đem lại năng lượng cho cơ thể và có liên quan đến các phản ứng
của cơ thể, tình cảm hay tâm lý của một người, là các điểm chứa năng lượng sống
(prana, cũng được gọi là shakti) lưu chuyển giữa các điểm đó dọc theo các đường
chảy (gọi là nadis). Chức năng của các chakra là xoay tròn để thu hút vào năng
lượng sống từ viên đá để giữ cân bằng cho sức khỏe về tâm linh, tâm lý, tình cảm
và sinh lý của cơ thể.
Ở Việt Nam, thuyết Luân Xa được biết đến rộng rãi nhất
trong số các thuyết về thạch lý học. Tất cả các sách đều có đề cập đến thuyết
này trừ cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Sự nhận định
cũng ít nhiều sai khác. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá
Quý quy định Luân xa gốc ứng màu đỏ đen, luân xa xương cùng ứng màu cam phấn hồng,
luân xa thái dương ứng màu vàng, luân xa tim ứng màu xanh lá, luân xa họng ứng
màu xanh lam, luân xa trán ứng màu chàm tím, luân xa vương miện ứng màu trắng
và tím nhạt.
THUYẾT
THẠCH LÝ VI LƯỢNG TRỊ LIỆU (OLIGOTHERAPY THEORY)
Thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy) đề xuất bởi bác
sĩ Jacques Ménétrier và Gabriel Bertrand, vào giữa thế kỷ 20. Những người thực
hành Thạch Lý Học áp dụng lý thuyết này trong việc trị liệu thông qua cơ sở giống
như Thuyết Vi Lượng Đồng Căn (Homeopathy) của Samuel Hahnemann. Christian
Friedrich Samuel Hahnemann (1755-1843), một nhà vật lý học, hóa học và y học
người Đức, đã đưa ra một lý thuyết liên quan đến sự quan hệ yếu tố trong chứng
và chất của cơ thể người, sau này phát triển thành hệ thống Vi Lượng Đồng Căn.
Mỗi vi lượng trong đá được cho là sẽ tác động đến vi lượng tương ứng trong cơ
thể người, và nhờ đó bộ phận chứa vi lượng đó được chữa khỏi.
Ở Việt Nam, thuyết Vi Lượng được nhắc đến duy nhất trong
cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh, nhưng khá sơ khai,
vì cho rằng đây là thuyết phức tạp, chuyên sâu. Các cuốn khác, hầu như không hề
biết gì về thuyết này.
Mỗi viên đá, bằng vi
lượng chứa trong nó, được tin là sẽ tác động lên phần sinh lý cơ thể, giúp gợi
ý cho việc chữa bệnh hoặc tác động lên tinh thần.
Đá này có công thức là KAl(SO4)2·11H2O], bao gồm các nguyên tốS (sulfur, Tiếng Việt: lưu
huỳnh), H (hydrogen, Tiếng Việt: hydro), O (oxygen, Tiếng Việt: oxy), K
(kalium, Tiếng Việt: kali Al (aluminum, Tiếng Việt: nhôm).
Nguyên tố Oxygen (O) có số
nguyên tử là 8, chiếm tỉ trọng trong cơ thể người là 0.65. Thành phần của
nguyên tố này trong cơ thể trung bình là 43kg chiếm tỷ lệ là 24%. Tác động đến
sức khỏe và sự sống của hầu hết các loài động thực vật trên thế giới.
Nguyên tố Potassium (K) có
nguyên tử khối là 19, tỉ trọng cơ thể là 0.25 và có khối lượng trung bình
0.14kg đạt tỷ lệ 0.033%. Tác động vừa tích cực do Kali là thành phần chủ chốt
trong các dây thần kinh nơ ron, và các búi co cơ trong cơ thể. Tác dụng lên các
bệnh về cơ khớp, và các bệnh về thần kinh hoặc tâm lý.
Nguyên tố Sulfur (S) có nguyên tử
khối là 16, tỉ trọng cơ thể là 0.25, khối lượng trung bình 0.14kg, tỷ lệ nguyên
tố là 0.038% trong không khí. Tác động tích cực cho sức khỏe do lưu huỳnh là
thành phần chủ yếu của cơ bắp của sinh vật. Lưu huỳnh cũng cấu thành nên nhiều
chất hóc môn trong cơ thể như Cysteine, Methionine, Biotin, Thiamine.Tác dụng
lên cơ bắp, hỗ trợ khả năng vận động, cử động. Được cho là có tác dụng hỗ trợ
điều trị thương tích ở cơ và phục hồi cơ.
