Andalusite
红柱石 - Hồng Trụ Thạch
Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị Liệu, Thạch Học
Trị Liệu dịch từ chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ. Lithotherapy
phân thành Litho đến từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá, therapy đến từ chữ
‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ] tức là chữa trị, lithotherapy tức là chữa trị bệnh bằng
liệu pháp tiếp xúc với đá ở ngoài da. Lithotherapy là một môn cận khoa học, nó
xuất phát từ nền lý luận huyền học và thần bí học. Mặc dù có nhiều chứng minh về
hiệu lực cũng như khả năng của nó, đã được ứng dụng từ lâu trong y học cổ truyền
lẫn y học hiện đại, nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức màn bí mật của những điều
thần kỳ giống như nền Đông Y của người Trung Quốc hay Nam Y của người Việt
Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc biệt trình bày về những lý luận căn bản trong Thạch
Lý Học đối với Andalusite, nằm trong chuỗi khảo cứu, viết riêng cho tuần báo
UNESCO.
Giới thiệu đá: Ở Andaluxia (Andalusia Tây Ban Nha) đã tím thấy
những viên đá rất đẹp có thể biến màu tùy theo gốc tới của tia sáng mặt trời.
Chúng có ánh nâu-da cam cho tới ánh màu lục.Trong khoảng vật học,hiện tượng đó
gọi là tính đa sắc. Năm 1798 loài khoáng vật này được G.Delametri đặt tên là
andalusite. Về phương diện hóa học andalusite là nhóm silicat. Khi mài dũa loại
đá này thợ kiêm hoàn cố làm sao để tính đa sắc được thể hiện mức tối đa. Trong
tiếng Hán 红柱石 (Hồng Trụ Thạch) trong đó 红 nghĩa là hồng, 柱 nghĩa là hình trụ, 石 nghĩa là thạch, là viên đá màu đỏ có hình trụ. Andalusite có màu
xám, vàng, nâu, vàng kim, nâu cam và hồng. Có đá màu đỏ và xanh lá Andalusite
là khoáng vật phổ biến trong các quá trình biến chất khu vực, được tạo thành
trong điều kiện áp suất thấp và nhiệt độ trung bình đến cao. Các khoáng vật
kyanit và sillimanit là các dạng thù hình của andalusit, các khoáng vật này xuất
hiện trong các cơ chế nhiệt và áp suất khác nhau và hiếm khi chúng xuất hiện
cùng nhau trong cùng một loại đá. Do đó 3 khoáng vật này là công cụ hữu ích
trong việc xác định yếu tố nhiệt - áp suất mà đá chứa nó trải qua quá trình biến
chất. Theo các nhà thạch trị liệu học hiện đại cho rằng đồ trang sức bằng
andalusite kích thích và hồi phục quá tình chuyển hóa. Có một số bằng chứng
cho thấy đá andalussite ức chế sự phát triển của bệnh nấm. Hyastolit là một biến
thể của andalusite, sau khi đánh bóng trên bên mặt của đá hiện lên chữ thập màu
rất đặc biệt. Ngay từ xưa đá andalusite đã được sử dụng phổ biến trong giới tu
hành để cắt gọt thành tràng hạt và bùa. Trong khi đó các hiệp sĩ dòng malta thì
dùng những chiếc nhẫn mặt đá từ andalusite để tránh thảm họa và duy trì tình
yêu.
Giới thiệu các thuyết: Giá trị thạch lý học của Adalusite được trình bày thành các thuyết cơ bản: thuyết Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học (Chromotherapy), thuyết Linh Khí (Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves), thuyết Thái Lặc Mã (Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết Hoa Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié).
Thuyết
Đông Phương Bản Mệnh có nhiều
luận thuyết khác nhau. Theo phép tính theo năm, Phương Đông dựa trên Can
Chi, lập luận dựa trên ngũ hành, phối màu tạo nên bộ hoa giáp sắc pháp. Từ Giáp
Tý là sắc đỏ ban mai, chuyển dần cho đến Quý Hợi là sắc tím trời khuya, tạo nên
hơn 60 màu khác nhau. Theo phép tính theo tháng, người ta căn cứ vào địa chi
của tháng sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần, tháng 2 là Mão, tháng 3 là
Thìn, tháng 4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi, tháng 7 là Thân, tháng 8
là Dậu, tháng 9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu, cùng
phối hợp với ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Dần Mão thuộc Mộc
(ứng dùng đá có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ thuộc Hỏa (ứng dùng đá có
tông màu cam đỏ hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có tông màu trắng, xám,
ánh bạc), Tý Hợi thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu đen, chàm, tím), Thìn Mùi
Tuất Sửu thuộc Thổ (ứng dùng đá có tông màu vàng, trong, ánh kim). Thuyết về
tháng bản mệnh này được dùng nhiều rộng rãi vì đơn giản, dễ tính ra. Ở Việt Nam,
cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng
Thế Ngữ, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh đều có nói
đến thuyết này. Tuy nhiên, sự phân định màu sắc và ngũ hành không giống nhau.
Ví dụ như Ts Hoàng Thế Ngữ trong cuốn Đá Quý Việt Nam đưa ra Hỏa ứng màu đỏ,
Thủy ứng màu xanh, Thổ ứng màu nâu, Mộc ứng màu lục, Kim ứng màu vàng trắng
đen. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định khác
Hỏa ứng màu đỏ hồng tím, Thủy ứng màu đen sẫm, Thổ ứng vàng nâu, Mộc ứng lam
lục, Kim ứng trắng bạc.
Thuyết Bản Mệnh phương đông xếp loại đá này vào năm Nhâm Thân, thuộc Thủy Cục, về Dương Phần. Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Nhâm Thân sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu nâu đỏ, thuộc về hành Hỏa, ứng về tháng Tỵ Ngọ, tức tháng 4,5.
Thuyết Bản Mệnh phương đông xếp loại đá này vào năm Nhâm Thân, thuộc Thủy Cục, về Dương Phần. Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Nhâm Thân sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu nâu đỏ, thuộc về hành Hỏa, ứng về tháng Tỵ Ngọ, tức tháng 4,5.
Thuyết Tây
Phương Bản Mệnh là thuyết rất cơ bản của Thạch Lý
Học Phương Tây, dựa trên Cung Hoàng Đạo, mười hai cung mỗi cung chủ chế một
màu, tùy vào ngày bản sinh mà màu sắc đậm nhạt khác nhau theo thời gian, từ đó
luận về đá bản sinh (Birthstones) được dùng nhiều trong văn hóa phương tây. Mặc
dù vậy, hầu hết các tài liệu đều xếp tương đối bất đồng, từ thế kỷ 16 trở đi,
hầu hết không được thống nhất. Ở đây, chỉ trích dẫn những quan điểm được công
nhận rộng rãi. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo tháng như sau:
tháng một màu đỏ cam, tháng hai màu tím tươi, tháng ba màu xanh lam, tháng tư
màu trắng trong, tháng năm màu lục đen, tháng sáu màu trắng đục, tháng bảy màu
đỏ tươi, tháng tám màu xanh chuối, tháng chín màu xanh lá, tháng mười màu đen,
tháng mười một màu vàng, tháng mười hai màu chàm. Thuyết Bản Mệnh phương tây
được định nghĩa theo hoàng đạo như sau: Bạch Dương màu xanh đen, Kim Ngưu màu
xanh dương đậm, Song Tử màu trắng trong, Cự Giải màu xanh lá mạ, Sư Tử màu đen,
Xử Nữ màu cam, Thiên Bình màu lục nhạt, Thiên Yết màu lam, Nhân Mã màu vàng, Ma
Kết màu đỏ tươi, Bảo Bình màu đỏ sậm, Song Ngư màu tím. Thuyết bản mệnh Phương
Tây được ứng dụng rộng rãi trong đời sống từ thế kỷ 18, có tương đối nhiều các
dị biệt tùy vào sách. Ở Việt Nam, thuyết này cũng được sử dụng khá nhiều, nhưng
không hiểu vì sao trong tất cả các cuốn Thạch Lý Học của Việt Nam, ngoại trừ
cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc và cuốn Tất Cả Về Khoáng Vật Chữa Bệnh
Mầu Nhiệm (dịch của Jasper Stones của Nga), đều không nhắc đến thuyết này.
Đá này màu nâu đỏ được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng Một, mùa Xuân và xếp vào đá bản mệnh của cung Ma Kết, thuộc hệ Đất. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 22 tháng 12 đến 20 tháng 1 hằng năm, hoặc vào tháng 1 thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này.
Đá này màu nâu đỏ được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng Một, mùa Xuân và xếp vào đá bản mệnh của cung Ma Kết, thuộc hệ Đất. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 22 tháng 12 đến 20 tháng 1 hằng năm, hoặc vào tháng 1 thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này.
Thuyết Quang Lý Học (Chromatherapy) được ra đời rất lâu từ giả kim thuật, nhưng chính thức
định hình đặt tên bởi tiến sĩ Christian Agrapart. Thạch Lý Học sử dụng lại thuật
ngữ này, nhưng không sử dụng liệu pháp ánh sáng như Agrapart mà lý luận dựa
trên màu của loại đá. Nó gồm một phần nghiên cứu về màu sắc trong y học của
Agrapart và một phần nghiên cứu về màu sắc trong tâm lý học. Màu sắc trong tâm
lý học đã được nghiên cứu lâu đời như bảng phân chia màu sắc và tâm trạng
"rose of temperaments" (Temperamenten Rose) của Goethe và Schiller
(1798). Nhưng nghệ thuật này chỉ thăng hoa nhờ nghiên cứu của Carl Jung khi
ghép tính biểu tượng của màu sắc vào tâm lý con người. Từ đó, những người
nghiên cứu sau này sử dụng sự tương ứng màu sắc đó trong viên đá và đặt nền tảng
lý thuyết cho Thạch Lý Học. Dựa vào bảng màu sắc đó, cho phép gợi ý đến tác động
chữa bệnh hoặc lên tinh thần con người.
Ở Việt Nam, thuyết Quang Lý Học này cũng được sử dụng rộng rãi. Hầu hết các sách đều có đề cập trừ cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Trong đó cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh có thể coi là chi tiết nhất về thuyết này.
Thuyết Quang Lý Học cho rằng màu vàng sậm đại diện cho đam mê và cố gắng với sức mạnh làm tăng cường khả năng cố gắng, theo đuổi đam mê, niềm tin vào ý tưởng. Nó có tác dụng phát triển dành cho những người thiếu đam mê, hay bỏ lửng công việc, hoặc không hài lòng với bản thân. Màu vàng là màu giữa xanh lá cây và cam trên quang phổ của ánh sáng nhìn thấy được. Nó được gợi lên bởi ánh sáng với bước sóng trội là khoảng 570-590 nm. Trong Nhà thờ Công giáo La Mã, màu vàng tượng trưng cho kim loại vàng, và chìa khóa vàng cho Đất Thánh, mà Đấng Christ đã ban cho Thánh Phêrô. Màu vàng cũng có ý nghĩa tiêu cực, tượng trưng cho sự phản bội; Judas Iscariot thường được miêu tả mặc áo choàng màu vàng nhạt, và không có quầng sáng. Loại đá này phù hợp với những người trong các ngành nghề liên quan khởi nghiệp (nhà khởi nghiệp, người lập chính sách), hoặc những ngành khó, đòi hỏi khổ công như ngành dược, y khoa, hoặc những ngành đòi thời gian để đạt sự tinh xảo như các nghề thủ công, mỹ nghệ...
Ở Việt Nam, thuyết Quang Lý Học này cũng được sử dụng rộng rãi. Hầu hết các sách đều có đề cập trừ cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Trong đó cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh có thể coi là chi tiết nhất về thuyết này.
Thuyết Quang Lý Học cho rằng màu vàng sậm đại diện cho đam mê và cố gắng với sức mạnh làm tăng cường khả năng cố gắng, theo đuổi đam mê, niềm tin vào ý tưởng. Nó có tác dụng phát triển dành cho những người thiếu đam mê, hay bỏ lửng công việc, hoặc không hài lòng với bản thân. Màu vàng là màu giữa xanh lá cây và cam trên quang phổ của ánh sáng nhìn thấy được. Nó được gợi lên bởi ánh sáng với bước sóng trội là khoảng 570-590 nm. Trong Nhà thờ Công giáo La Mã, màu vàng tượng trưng cho kim loại vàng, và chìa khóa vàng cho Đất Thánh, mà Đấng Christ đã ban cho Thánh Phêrô. Màu vàng cũng có ý nghĩa tiêu cực, tượng trưng cho sự phản bội; Judas Iscariot thường được miêu tả mặc áo choàng màu vàng nhạt, và không có quầng sáng. Loại đá này phù hợp với những người trong các ngành nghề liên quan khởi nghiệp (nhà khởi nghiệp, người lập chính sách), hoặc những ngành khó, đòi hỏi khổ công như ngành dược, y khoa, hoặc những ngành đòi thời gian để đạt sự tinh xảo như các nghề thủ công, mỹ nghệ...
Thuyết Luân Xa (Chakra) được trình bày trong trào lưu Thời Đại Mới (New Age) bởi các
lãnh tụ Thông Thiên Học như Johann Georg Gichtel, hoặc Yoga như Swami
Sivananda. Vẫn vận dụng chủ yếu là màu sắc của viên đá, được dịch nghĩa theo
hình ảnh các luân xa trong văn hóa Ấn Độ trong Áo Nghĩa Thư. Từ nguyên thủy
trong tiếng Sanskrit cakra mang ý nghĩa là "bánh xe" hay "vòng
tròn", các luân xa được miêu tả như là xếp thành một cột thẳng từ gốc của
cột sống lên đến đỉnh đầu, liên quan tới một số chức năng tâm sinh lý, một khía
cạnh của nhận thức, đánh dấu bởi một màu sắc nào đó. Chúng thường được hình tượng
hóa bằng các hoa sen với số cánh khác nhau cho mỗi luân xa. Các luân xa được
cho là đem lại năng lượng cho cơ thể và có liên quan đến các phản ứng của cơ thể,
tình cảm hay tâm lý của một người, là các điểm chứa năng lượng sống (prana,
cũng được gọi là shakti) lưu chuyển giữa các điểm đó dọc theo các đường chảy (gọi
là nadis). Chức năng của các chakra là xoay tròn để thu hút vào năng lượng sống
từ viên đá để giữ cân bằng cho sức khỏe về tâm linh, tâm lý, tình cảm và sinh
lý của cơ thể.
Ở Việt Nam, thuyết Luân Xa được biết đến rộng rãi nhất trong số các thuyết về thạch lý học. Tất cả các sách đều có đề cập đến thuyết này trừ cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Sự nhận định cũng ít nhiều sai khác. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định Luân xa gốc ứng màu đỏ đen, luân xa xương cùng ứng màu cam phấn hồng, luân xa thái dương ứng màu vàng, luân xa tim ứng màu xanh lá, luân xa họng ứng màu xanh lam, luân xa trán ứng màu chàm tím, luân xa vương miện ứng màu trắng và tím nhạt.