Nguyên tố Aluminum (Al) số hiệu
nguyên tử là 13, tỉ trọng của nguyên tố Nhôm trong cơ thể chúng ta là 870×10-7
đạt khối lượng trung bình 0.00006kg chiếm tỷ lệ so với các nguyên tố khác là
0.000015%. Có tác dụng nhất định với cơ
thể con người, dù chưa rõ ràng.
THUYẾT
THẠCH LÝ BÁT HOÀ NGUYÊN TỐ (LAW OF OCTAVES THEORY)
Thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves) của Newlands ứng dụng
trong giả kim thuật, cho phép tính toán sự liên hệ của khoáng chất trong đá và
chiêm tinh,từ đó suy dẫn đến các ứng dụng của đá lên cơ thể con người. Vào năm
1864, John Alexander Reina Newlands (1837-1898), nhà hóa học người Anh, tìm ra
quy luật bát bội: Mỗi nguyên tố hóa học đều thể hiện tính chất tương tự như
nguyên tố thứ 8 khi xếp các nguyên tố theo khối lượng nguyên tử tăng dần. Điều
này kích thích các nhà huyền học giả kim thuật vì giả kim từ lâu không thể tạo
ra bất kỳ quy luật nào tương xứng phù hợp với khoa học hiện đại. Quy luật số 8 ứng
với tám hành tinh (gồm cả trái đất) mà nền tảng của nó đã có từ lâu, và còn
tương ứng nhiều hình thức tâm linh huyền học khác liên đới với con số 8 như
Geomancy (bói đất). Từ đó người ta (mà nổi tiếng nhất là nhà huyền học George
Ivanovich Gurdjieff, người cực kỳ yêu quý thuyết Law of Octaves) xây dựng nên hệ
tính để tìm ra nguyên tố chủ đạo và hành tinh chủ đạo trong một viên đá. Từ đó,
dẫn suy ra những đặc tính chữa bệnh hoặc tác động lên tinh thần.
Ở Việt Nam, hầu như không có sách nào đề cập đến thuyết
này. Ngay cả ở những sách nước ngoài cũng rất hiếm gặp. Thường ở các sách huyền
học như các tạp bản của George Gurdjieff, và người kế thừa dưới dạng các
enneagram (bát tố đồ).
Loại đá này chứa [F (fluorum, Tiếng Việt: fluor), Na (natrium, Tiếng
Việt: natri), Mg (magnesium, Tiếng Việt: magiê), Al (aluminum, Tiếng Việt:
nhôm), Si (siliconium, Tiếng Việt: silic), P (phosphorus, Tiếng Việt:
phosphor), S (sulfur, Tiếng Việt: lưu huỳnh)], nên thuộc ảnh hưởng của Mộc
Tinh (Jupiter).
Loại đá này mang yếu tố mộc tinh, vì vậy có tác động lên vùng bụng,
gan, tuyến yên, lớp mỡ quanh eo, đùi. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh
liên quan đến sự nghèo khó (suy dinh dưỡng) và cả giàu có (béo phì), các chứng
liên quan đến bụng, gan (đau bụng). Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là
trấn giữ các mối quan hệ của nhà chiêm tinh thứ 2 và 9: tài sản, tiền bạc (nhà
Lucrum) và du hành, du lịch (nhà Iter). Dành hỗ trợ cho những người có vấn đề với
tiền bạc hay gặp vận rủi, những người muốn đi du lịch, hay di cư không được
xuông sẻ, thúc đẩy tiền bạc và thường xuyên du hành. tăng cường vật chất và sở
hữu, đặc biệt là sự phát triển, thịnh vượng, may mắn, tự do, du hành, luật
pháp, nhân đạo,... nhấn mạnh đến yếu tố giàu có vật chất. Thuyết của Dante
Alighieri, cho rằng yếu tố mộc tinh bảo trợ về địa lý và cấu trúc nói chung
(Dante Alighieri). Vì vậy, đá này dành cho những người làm trong lĩnh vực liên
quan đến các địa lý và du lịch như hướng dẫn viên du lịch, phi công, hoa tiêu,
tài xế, cục địa dư, tàu hỏa, khảo cổ, xây dựng cầu đường...
0 Comments