Thuyết Luân Xa cho rằng loại đá này màu vàng ứng với luân xa mặt trời Manipura (hoa sen mười cánh). Manipura được coi là trung tâm động lực học, năng lượng, quyền lực (Itcha shakti), và thành tựu, phát ra prana_năng lượng cuộc sống thông qua việc đi vào cơ thể con người. Manipura là chakra chính thứ ba theo truyền thống Hindu. Nằm ở trên rốn hay phía dưới của túi mật celiac một chút, Manipura dịch từ tiếng Phạn là "Thành phố của đá quý" (Mani - ngọc quý, Pura hay Puri - thành phố). Manipura thường liên quan đến màu vàng, màu xanh dương trong tantra (hệ thống) cổ điển, và màu đỏ trong truyền thống Nath. Manipura có liên quan đến lửa và sức mạnh của sự biến đổi. Người ta nói rằng để kiểm soát tiêu hóa và chuyển hóa như là ngôi nhà của Agni (Agni là thực thể chịu trách nhiệm cho tất cả các quá trình tiêu hóa và trao đổi chất trong con người) và hơi thở thiết yếu Samana Vayu (năng lượng cuộc sống) . Năng lượng của Prana Vayu và Apana Vayu (năng lượng hướng vào và năng lượng hướng ra) gặp nhau tại một điểm trong một hệ thống cân bằng. Nó liên quan đến sức mạnh của lửa và sự tiêu hóa, cũng như thị giác và hành động tức thời. Thông qua thiền định Manipura, người ta nói rằng có thể đạt được sức mạnh tạo hóa (cứu lấy) hoặc hủy diệt thế giới.Vị trí của Manipura được xác định là nằm sau rốn hoặc túi mật celiac. Ứng luân xa này là khả năng tăng cường sự tiếp nhận, chuyển hóa, cảm thụ vẻ đẹp, cảm nhận môi trường xung quanh. Đặt viên đá ở vị trí ngay rốn, nơi có luân xa. Nó có tác động tuyến tụy và các tuyến thượng thận và vỏ thận. Ngoài ra còn các bộ phận thuộc ổ bụng như gan, phèo, lá lách, ruột... Các tác động này dẫn đến nó sẽ tác dụng cải thiện dành cho những người thiếu tinh tế, thiếu sự thấu hiểu, cảm nhận kém đối với môi trường xung quanh, bàng quang thờ ơ. Dành riêng cho những người hoạt động kinh doanh như khởi nghiệp, doanh nhân, buôn bán... hoặc những người sử dụng giác quan trong nghệ thuật: ẩm thực gia, họa sĩ, bình luận nghệ thuật... Theo cuốn “Tất cả về khoáng vật chữa bệnh màu nhiệm” của Jasper Stone, ông cho rằng đá Andalsusite có Luân xa vùng tim: tác động đến hệ thống tim mạch, tế bào tuyến vú, cột sống và hai tay; giúp khởi sinh lòng nhân ái, tính chân thành cởi mở, sự nhạy cảm; củng cố ý chí biến đổi thế giới.
Ở Việt Nam, thuyết Luân Xa được biết đến rộng rãi nhất trong số các thuyết về thạch lý học. Tất cả các sách đều có đề cập đến thuyết này trừ cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Sự nhận định cũng ít nhiều sai khác. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định Luân xa gốc ứng màu đỏ đen, luân xa xương cùng ứng màu cam phấn hồng, luân xa thái dương ứng màu vàng, luân xa tim ứng màu xanh lá, luân xa họng ứng màu xanh lam, luân xa trán ứng màu chàm tím, luân xa vương miện ứng màu trắng và tím nhạt.
Thuyết Luân Xa cho rằng loại đá này màu vàng ứng với luân xa mặt trời Manipura (hoa sen mười cánh). Manipura được coi là trung tâm động lực học, năng lượng, quyền lực (Itcha shakti), và thành tựu, phát ra prana_năng lượng cuộc sống thông qua việc đi vào cơ thể con người. Manipura là chakra chính thứ ba theo truyền thống Hindu. Nằm ở trên rốn hay phía dưới của túi mật celiac một chút, Manipura dịch từ tiếng Phạn là "Thành phố của đá quý" (Mani - ngọc quý, Pura hay Puri - thành phố). Manipura thường liên quan đến màu vàng, màu xanh dương trong tantra (hệ thống) cổ điển, và màu đỏ trong truyền thống Nath. Manipura có liên quan đến lửa và sức mạnh của sự biến đổi. Người ta nói rằng để kiểm soát tiêu hóa và chuyển hóa như là ngôi nhà của Agni (Agni là thực thể chịu trách nhiệm cho tất cả các quá trình tiêu hóa và trao đổi chất trong con người) và hơi thở thiết yếu Samana Vayu (năng lượng cuộc sống) . Năng lượng của Prana Vayu và Apana Vayu (năng lượng hướng vào và năng lượng hướng ra) gặp nhau tại một điểm trong một hệ thống cân bằng. Nó liên quan đến sức mạnh của lửa và sự tiêu hóa, cũng như thị giác và hành động tức thời. Thông qua thiền định Manipura, người ta nói rằng có thể đạt được sức mạnh tạo hóa (cứu lấy) hoặc hủy diệt thế giới.Vị trí của Manipura được xác định là nằm sau rốn hoặc túi mật celiac. Ứng luân xa này là khả năng tăng cường sự tiếp nhận, chuyển hóa, cảm thụ vẻ đẹp, cảm nhận môi trường xung quanh. Đặt viên đá ở vị trí ngay rốn, nơi có luân xa. Nó có tác động tuyến tụy và các tuyến thượng thận và vỏ thận. Ngoài ra còn các bộ phận thuộc ổ bụng như gan, phèo, lá lách, ruột... Các tác động này dẫn đến nó sẽ tác dụng cải thiện dành cho những người thiếu tinh tế, thiếu sự thấu hiểu, cảm nhận kém đối với môi trường xung quanh, bàng quang thờ ơ. Dành riêng cho những người hoạt động kinh doanh như khởi nghiệp, doanh nhân, buôn bán... hoặc những người sử dụng giác quan trong nghệ thuật: ẩm thực gia, họa sĩ, bình luận nghệ thuật... Theo cuốn “Tất cả về khoáng vật chữa bệnh màu nhiệm” của Jasper Stone, ông cho rằng đá Andalsusite có Luân xa vùng tim: tác động đến hệ thống tim mạch, tế bào tuyến vú, cột sống và hai tay; giúp khởi sinh lòng nhân ái, tính chân thành cởi mở, sự nhạy cảm; củng cố ý chí biến đổi thế giới.
Thuyết Hoa Giáp (Hwangap) dựa trên lý học phương đông, canh theo can chi bản mệnh của một người theo
ngày tháng năm sinh, rồi tính sự xung khắc hay tương hợp trong ngũ hành. Từ đó
đưa ra nguyên tắc vận dụng trong thạch học, nhờ vào ngũ hành trong khoáng thạch
đối chế lại với bản mệnh, nhằm điều hòa bản thân. Thuyết Ngũ Hành quy định theo
thiên can: Giáp Ất thuộc Mộc, Bính Đinh thuộc Hỏa, Mậu Kỷ thuộc Thổ, Canh Tân
thuộc Kim, Nhâm Quý thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành quy định theo địa chi: Dần Mão
thuộc Mộc, Ngọ Mùi thuộc Hỏa, Thân Dậu thuộc Kim, Hợi Tý thuộc Thủy, Thìn Mùi
Tuất Sửu thuộc Thổ. Từ thiên can, địa chi, quy định nên phối hành của bản mệnh:
Mậu Thìn thuộc về Thổ phối Thổ,… Khoáng thạch được phân theo ngũ hành dựa trên
màu sắc và hình dạng. Thuyết Ngũ Hành quy định màu sắc: Lục và Lam thuộc Mộc, Đỏ
và Cam thuộc Hỏa, Vàng và Trong thuộc Thổ, Trắng và Xám thuộc Kim, Đen và Tím
thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành quy định theo thể dạng: trụ và dài thuộc Mộc, nhọn
và góc thuộc Hỏa, vuông và cân thuộc Thổ, cong và tròn thuộc Kim, uốn và lượn
thuộc Thủy. Từ đó suy ra được phối hành của khoáng thạch: ví dụ Huyền Thiết Thạch
(Hematite) đen có thể dạng khối tròn (Botryoidal) được xem là Thủy phối Kim.
Thuyết Ngũ Hành quy định tương sinh như sau: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ
sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Thuyết Ngũ Hành quy định tương khắc như
sau: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc. Dựa
vào tương sinh tương khắc của Ngũ Hành để khắc chế hay phù trợ cho bản mệnh
thông qua việc đeo những khoáng thạch khác nhau trên cơ thể.
Ở Việt Nam, thuyết Hoa Giáp (Ngũ Hành Can Chi) được trình bày trong hầu hết các sách về Thạch Lý Học, nhưng hầu hết chỉ dừng lại ở lý luận về màu sắc theo ngũ hành. Cá biệt có cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm là có nhắc đến thuyết này ứng dụng lý luận lên hình dạng của tinh thể, tuy nhiên không có khai triển đầy đủ. Thuyết này các phái đạo gia phong thủy khai thác và phát triển rất hoàn chỉnh, được trình bày tóm tắt như bên trên đây.
Thuyết Hoa Giáp cho rằng Hồng Trụ Thạch thuộc về Thổ (vàng sậm) phối Hỏa (nhọn), tức Thổ Cục. Do đó, Hồng Trụ Thạch giúp khắc chế các bản mệnh Kim – Hỏa như Bính Thân, Đinh Dậu, Canh Ngọ, Tân Tỵ, vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Hồng Trụ Thạch cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Kim (Thổ sinh Kim), gồm có mệnh thuộc Thổ Kim và thuần Kim: Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Thìn, Canh Tuất, Tân Mùi, Tân Sửu, Canh Thân, Tân Dậu, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại ngọc này.
Ở Việt Nam, thuyết Hoa Giáp (Ngũ Hành Can Chi) được trình bày trong hầu hết các sách về Thạch Lý Học, nhưng hầu hết chỉ dừng lại ở lý luận về màu sắc theo ngũ hành. Cá biệt có cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm là có nhắc đến thuyết này ứng dụng lý luận lên hình dạng của tinh thể, tuy nhiên không có khai triển đầy đủ. Thuyết này các phái đạo gia phong thủy khai thác và phát triển rất hoàn chỉnh, được trình bày tóm tắt như bên trên đây.
Thuyết Hoa Giáp cho rằng Hồng Trụ Thạch thuộc về Thổ (vàng sậm) phối Hỏa (nhọn), tức Thổ Cục. Do đó, Hồng Trụ Thạch giúp khắc chế các bản mệnh Kim – Hỏa như Bính Thân, Đinh Dậu, Canh Ngọ, Tân Tỵ, vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Hồng Trụ Thạch cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Kim (Thổ sinh Kim), gồm có mệnh thuộc Thổ Kim và thuần Kim: Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Thìn, Canh Tuất, Tân Mùi, Tân Sửu, Canh Thân, Tân Dậu, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại ngọc này.
Thuyết Khí Tiết (Qìjié), dựa trên Ngũ Hành và sự vận hành của Khí Tiết tác động lên con người. Khí
Tiết và Bản Mệnh không hòa hợp, tất sinh ra bệnh tật đau yếu. Bệnh tật chính là
do tinh khí huyết trong cơ thể bị tổn mà nên, trong là lục phủ ngũ tạng, ngoài
là thân thể tứ chi, đều có liên quan đến ngũ hành tương sinh tương khắc. Nếu
can chi ngũ hành quá vượng, trong khi khí tiết bất hòa, tất nhiên gây bệnh cho
người. Y lý phương đông nói về Thiên Can: Giáp chủ Gan, Ất chủ Mật, Bính chủ Ruột,
Đinh chủ Tim, Mậu chủ dạ dày, Kỷ chủ Lách, Canh chủ ruột già, Tân chủ Phổi,
Nhâm chủ Bàng Quang, Quý chủ Thận. Y Lý Phương Đông nói về Địa Chi: Tý bệnh về
Sa Mang, Sửu bệnh về Bụng, Dần bệnh về Chân, Mão bệnh về Mắt, Thìn bệnh về
Lưng, Tỵ bệnh về Mặt, Ngọ bệnh về Tim, Mùi bệnh về Ngực, Thân bệnh về Cổ, Dậu bệnh
về Phổi, Hợi bệnh về Da. Sự hương thịnh hay suy tàn của ngũ hành trong khí tiết
của thiên can địa chi đều có quan hệ. Người sinh vào bản mệnh Mộc quá vượng, tự
khắc tỳ vị có bệnh, nếu nhằm ngay lúc ngày tháng thuộc về khắc tinh của Mộc thì
bệnh phát.
Ở Việt Nam, thuyết Khí Tiết được trình bày tương đối cụ thể trong cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Các cuốn Thạch Lý Học khác hầu như không nhắc đến thuyết này.
Thuyết Khí Tiết nói, người có mệnh cục Kim (sinh vào ngày Canh-Tân, Thân-Dậu) gặp vào những ngày thuộc hành Hỏa (như các ngày Bính-Đinh, Tỵ-Ngọ) thì, bởi Kim khắc Hỏa, nên đại tràng, phổi dễ sinh bệnh, biểu hiện ở hay ho, đọng đàm, đau ruột, bệnh trĩ, tim đập nhanh, dễ hoảng sợ, lo lắng, mắc bệnh lao. Biểu hiện ra ngoài là da khô, mũi đỏ sưng, lưng mụn nhọt ung mủ, da đốm tụ huyết. Sách mệnh lý nói: Kim nhược tại Hỏa Vượng, tất có bệnh về máu huyết. Muốn khắc chế, phải lấy Thổ giải độc, Hồng Trụ Thạch thuộc Thổ, có tác dụng tốt với thể trạng người Kim cục (Thổ sinh Kim), đề phòng cho những ngày Hỏa thịnh (Bính-Đinh, Tỵ-Ngọ) hay tháng hành Hỏa như tháng tư và tháng năm. Người đeo đá Hồng Trụ Thạch, có thể dùng Thổ khắc chế được Hỏa hại.
Ở Việt Nam, thuyết Khí Tiết được trình bày tương đối cụ thể trong cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Các cuốn Thạch Lý Học khác hầu như không nhắc đến thuyết này.
Thuyết Khí Tiết nói, người có mệnh cục Kim (sinh vào ngày Canh-Tân, Thân-Dậu) gặp vào những ngày thuộc hành Hỏa (như các ngày Bính-Đinh, Tỵ-Ngọ) thì, bởi Kim khắc Hỏa, nên đại tràng, phổi dễ sinh bệnh, biểu hiện ở hay ho, đọng đàm, đau ruột, bệnh trĩ, tim đập nhanh, dễ hoảng sợ, lo lắng, mắc bệnh lao. Biểu hiện ra ngoài là da khô, mũi đỏ sưng, lưng mụn nhọt ung mủ, da đốm tụ huyết. Sách mệnh lý nói: Kim nhược tại Hỏa Vượng, tất có bệnh về máu huyết. Muốn khắc chế, phải lấy Thổ giải độc, Hồng Trụ Thạch thuộc Thổ, có tác dụng tốt với thể trạng người Kim cục (Thổ sinh Kim), đề phòng cho những ngày Hỏa thịnh (Bính-Đinh, Tỵ-Ngọ) hay tháng hành Hỏa như tháng tư và tháng năm. Người đeo đá Hồng Trụ Thạch, có thể dùng Thổ khắc chế được Hỏa hại.
Thuyết Tứ Trụ (Sìzhù) có thể ứng dụng từ Bát Tự trong Thuyết Tứ Trụ để bổ cứu, dựa vào màu
của đá để tương hỗ lấy mệnh. Chủ yếu dựa vào thiên can, lấy âm dương và ngũ
hành của thiên can để tính lấy bốn phép Kiêu Ấn, Thực Thương, Tỷ Kiếp, Quan Sát
và Tài, dụng vào địa chi mà thành Thập Thần. Từ đó luận ra được Nhật Can và
Nguyệt Lệnh, dựa vào sự phối hợp của nó trong sinh thời mà dự biết lợi yếu của
bản mệnh. Biết được lợi yếu của bản mệnh rồi, mới dùng ngũ hành trong đá ngọc
mà điều hòa. Có sách viết: Nhật Can mạnh yếu cần có sự tương trợ của Nguyệt Lệnh.
Trong trường hợp không có Nguyệt Lệnh hỗ trợ, các can chi trong trụ liền suy yếu.
Có thể dùng phương pháp đá phong thủy để bổ cứu, điều hậu cho Nhật Can.
Ở Việt Nam, thuyết Tứ Trụ được sử dụng cực kỳ nhiều, tất cả các sách Thạch Lý Học tại Việt Nam đều có dẫn xuất như cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh , cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc. Tuy nhiên, có khá nhiều sai biệt giữa các sách với nhau về cách tính, điều này cũng dễ hiểu vì đây là ứng dụng tùy thuộc vào cách luận Tứ Trụ. Ở đây chỉ giữ lại một thuyết để thống nhất là sử dụng sách của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm.
Theo thuyết Tứ Trụ, đá ngọc thuộc mệnh Thổ rất hạp
với mệnh Mộc sinh mùa thu,thông thường không được sự trợ giúp của nguyệt lệnh,Kim
nặng quay quanh,phần lớn thuộc thân yếu. Nếu là Mộc mùa suy yếu,ưa được Thổ dưỡng,
tương trợ. Đá ngọc thuộc mệnh Thổ cũng rất hạp với mệnh Thổ sinh mùa đông. Mùa
đông, bên ngoài lạnh, bên trong ấm. Nếu có Thổ với lực lượng lớn phù trợ thì có
thể được khỏe mạnh, trường thọ. Đá ngọc thuộc mệnh Thổ cũng rất hạp với mệnh
Kim sinh mùa xuân. Mùa xuân, do vừa qua mùa đông vẫn còn chút khí lạnh, do đó
Kim cần Hỏa sưởi ấm mới có thể loại bỏ khí lạnh mà được phú quý. Kim sinh vào
mùa xuân sẽ khá yếu mềm, do đó cần có Thổ sinh trợ, nhưng không ưa Thủy quá vượng,
Thủy sẽ tăng thêm khí lạnh, làm cho Kim không thể tái hiện được khí thế của nó.
Đá ngọc thuộc mệnh Thổ cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa hạ. Kim của mùa hạ
càng yếu mềm, hình thể chưa hoàn thành đã bị vào chỗ tử tuyệt của mùa hạ. Kim của
mùa hạ có Thổ phù trì thì thế càng thịnh vượng, chỉ cần một chút Thổ đến sinh
trợ là được, quá nhiều Thổ ngược lại sẽ làm Kim bị chôn lấp, không thể phát ra
ánh sáng. Đá ngọc thuộc mệnh Thổ rất hạp với mệnh Thổ sinh mùa đông. Mùa đông,
bên ngoài lạnh, bên trong ấm. Nếu có Thổ với lực lượng lớn phù trợ thì có thể
được khỏe mạnh, trường thọ. Đá ngọc thuộc mệnh Thổ rất hạp với mệnh Kim sinh mùa
đông. Kim của mùa đong có tính chất hàn lạnh, nếu Mộc nhiều cũng không thể điêu
khắc mà tái hiện công hiệu của Kim. Thổ có thể khắc Thủy, làm cho Kim không chịu
ảnh hưởng của hàn lạnh, mà Hỏa có thể sinh trợ Thổ, Thổ có thể sinh trợ Kim, Thổ
Kim là mẹ con tương sinh, có thể thành công.
Thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy) đề xuất bởi bác sĩ Jacques Ménétrier và Gabriel
Bertrand, vào giữa thế kỷ 20. Những người thực hành Thạch Lý Học áp dụng lý
thuyết này trong việc trị liệu thông qua cơ sở giống như Thuyết Vi Lượng Đồng
Căn (Homeopathy) của Samuel Hahnemann. Christian Friedrich Samuel Hahnemann
(1755-1843), một nhà vật lý học, hóa học và y học người Đức, đã đưa ra một lý
thuyết liên quan đến sự quan hệ yếu tố trong chứng và chất của cơ thể người, sau
này phát triển thành hệ thống Vi Lượng Đồng Căn. Mỗi vi lượng trong đá được cho
là sẽ tác động đến vi lượng tương ứng trong cơ thể người, và nhờ đó bộ phận chứa
vi lượng đó được chữa khỏi. Mỗi viên đá, bằng vi lượng chứa trong nó, được tin
là sẽ tác động lên phần sinh lý cơ thể, giúp gợi ý cho việc chữa bệnh hoặc tác
động lên tinh thần. Andalusite là khoáng vật silicat đảo chứa nhôm có công thức
hóa học là Al2SiO5. Khi mài dũa loại đá này thợ kiêm hoàn
cố làm sao để tính đa sắc được thể hiện mức tối đa. Andalusite có màu
xám,vàng,nâu,vàng kim,nâu cam và hồng. Có đá màu đỏ và xanh lá Andalusite là
khoáng vật phổ biến trong các quá trình biến chất khu vực, được tạo thành trong
điều kiện áp suất thấp và nhiệt độ trung bình đến cao. Các khoáng vật kyanit và
sillimanit là các dạng thù hình của andalusit, các khoáng vật này xuất hiện
trong các cơ chế nhiệt và áp suất khác nhau và hiếm khi chúng xuất hiện cùng
nhau trong cùng một loại đá. Do đó 3 khoáng vật này là công cụ hữu ích trong việc
xác định yếu tố nhiệt - áp suất mà đá chứa nó trải qua quá trình biến chất.
Ở Việt Nam, thuyết Vi Lượng được nhắc đến duy nhất trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh, nhưng khá sơ khai, vì cho rằng đây là thuyết phức tạp, chuyên sâu. Các cuốn khác, hầu như không hề biết gì về thuyết này.
Trong thành phần của Andalusite Cấu tạo hoa học
Al2SiO5 chính Thuyết Vi Lượng Trị Liệu
(Oligotherapy) cho rằng thành phần Silic trong thạch anh có tác dụng trị liệu.
Trong cơ thể con người, silic chiếm chỉ số năng lượng (MASS) là 0,0023, vì vậy
nó tác động tích cực cho sức khỏe, mặc dù, tác dụng không rõ ràng ở chứng bệnh
hay vị trí nào của cơ thể. Nguyên tố Oxygen (O) có số nguyên tử là 8, chiếm
tỉ trọng trong cơ thể người là 0.65. Thành phần của nguyên tố này trong cơ thể
trung bình là 43kg chiếm tỷ lệ là 24%. Tác động đến sức khỏe và sự sống của hầu
hết các loài động thực vật trên thế giới. Nguyên tố
Aluminum (Al) số hiệu nguyên tử là 13, tỉ trọng của nguyên tố Nhôm trong cơ thể
chúng ta là 870×10-7 đạt khối lượng trung bình 0.00006kg chiếm tỷ lệ so với các nguyên tố khác
là 0.000015%.
Thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves) của Newlands ứng dụng trong giả kim thuật, cho phép
tính toán sự liên hệ của khoáng chất trong đá và chiêm tinh,từ đó suy dẫn đến
các ứng dụng của đá lên cơ thể con người. Vào năm 1864, John Alexander Reina
Newlands (1837-1898), nhà hóa học người Anh, tìm ra quy luật bát bội: Mỗi
nguyên tố hóa học đều thể hiện tính chất tương tự như nguyên tố thứ 8 khi xếp
các nguyên tố theo khối lượng nguyên tử tăng dần. Điều này kích thích các nhà
huyền học giả kim thuật vì giả kim từ lâu không thể tạo ra bất kỳ quy luật nào
tương xứng phù hợp với khoa học hiện đại. Quy luật số 8 ứng với tám hành tinh
(gồm cả trái đất) mà nền tảng của nó đã có từ lâu, và còn tương ứng nhiều hình
thức tâm linh huyền học khác liên đới với con số 8 như Geomancy (bói đất). Từ
đó người ta (mà nổi tiếng nhất là nhà huyền học George Ivanovich Gurdjieff, người
cực kỳ yêu quý thuyết Law of Octaves) xây dựng nên hệ tính để tìm ra nguyên tố
chủ đạo và hành tinh chủ đạo trong một viên đá. Từ đó, dẫn suy ra những đặc
tính chữa bệnh hoặc tác động lên tinh thần.
Ở Việt Nam, hầu như không có sách nào đề cập đến thuyết này. Ngay cả ở những sách nước ngoài cũng rất hiếm gặp. Thường ở các sách huyền học như các tạp bản của George Gurdjieff, và người kế thừa dưới dạng các enneagram (bát tố đồ).
Thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves) cho rằng
loại đá này mang yếu tố mộc tinh, vì vậy có tác động lên vùng bụng, gan, tuyến
yên, lớp mỡ quanh eo, đùi. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến
sự nghèo khó (suy dinh dưỡng) và cả giàu có (béo phì), các chứng liên quan đến
bụng, gan (đau bụng). Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là trấn giữ các mối
quan hệ của nhà chiêm tinh thứ 2 và 9: tài sản, tiền bạc (nhà Lucrum) và du
hành, du lịch (nhà Iter). Dành hỗ trợ cho những người có vấn đề với tiền bạc
hay gặp vận rủi, những người muốn đi du lịch, hay di cư không được xuông sẻ,
thúc đẩy tiền bạc và thường xuyên du hành. tăng cường vật chất và sở hữu, đặc
biệt là sự phát triển, thịnh vượng, may mắn, tự do, du hành, luật pháp, nhân đạo,...
nhấn mạnh đến yếu tố giàu có vật chất. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu
tố mộc tinh bảo trợ về địa lý và cấu trúc nói chung (Dante Alighieri). Vì vậy,
đá này dành cho những người làm trong lĩnh vực liên quan đến các địa lý và du lịch
như hướng dẫn viên du lịch, phi công, hoa tiêu, tài xế, cục địa dư, tàu hỏa, khảo
cổ, xây dựng cầu đường.
Thuyết Thái Lặc Mã (Thelema) đề xuất bởi nhà huyền học Aleister Crowley, đầu thế kỷ 20, mặc
dù bản thệ thống của nó, được thừa hưởng thừ Hội Kín Kim Bình Minh ra đời vào
thế kỷ 19. Hệ thống Thelema được ứng dụng trong Thạch Lý Học thông qua mối liên
hệ với Sinh Thụ (Tree of Life), một lý thuyết của người Do Thái ra đời cùng thời
với Kinh Cựu Ước. Hệ thống dựa trên các sách tương ứng do sự đóng góp của nhiều
nhà huyền học khác nhau: McGregors Mathers, Paul Foster Case… đặc biệt được tổng
hợp trong cuốn Kinh Liber 777.
Ở Việt Nam, thuyết Thelema hầu như chưa bao giờ được nhắc đến trong tất cả các sách về Thạch Lý Học đã xuất bản. Tuy nhiên, rất nhiều tài liệu về huyền học phương tây do những du học sinh tại Hải Ngoại được đăng trên các trang mạng, sử dụng hệ thống này của Thelema. Thuyết này được các nhóm huyền học phương tây sử dụng rộng rãi ở thời kỳ Internet nở rộ khoảng năm 2012, bởi các nhóm nghiên cứu Huyền Bí Học và Ma Thuật Học, như nhóm Huyền Học Phương Tây, Hội Tarot Huyền Bí.
Thuyết Thelema cho rằng Andalusite gắng liền với
Planets số 12 Beth (Mercury). Hình ảnh của ký tự Hebrew Beth (Baith, Beith) là
một ngôi nhà, một cái lều. Ngôi nhà là nơi ở của con người trong thế giới của sự
nhị nguyên và ảo tưởng. Một ngôi nhà cũng cho phép bảo vệ và trú ẩn. Một ngôi
nhà là một hình thức có trú ẩn. Theo nghĩa tinh thần nó chứa đựng Ánh sáng, Thần
Khí. Beth như một ngôi nhà cũng là Sanctuary, Temple, the Gnosis (kiến thức).
Trong Liber 777, nó được coi là chữa trị cho các biểu hiện bệnh tật của hệ thống
thần kinh và thần kinh. Nó có tác dụng chữa trị chứng mất ngủ.
Thuyết Reiki (Linh Khí), dựa trên sự kết hợp của hệ thống Kinh Lạc trong Y Thuật Trung Hoa, hệ thống Luân Xa trong Y Thuật Ấn Độ và thuyết Ngũ Hành trong thạch học, dùng trong xoa bóp, ấn huyệt, được đề xuất bởi Mikao Usui năm 1922. Nếu hệ thống luân xa thật sự ít khi được áp dụng trong Reiki thực hành, hệ thống Kinh Lạc lại được sử dụng trong ấn huyệt rất rộng rãi. Kinh lạc là đường khí huyết vận hành trong cơ thể, đường chính của nó gọi là kinh, nhánh của nó gọi là lạc, kinh với lạc liên kết đan xen ngang dọc, liên thông trên dưới trong ngoài, là cái lưới liên lạc toàn thân. Kinh lạc phân ra hai loại kinh mạch và lạc mạch.Trong kinh mạch gồm chính kinh và kỳ kinh, chính kinh có mười hai sợi, tả hữu đối xứng, tức thủ túc tam âm kinh và thủ túc tam dương kinh, gọi chung mười hai kinh mạch, mỗi kinh thuộc một tạng hoặc một phủ. Kỳ kinh có tám sợi, tức đốc mạch, nhâm mạch, xung mạch, đái mạch, âm duy mạch, dương duy mạch, âm kiểu mạch, dương kiểu mạch. Thông thường nhắc đến mười hai kinh mạch và thêm vào hai mạch nhâm đốc gọi chung mười bốn kinh mạch chính. Bệnh tật đều do sự vận hành bế tắc của khí luân chuyển trong 12 kinh mạch này, nếu được khơi thông, ắt sẽ hết bệnh tật. Y Tông Tâm Lĩnh bàn về Kinh Lạc nói, mười hai kinh lạc, có Thủ thái âm phế kinh (手太阴肺经) thuộc về hành Kim, Thủ thiếu âm tâm kinh ( 手少阴心经) thuộc về hành Hỏa, Thủ quyết âm tâm bào kinh (手厥阴心包经) thuộc về hành Hỏa, Thủ thiếu dương tam tiêu kinh (手少阳三焦经) thuộc về hành Hỏa, Thủ thái dương tiểu tràng kinh (手太阳小肠经) thuộc về hành Hỏa, Thủ dương minh đại tràng kinh (手阳明大肠经) thuộc về hành Kim), Túc thái âm tỳ kinh (足太阴脾经) thuộc về hành Thổ, Túc thiếu âm thận kinh (足少阴肾经) thuộc về hành Thủy, Túc quyết âm can kinh (足厥阴肝经) thuộc về hành Mộc, Túc thiếu dương đảm kinh (足少阳胆经) thuộc về hành Mộc, Túc thái dương bàng quang kinh (足太阳膀胱经) thuộc về hành Thủy, Túc dương minh vị kinh (足阳明胃经) thuộc về hành Thổ. Mỗi mạch lại ứng những bệnh lý khác nhau. Cách sử dụng truyền thống là dùng đá phù hợp làm thành cây ấn huyệt để trị liệu khơi thông kinh mạch, giống với châm cứu.
Ở Việt Nam, hầu như không có tài liệu về môn này hoặc tài liệu về Reiki từng được xuất bản, tuy nhiên, nhiều học giả cho biết đã từng có sách về môn này xuất bản trước 1975 mà chúng tôi chưa có dịp khảo cứu được.
Đá Andalusite trong hành Thổ và thuộc vào Kinh Túc Thái Âm Tỳ, Kinh Túc Dương Minh Vị. Kinh Túc Thái Âm Tỳ liên quan đến các triệu chứng người ê ẩm, nặng nề, da vàng, lưỡi cứng đau, mặt trong chi dưới phù, cơ ở chân ở tay teo, bụng trên đau, bụng đầy, ăn không tiêu, nôn, nuốt khó, vùng tâm vị đau cấp, ỉa chảy, đái không lợi, ở dạ dày, ruột, hệ sinh dục, tiết niệu. Ví dụ như huyệt Lậu Cốc liên quan đến đau cẳng chân, cẳng chân lạnh và tê, đầy bụng, sôi bụng. Địa Cơ (Huyệt Khích) liên quan đến tức bụng, căng tức sườn, không muốn ăn, đau lưng, đái khó, di mộng tinh, trưng hà, kinh nguyệt không đều. Âm Lăng Tuyền (Huyệt Hợp thuộc Thủy) liên quan đến đau sưng gối, đau chân, lạnh trong bụng, không muốn ăn, sườn ngực căng tức, bụng có nước, di tinh, đau dương vật, đái không tự chủ, đái khó, đái dầm. Huyết Hải liên quan đến đau mé trong đùi, kinh nguyệt không đều, rong kinh, mẩn ngứa, dị ứng. Cơ Môn liên quan đến đau, sưng hạch bẹn, bí đái, đái dầm. Kinh Túc Dương Minh Vị liên quan đến các triệu chứng mũi chảy máu, miệng môi mọc mụn, họng đau, cổ sưng, mồm méo, ngực đau, chân sưng đau hoặc teo lạnh; tà khí thịnh; sốt cao, ra mồ hôi có thể phát cuồng, ăn nhiều, đái vàng, bồn chồn có thể phát cuồng, đầy bụng, ăn ít, bệnh ở đầu, mặt, mũi, răng, họng. Bệnh ở não, dạ dày, ruột, sốt cao. Ví dụ như huyệt Thừa Khấp (Huyệt Hội của Kinh Dương minh ở chân với mạch Dương kiểu và Nhâm mạch) liên quan đến đau mắt đỏ, sưng mắt, chảy nước mắt, quáng gà, liệt mặt., giật mi. Tứ Bạch liên quan đến đau mắt đỏ (viêm màng tiếp hợp, viêm cũng mạc), mi mắt co giật, hoa mắt, liệt mặt. Cự Liêu (Huyệt Hội của kinh Dương minh ở chân với mạch Dương kiểu) liên quan đến liệt mặt, giật mi mắt, sưng má, đau răng.
Thuyết Bát Quái
Kinh Dịch (Iching Therapy), mặc dù được
lấy từ lý thuyết của châu Á, nhưng việc áp dụng nó vào thạch lý học thì lại do
các nhà huyền học Nga, gần gũi với lý thuyết Thông Thiên Học, ra đời vào những
năm 1980. Ở Việt Nam, thuyết này ít được phát triển, đại diện chỉ có Ts Hoàng
Thế Ngữ, Chủ Tịch Hội Đá Quý Việt Nam, tốt nghiệp tại Nga, dùng trong cuốn Đá
Quý Việt Nam, nhưng chỉ dùng cấu trúc hình thái tinh hệ để luận. Cuốn Thạch Đá
Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, tuy có dẫn ra phép Bát Quái, nhưng lại chỉ dựa trên
màu sắc của Ngũ Hành để luận. Cả hai đều rất sơ khai. Dựa vào hình thái tinh hệ
của tinh thể gồm tám loại, được phân định thành tám quái thuộc nội quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông
Thiên Học: Lập Phương (cubic) ứng Càn , Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam
Phương (rhombohedral) ứng Ly, Lục Phương (hexagonal) ứng Đoài, Tam Tà (triclinic)
ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic) ứng Tốn, Phi
Tinh (noncrystallinic) ứng Khôn. Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng khác:
Lập Phương ứng Càn, Tam Tà ứng Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn, Tam
Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở đây
chỉ trình bày thuyết của Thông Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm tám
màu, ứng với tám quái thuộc ngoại quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính, đều
nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ nhất được trình bày trong I-ching: Binary
Numbers, Astrology, And Chakras, dựa trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng,
Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ,
Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành
ứng bát quái cho rằng: Càn ứng dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn
ứng cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề
xuất dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam,
Cấn ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại quái
tương ứng với hình dạng và màu sắc của tinh thể, từ đó tính ra được quái trong
64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại ứng một bộ phận cơ thể theo y lý
trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể.
Theo thuyết Bát Quái Kinh Dịch, đá Andalusite có màu nâu đỏ tương ứng quẻ ngoại quái Cấn, có tinh hệ Chánh Giao tương ứng quẻ nội quái Tốn, ghép lại chính là quẻ quái số 18: quẻ Sơn Phong Cổ. Quái 18 ứng với vị trí chân trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên quan đến hệ xương chân như mụn cóc bàn chân, ngón chân búa, u dây thần kinh,…. Quẻ Sơn Phong Cổ có nghĩa: Cổ là nát hỏng đến cực điểm mà phải có việc. Quẻ có Cấn cứng ở trên, Tôn mềm ở dưới, trên dưới không giao với nhau, dưới mềm nhún mà trên cẩu thả dừng đậu, cho nên là cổ. Cổ là nát hỏng cực điểm, loạn rồi thì phải lại trị, cho nên lời chiêm của nó là cả hanh mà lợi về sang sông lớn, người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy.
Theo thuyết Bát Quái Kinh Dịch, đá Andalusite có màu nâu đỏ tương ứng quẻ ngoại quái Cấn, có tinh hệ Chánh Giao tương ứng quẻ nội quái Tốn, ghép lại chính là quẻ quái số 18: quẻ Sơn Phong Cổ. Quái 18 ứng với vị trí chân trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên quan đến hệ xương chân như mụn cóc bàn chân, ngón chân búa, u dây thần kinh,…. Quẻ Sơn Phong Cổ có nghĩa: Cổ là nát hỏng đến cực điểm mà phải có việc. Quẻ có Cấn cứng ở trên, Tôn mềm ở dưới, trên dưới không giao với nhau, dưới mềm nhún mà trên cẩu thả dừng đậu, cho nên là cổ. Cổ là nát hỏng cực điểm, loạn rồi thì phải lại trị, cho nên lời chiêm của nó là cả hanh mà lợi về sang sông lớn, người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy.
Thuyết Phật Giáo Mật Tông là phái phật giáo duy nhất có ứng dụng trong Thạch Lý Học. Lý thuyết dựa trên hình ảnh của Ngũ Trí Như Lai và Tử Thư. Ngũ Phật còn gọi là Ngũ Trí Như Lai, Ngũ Trí Phật, Ngũ Phương phật, hay còn được gọi Ngũ Thiền Định Phật; là tên gọi chỉ năm vị Phật trong Mật Tông, lấy Đại Nhật Như Lai làm chủ tôn, có sự khu biệt giữa Ngũ Phật giới Kim Cương và Ngũ Phật giới Thai Tạng. Năm đức Phật này đại diện cho 5 phẩm chất của con người và tạo ra sự tuyệt mỹ và hay nhất để phá bỏ những sai trái trong 5 phẩm chất đó. Mỗi đức Phật là một con đường tuyệt diệu để đi đến cảnh giới Niết Bàn và Vô sanh. Tu theo những vị đó sẽ mau chóng vào được cung điện Niết Bàn. Ngũ trí Như Lai là 5 vị Phật tối cao của Phật giáo Tây Tạng. Năm vị phật này đại diện bởi năm màu, gọi là Ngũ Sắc Trí (pancha-varna): Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairochana) đại diện bởi màu trắng và tím, A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya) đại diện bởi màu lam và đen, Bảo Sanh Như Lai (Ratnasambhava) đại diện bởi màu vàng và cam, A Di Đà Như Lai (Amitabha) đại diện bởi màu đỏ và hồng, Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi) đại diện bởi màu lục. Nitin Kumar căn cứ vào kinh điển Chandamaharosana Tantra dẫn ra những quy tắc sử dụng màu săc trong mật tông, đáng chú ý cho rằng: màu lam đại diện cho phẫn nộ tướng ứng vị trí tai, màu vàng đại diện cho sinh dưỡng tướng ứng vị trí mũi, màu đỏ đại diện cho vô úy tướng ứng miệng, màu lục đại diện cho uy đức tướng ứng vị trí đầu. Trong Tử Thư Tây Tạng cũng tuyên về màu sắc tương ứng lục đạo: ánh sáng trắng là của cõi trời, ánh sáng đỏ là của cõi Atula, ánh sáng lam là của cõi người, ánh sáng lục là của cõi súc sanh, ánh sáng vàng là của cõi quỷ đói, ánh sáng xám là của cõi địa ngục.
Ở Việt Nam, thuyết này hầu như chưa bao giờ được nhắc đến trong các sách Thạch Lý Học đã xuất bản. Tuy nhiên một số kinh sách về ngũ sắc trí đã được dịch và xuất bản những năm gần đây như Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe Trong Bardo của Guru Rinpoche, Những Giáo Pháp Bí Mật Của Tử Thư Tây Tạng của Detlef Ingo Lauf.
Đá Adalusite có màu vàng, là bổn sắc của Bảo Sanh Như Lai (Ratnasambhava) . Ngài là sự chuyển hóa của sự tự cao cá nhân thành sự hòa đồng. Màu lam và đen đại diện cho sinh dưỡng tướng ứng với mũi. Đeo Adalusite sẽ được Bảo Sanh Như Lai Phật hộ trì, hỗ trợ về mũi và sự dung hòa. Vì đây cũng là màu của cõi quỷ đói, đá Adalusite được coi là bùa hộ về hương dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về hương dục thông qua vị phật từ bi. Tử thư nhắc đến màu vàng như biểu hiện cho sự giàu có và kiêu hãnh, đồng thời sự thèm muốn dục lạc. Tử Thư Tây Tạng viết rằng: Ngài Bảo Sanh Phật có thân màu vàng, thể hiện màu của đất – biểu tượng sự sung túc lắm tiền nhiều của. Ngài cầm viên ngọc như ý, điều này cũng có nghĩa vắng bóng sự nghèo khó. Người phối ngẫu của Ngài là Mamak, thể hiện yếu tố nước; để có được vùng đất phì nhiêu giàu có thì đất cần có nước. Ánh sáng kết hợp với bộ Bảo Sanh là ánh sáng vàng ôn hòa thư thái, một thứ ánh sáng vô phân biệt.Vào ngày thứ ba, một tia sáng vàng, yếu tố thanh khiết của đất, sẽ chiếu sáng và cùng lúc đó, đức Phật Bảo Sanh từ Cõi Vinh Quang phương Nam màu vàng sẽ xuất hiện trước mặt con. Ánh sáng vàng của thọ uẩn trong tánh thanh tịnh căn bản của nó là Bình Đẳng Tánh Trí (the wisdom of equality), màu vàng sáng chói, trang hoàng với những dĩa ánh sáng quang minh, trong suốt, sáng đến độ mắt không chịu nổi, từ tim của đức Phật Bảo Sanh.Từ tim đức Phật Bảo Sanh, trên tấm vải vàng của Bình đẳng tánh trí quang minh, sẽ xuất hiện một cái dĩa vàng giống như một cái chén vàng hướng mặt xuống, được trang hoàng bằng những cái dĩa và những cái dĩa nhỏ hơn. Những người thiếu thốn nghèo khó, hay những người bị che mờ điên cuồng bởi sự giàu có, những kẻ tự cao tự đại về bản thân, muốn kìm chế sự tự kiêu đó, có thể sử dụng loại đá có màu vàng để giải trừ.
Ở Việt Nam, thuyết này hầu như chưa bao giờ được nhắc đến trong các sách Thạch Lý Học đã xuất bản. Tuy nhiên một số kinh sách về ngũ sắc trí đã được dịch và xuất bản những năm gần đây như Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe Trong Bardo của Guru Rinpoche, Những Giáo Pháp Bí Mật Của Tử Thư Tây Tạng của Detlef Ingo Lauf.
Đá Adalusite có màu vàng, là bổn sắc của Bảo Sanh Như Lai (Ratnasambhava) . Ngài là sự chuyển hóa của sự tự cao cá nhân thành sự hòa đồng. Màu lam và đen đại diện cho sinh dưỡng tướng ứng với mũi. Đeo Adalusite sẽ được Bảo Sanh Như Lai Phật hộ trì, hỗ trợ về mũi và sự dung hòa. Vì đây cũng là màu của cõi quỷ đói, đá Adalusite được coi là bùa hộ về hương dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về hương dục thông qua vị phật từ bi. Tử thư nhắc đến màu vàng như biểu hiện cho sự giàu có và kiêu hãnh, đồng thời sự thèm muốn dục lạc. Tử Thư Tây Tạng viết rằng: Ngài Bảo Sanh Phật có thân màu vàng, thể hiện màu của đất – biểu tượng sự sung túc lắm tiền nhiều của. Ngài cầm viên ngọc như ý, điều này cũng có nghĩa vắng bóng sự nghèo khó. Người phối ngẫu của Ngài là Mamak, thể hiện yếu tố nước; để có được vùng đất phì nhiêu giàu có thì đất cần có nước. Ánh sáng kết hợp với bộ Bảo Sanh là ánh sáng vàng ôn hòa thư thái, một thứ ánh sáng vô phân biệt.Vào ngày thứ ba, một tia sáng vàng, yếu tố thanh khiết của đất, sẽ chiếu sáng và cùng lúc đó, đức Phật Bảo Sanh từ Cõi Vinh Quang phương Nam màu vàng sẽ xuất hiện trước mặt con. Ánh sáng vàng của thọ uẩn trong tánh thanh tịnh căn bản của nó là Bình Đẳng Tánh Trí (the wisdom of equality), màu vàng sáng chói, trang hoàng với những dĩa ánh sáng quang minh, trong suốt, sáng đến độ mắt không chịu nổi, từ tim của đức Phật Bảo Sanh.Từ tim đức Phật Bảo Sanh, trên tấm vải vàng của Bình đẳng tánh trí quang minh, sẽ xuất hiện một cái dĩa vàng giống như một cái chén vàng hướng mặt xuống, được trang hoàng bằng những cái dĩa và những cái dĩa nhỏ hơn. Những người thiếu thốn nghèo khó, hay những người bị che mờ điên cuồng bởi sự giàu có, những kẻ tự cao tự đại về bản thân, muốn kìm chế sự tự kiêu đó, có thể sử dụng loại đá có màu vàng để giải trừ.
Nơi tìm thấy: Một biến thể rõ ràng được tìm thấy đầu tiên ở
Andalusia, Tây Ban Nha có thể cắt ra để làm đá quý. Đá Andalusite được mài tạo
màu đỏ, xanh và vàng mặc dù các màu là kết quả của sự đa sắc mạnh bất thường.
Nó cùng với diệp thanh mica làm tăng làm lượng kiềm trong các sản phẩm biến chất
cuối cùng vì vậy nó không có giá trị kinh tế khi khai thác. Andalusite được phát hiện đầu tiên tại Andalucia, Tây Ban Nha vào năm 1789.
Lời cảm ơn: bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của
nhiều đồng nghiệp: tiến sĩ Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng
Cơ (tp.HCM), nhà sưu tập Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên
Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments