Ammolite
斑彩石 – Ban Thái Thạch
Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị Liệu,
Thạch Học Trị Liệu dịch từ chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ.
Lithotherapy phân thành Litho đến từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá,
therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ] tức là chữa trị, lithotherapy tức là
chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với đá ở ngoài da. Lithotherapy là một
môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận huyền học và thần bí học. Mặc dù
có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả năng của nó, đã được ứng dụng từ lâu
trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại, nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức màn
bí mật của những điều thần kỳ giống như nền Đông Y của người Trung Quốc hay Nam
Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc biệt trình bày về những lý
luận căn bản trong Thạch Lý Học đối với Ammolite, nằm trong chuỗi khảo cứu,
viết riêng cho tuần báo UNESCO.
Giới thiệu đá:
Ammolite mới
được coi là khoáng vật – chỉ từ năm 1981. Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên
khi nó là loại khoáng vật không điển hình. Nó chính là xà cừ hóa thạch từ những
loại động vật thân mềm cổ xưa - Ammolite. Nhóm động vật này xuất hện ở biển
khoảng 300 triệu năm trươc đây . Vorcuar Ammolite cuộn thành đường xoắn ốc
phẳng. Tên gọi của nhóm thân mềm này được lấy từ tên của một vị thần Ai Cập
Ammona được mô tả với cái đầu cừu đực trang trí bằng cặp sừng xoắn. Ở những
vùng biển cổ trên trái đấtó tới hàng nghìn loại Ammolite trong đá trầm tích
diễn ra trong điều kiện thành tạo nên loại vỏ khoáng vật hiếm mới – đó là
Ammolite (theo tiếng Hi Lạp lithos-nghĩa là “đá”). Ammolite có tên gọi theo
tiếng Hán Việt là 斑彩石 – nghĩa là Ban Thái Thạch (vì loại đá này có năm màu và có vân rằn
nên được gọi như vậy). Giá của những đồ trang sức gắn Ammolite có thể giao động
trong khoảng 40-600 USD. Khi gắn vào khung ,viên đá Ammolite phải được cố định
trên các giá đệm khác nhau. Dù mới được biết đến trên thị trường đá quý. Nhưng
Ammolite đã kịp nổi danh là đá chữa bệnh. Những chuyên gia Fen – Shuj cho
Ammolite là vật dẫn “tsi”, được coi là đóng vai trò quan trọng trong Đông y.
Nên những người chữa bệnh bằng năng lượng “tsi” ở Mỹ và Canada đánh giá cao
Ammolite, vì đá giúp cải thiện tuần hoàn năng lượng “tsi” trong cơ thể. Từ xa
xưa người da đỏ dùng Ammolite làm bùa. Họ gọi Ammolite là “đá bizon” vì trong
tự nhiện một số khoáng vật được sông suối mài mòn thành hình giống những con bò
bizon. Ngày nay, những viên đá Ammolite có màu sắc rực rỡ được đánh giá cao và
gọi tên là “đá thịnh phát bảy màu”. Nhiều người để đá Ammolite làm bùa trong
nhà giúp đem lại sự hưng thịnh và hạnh phúc. Đem Ammolite đến cơ quan đem lại
thành công trong công việc.
Giới thiệu các thuyết: Giá trị thạch lý học của Amethyst được trình bày thành các thuyết cơ bản: thuyết Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học (Chromotherapy), thuyết Linh Khí (Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves), thuyết Thái Lặc Mã (Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết Hoa Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié).
Thuyết
Đông Phương Bản Mệnh có nhiều
luận thuyết khác nhau. Theo phép tính theo năm, Phương Đông dựa trên Can
Chi, lập luận dựa trên ngũ hành, phối màu tạo nên bộ hoa giáp sắc pháp. Từ Giáp
Tý là sắc đỏ ban mai, chuyển dần cho đến Quý Hợi là sắc tím trời khuya, tạo nên
hơn 60 màu khác nhau. Theo phép tính theo tháng, người ta căn cứ vào địa chi
của tháng sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần, tháng 2 là Mão, tháng 3 là
Thìn, tháng 4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi, tháng 7 là Thân, tháng 8
là Dậu, tháng 9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu, cùng
phối hợp với ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Dần Mão thuộc Mộc
(ứng dùng đá có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ thuộc Hỏa (ứng dùng đá có
tông màu cam đỏ hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có tông màu trắng, xám,
ánh bạc), Tý Hợi thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu đen, chàm, tím), Thìn Mùi
Tuất Sửu thuộc Thổ (ứng dùng đá có tông màu vàng, trong, ánh kim). Thuyết về
tháng bản mệnh này được dùng nhiều rộng rãi vì đơn giản, dễ tính ra. Ở Việt Nam,
cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng
Thế Ngữ, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh đều có nói
đến thuyết này. Tuy nhiên, sự phân định màu sắc và ngũ hành không giống nhau.
Ví dụ như Ts Hoàng Thế Ngữ trong cuốn Đá Quý Việt Nam đưa ra Hỏa ứng màu đỏ,
Thủy ứng màu xanh, Thổ ứng màu nâu, Mộc ứng màu lục, Kim ứng màu vàng trắng
đen. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định khác
Hỏa ứng màu đỏ hồng tím, Thủy ứng màu đen sẫm, Thổ ứng vàng nâu, Mộc ứng lam
lục, Kim ứng trắng bạc.
Thuyết Bản Mệnh phương đông xếp loại đá này vào năm Giáp Tuất, thuộc Mộc Cục, về Dương Phần. Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Giáp Tuất sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu đỏ nâu, thuộc về hành Hỏa, ứng về tháng Tỵ Ngọ, tức tháng 4,5.
Thuyết Bản Mệnh phương đông xếp loại đá này vào năm Giáp Tuất, thuộc Mộc Cục, về Dương Phần. Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Giáp Tuất sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu đỏ nâu, thuộc về hành Hỏa, ứng về tháng Tỵ Ngọ, tức tháng 4,5.
Thuyết Tây
Phương Bản Mệnh là thuyết rất cơ bản của Thạch Lý
Học Phương Tây, dựa trên Cung Hoàng Đạo, mười hai cung mỗi cung chủ chế một
màu, tùy vào ngày bản sinh mà màu sắc đậm nhạt khác nhau theo thời gian, từ đó
luận về đá bản sinh (Birthstones) được dùng nhiều trong văn hóa phương tây. Mặc
dù vậy, hầu hết các tài liệu đều xếp tương đối bất đồng, từ thế kỷ 16 trở đi,
hầu hết không được thống nhất. Ở đây, chỉ trích dẫn những quan điểm được công
nhận rộng rãi. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo tháng như sau:
tháng một màu đỏ cam, tháng hai màu tím tươi, tháng ba màu xanh lam, tháng tư
màu trắng trong, tháng năm màu lục đen, tháng sáu màu trắng đục, tháng bảy màu
đỏ tươi, tháng tám màu xanh chuối, tháng chín màu xanh lá, tháng mười màu đen,
tháng mười một màu vàng, tháng mười hai màu chàm. Thuyết Bản Mệnh phương tây
được định nghĩa theo hoàng đạo như sau: Bạch Dương màu xanh đen, Kim Ngưu màu
xanh dương đậm, Song Tử màu trắng trong, Cự Giải màu xanh lá mạ, Sư Tử màu đen,
Xử Nữ màu cam, Thiên Bình màu lục nhạt, Thiên Yết màu lam, Nhân Mã màu vàng, Ma
Kết màu đỏ tươi, Bảo Bình màu đỏ sậm, Song Ngư màu tím. Thuyết bản mệnh Phương
Tây được ứng dụng rộng rãi trong đời sống từ thế kỷ 18, có tương đối nhiều các
dị biệt tùy vào sách. Ở Việt Nam, thuyết này cũng được sử dụng khá nhiều, nhưng
không hiểu vì sao trong tất cả các cuốn Thạch Lý Học của Việt Nam, ngoại trừ
cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc và cuốn Tất Cả Về Khoáng Vật Chữa Bệnh
Mầu Nhiệm (dịch của Jasper Stones của Nga), đều không nhắc đến thuyết này.
Đá này màu Ammolite được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng Một, mùa Xuân và xếp vào đá bản mệnh của cung Ma Kết, thuộc hệ Đất. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 22 tháng 12 đến 20 tháng 1 hằng năm, hoặc vào tháng 1 thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này.
Đá này màu Ammolite được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng Một, mùa Xuân và xếp vào đá bản mệnh của cung Ma Kết, thuộc hệ Đất. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 22 tháng 12 đến 20 tháng 1 hằng năm, hoặc vào tháng 1 thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này.
Thuyết Quang Lý
Học (Chromatherapy) được ra đời rất lâu
từ giả kim thuật, nhưng chính thức định hình đặt tên bởi tiến sĩ Christian
Agrapart. Thạch Lý Học sử dụng lại thuật ngữ này, nhưng không sử dụng liệu pháp
ánh sáng như Agrapart mà lý luận dựa trên màu của loại đá. Nó gồm một phần
nghiên cứu về màu sắc trong y học của Agrapart và một phần nghiên cứu về màu
sắc trong tâm lý học. Màu sắc trong tâm lý học đã được nghiên cứu lâu đời như
bảng phân chia màu sắc và tâm trạng "rose of temperaments"
(Temperamenten Rose) của Goethe và Schiller (1798). Nhưng nghệ thuật này chỉ
thăng hoa nhờ nghiên cứu của Carl Jung khi ghép tính biểu tượng của màu sắc vào
tâm lý con người. Từ đó, những người nghiên cứu sau này sử dụng sự tương ứng
màu sắc đó trong viên đá và đặt nền tảng lý thuyết cho Thạch Lý Học. Dựa vào
bảng màu sắc đó, cho phép gợi ý đến tác động chữa bệnh hoặc lên tinh thần con
người.
Ở Việt Nam, thuyết Quang Lý Học này cũng được sử dụng rộng rãi. Hầu hết các sách đều có đề cập trừ cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Trong đó cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh có thể coi là chi tiết nhất về thuyết này.
Thuyết Quang Lý Học cho rằng màu đỏ sậm tượng trưng cho lòng can đảm và những thử thách điều đó có nghĩa nó giúp tăng cường sự tự tin, dũng cảm, quả quyết. Song song đó nó sẽ có tác dụng hỗ trợ niềm tin, đặc biệt dành cho người có tính mềm yếu, hay sợ hãi. Dành cho những người có các ngành nghề liên quan đến sự nguy hiểm như cứu hỏa, bộ đội, cứu hộ, hoặc những người đi phiêu lưu nhằm tăng khả năng dũng cảm. Màu xanh lục tượng trưng cho sự sinh sản và phát triển. Đồng nghĩa với việc loại đá này giúp tăng cường khả năng sinh sản, phát triển. Nó có tác dụng phát triển dành cho những người yếu về sinh lực và sinh lý, dành cho bà mẹ đang có thai hoặc trẻ nhỏ còi cọc. Nó cũng là hòn đá dành cho người hộ sinh, hoặc cách ngành chăm sóc sức khỏe, khoa sản.
Ở Việt Nam, thuyết Quang Lý Học này cũng được sử dụng rộng rãi. Hầu hết các sách đều có đề cập trừ cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Trong đó cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh có thể coi là chi tiết nhất về thuyết này.
Thuyết Quang Lý Học cho rằng màu đỏ sậm tượng trưng cho lòng can đảm và những thử thách điều đó có nghĩa nó giúp tăng cường sự tự tin, dũng cảm, quả quyết. Song song đó nó sẽ có tác dụng hỗ trợ niềm tin, đặc biệt dành cho người có tính mềm yếu, hay sợ hãi. Dành cho những người có các ngành nghề liên quan đến sự nguy hiểm như cứu hỏa, bộ đội, cứu hộ, hoặc những người đi phiêu lưu nhằm tăng khả năng dũng cảm. Màu xanh lục tượng trưng cho sự sinh sản và phát triển. Đồng nghĩa với việc loại đá này giúp tăng cường khả năng sinh sản, phát triển. Nó có tác dụng phát triển dành cho những người yếu về sinh lực và sinh lý, dành cho bà mẹ đang có thai hoặc trẻ nhỏ còi cọc. Nó cũng là hòn đá dành cho người hộ sinh, hoặc cách ngành chăm sóc sức khỏe, khoa sản.
Thuyết Luân Xa (Chakra) được trình bày trong trào lưu Thời Đại Mới (New Age) bởi các
lãnh tụ Thông Thiên Học như Johann Georg Gichtel, hoặc Yoga như Swami Sivananda.
Vẫn vận dụng chủ yếu là màu sắc của viên đá, được dịch nghĩa theo hình ảnh các
luân xa trong văn hóa Ấn Độ trong Áo Nghĩa Thư. Từ nguyên thủy trong tiếng
Sanskrit cakra mang ý nghĩa là "bánh xe" hay "vòng tròn",
các luân xa được miêu tả như là xếp thành một cột thẳng từ gốc của cột sống lên
đến đỉnh đầu, liên quan tới một số chức năng tâm sinh lý, một khía cạnh của
nhận thức, đánh dấu bởi một màu sắc nào đó. Chúng thường được hình tượng hóa
bằng các hoa sen với số cánh khác nhau cho mỗi luân xa. Các luân xa được cho là
đem lại năng lượng cho cơ thể và có liên quan đến các phản ứng của cơ thể, tình
cảm hay tâm lý của một người, là các điểm chứa năng lượng sống (prana, cũng
được gọi là shakti) lưu chuyển giữa các điểm đó dọc theo các đường chảy (gọi là
nadis). Chức năng của các chakra là xoay tròn để thu hút vào năng lượng sống từ
viên đá để giữ cân bằng cho sức khỏe về tâm linh, tâm lý, tình cảm và sinh lý
của cơ thể.
Ở Việt Nam, thuyết Luân Xa được biết đến rộng rãi nhất trong số các thuyết về thạch lý học. Tất cả các sách đều có đề cập đến thuyết này trừ cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Sự nhận định cũng ít nhiều sai khác. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định Luân xa gốc ứng màu đỏ đen, luân xa xương cùng ứng màu cam phấn hồng, luân xa thái dương ứng màu vàng, luân xa tim ứng màu xanh lá, luân xa họng ứng màu xanh lam, luân xa trán ứng màu chàm tím, luân xa vương miện ứng màu trắng và tím nhạt.
Thuyết Luân Xa cho rằng loại đá này màu đỏ tượng trưng cho luân xa gốc Muladhara (hoa sen bốn cánh). Thần Indra gắn liền với Muladhara. Trong miêu tả, ông ta màu vàng, có bốn trang bị , và giữ một vajra hay búa thiên lôi và một hoa sen màu xanh trong tay ông ta. Ông ngồi trên con voi trắng Airavata, nó có bảy cái vòi biểu thị số bảy yếu tố cần thiết trong cuộc sống. Thỉnh thoảng, Ganesha cũng được liên kết với Muladhara. Trong những miêu tả này, ông ta có da màu cam, mặc đồ hay trang phục truyền thống ấn độ màu vàng, và chiếc khăn quàng bằng vải lụa màu xanh phủ trên vai. Trong ba tay, ông giữ một laddu (kẹo hình cầu của ấn độ), một bông hoa sen, và một rìu nhỏ, và cái thứ tư là mọc lên trong mudra hay thủ ấn xua tan sự sợ hãi.Nguồn gốc thần chú là âm tiết लं laṃ. Loại đá này giúp tăng cường bản năng, thể chất, sinh tồn. Đặt viên đá ở vị trí ngay giữa bộ phận sinh dục và hậu môn, nơi được coi là vị trí của luân xa. Nó có tác động cơ quan sinh sản, hậu môn, tuyến thượng thận, buồng trứng, tinh trùng, tinh hoàn. Thế nên nó có tác dụng cải thiện cho những người hiếm muộn hoặc thiếu khả năng sinh tồn (yếu đuối hoặc thể trạng kém) và sinh sản (vô sinh). Dành cho những người hoạt động trong môi trường cần yếu tố thể chất như công nhân, nông dân, bốc vác, ... hoặc liên quan đến ngành thể thao như vận động viên, nhân viên hướng dẫn phục hồi thể lực, ... Màu lục ứng với luân xa tim Anahata (hoa sen mười hai cánh). Loại đá này mang đến khả năng tăng cường tình cảm, lòng nhân ái, từ bi. Đặt viên đá ngay vị trí ngực, giữa ức, nơi có luân xa. Nó có tác động lên tim, hệ miễn dịch, hệ hô hấp, phổi, lồng ngực. Vì vậy sẽ tác dụng cải thiện dành cho những người thiếu cảm thông, hoặc bị xơ cứng cảm xúc. Những người trong các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe như y tế viên, bác sĩ, y tá, dược sĩ hoặc lĩnh vực giáo dục như giáo viên, giáo sư, nhân viên cộng đồng cũng là những đối tượng của loại đá này. Những người trong vị trí khắc nghiệt (đao phủ) cũng hay sử dụng loại đá này để trị liệu tâm hồn.
Ở Việt Nam, thuyết Luân Xa được biết đến rộng rãi nhất trong số các thuyết về thạch lý học. Tất cả các sách đều có đề cập đến thuyết này trừ cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Sự nhận định cũng ít nhiều sai khác. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định Luân xa gốc ứng màu đỏ đen, luân xa xương cùng ứng màu cam phấn hồng, luân xa thái dương ứng màu vàng, luân xa tim ứng màu xanh lá, luân xa họng ứng màu xanh lam, luân xa trán ứng màu chàm tím, luân xa vương miện ứng màu trắng và tím nhạt.
Thuyết Luân Xa cho rằng loại đá này màu đỏ tượng trưng cho luân xa gốc Muladhara (hoa sen bốn cánh). Thần Indra gắn liền với Muladhara. Trong miêu tả, ông ta màu vàng, có bốn trang bị , và giữ một vajra hay búa thiên lôi và một hoa sen màu xanh trong tay ông ta. Ông ngồi trên con voi trắng Airavata, nó có bảy cái vòi biểu thị số bảy yếu tố cần thiết trong cuộc sống. Thỉnh thoảng, Ganesha cũng được liên kết với Muladhara. Trong những miêu tả này, ông ta có da màu cam, mặc đồ hay trang phục truyền thống ấn độ màu vàng, và chiếc khăn quàng bằng vải lụa màu xanh phủ trên vai. Trong ba tay, ông giữ một laddu (kẹo hình cầu của ấn độ), một bông hoa sen, và một rìu nhỏ, và cái thứ tư là mọc lên trong mudra hay thủ ấn xua tan sự sợ hãi.Nguồn gốc thần chú là âm tiết लं laṃ. Loại đá này giúp tăng cường bản năng, thể chất, sinh tồn. Đặt viên đá ở vị trí ngay giữa bộ phận sinh dục và hậu môn, nơi được coi là vị trí của luân xa. Nó có tác động cơ quan sinh sản, hậu môn, tuyến thượng thận, buồng trứng, tinh trùng, tinh hoàn. Thế nên nó có tác dụng cải thiện cho những người hiếm muộn hoặc thiếu khả năng sinh tồn (yếu đuối hoặc thể trạng kém) và sinh sản (vô sinh). Dành cho những người hoạt động trong môi trường cần yếu tố thể chất như công nhân, nông dân, bốc vác, ... hoặc liên quan đến ngành thể thao như vận động viên, nhân viên hướng dẫn phục hồi thể lực, ... Màu lục ứng với luân xa tim Anahata (hoa sen mười hai cánh). Loại đá này mang đến khả năng tăng cường tình cảm, lòng nhân ái, từ bi. Đặt viên đá ngay vị trí ngực, giữa ức, nơi có luân xa. Nó có tác động lên tim, hệ miễn dịch, hệ hô hấp, phổi, lồng ngực. Vì vậy sẽ tác dụng cải thiện dành cho những người thiếu cảm thông, hoặc bị xơ cứng cảm xúc. Những người trong các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe như y tế viên, bác sĩ, y tá, dược sĩ hoặc lĩnh vực giáo dục như giáo viên, giáo sư, nhân viên cộng đồng cũng là những đối tượng của loại đá này. Những người trong vị trí khắc nghiệt (đao phủ) cũng hay sử dụng loại đá này để trị liệu tâm hồn.
Thuyết Hoa Giáp (Hwangap) dựa trên lý học phương đông, canh theo can chi bản mệnh của một người
theo ngày tháng năm sinh, rồi tính sự xung khắc hay tương hợp trong ngũ hành.
Từ đó đưa ra nguyên tắc vận dụng trong thạch học, nhờ vào ngũ hành trong khoáng
thạch đối chế lại với bản mệnh, nhằm điều hòa bản thân. Thuyết Ngũ Hành quy
định theo thiên can: Giáp Ất thuộc Mộc, Bính Đinh thuộc Hỏa, Mậu Kỷ thuộc Thổ,
Canh Tân thuộc Kim, Nhâm Quý thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành quy định theo địa chi:
Dần Mão thuộc Mộc, Ngọ Mùi thuộc Hỏa, Thân Dậu thuộc Kim, Hợi Tý thuộc Thủy,
Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ. Từ thiên can, địa chi, quy định nên phối hành của
bản mệnh: Mậu Thìn thuộc về Thổ phối Thổ,… Khoáng thạch được phân theo ngũ hành
dựa trên màu sắc và hình dạng. Thuyết Ngũ Hành quy định màu sắc: Lục và Lam
thuộc Mộc, Đỏ và Cam thuộc Hỏa, Vàng và Trong thuộc Thổ, Trắng và Xám thuộc
Kim, Đen và Tím thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành quy định theo thể dạng: trụ và dài
thuộc Mộc, nhọn và góc thuộc Hỏa, vuông và cân thuộc Thổ, cong và tròn thuộc
Kim, uốn và lượn thuộc Thủy. Từ đó suy ra được phối hành của khoáng thạch: ví
dụ Huyền Thiết Thạch (Hematite) đen có thể dạng khối tròn (Botryoidal) được xem
là Thủy phối Kim. Thuyết Ngũ Hành quy định tương sinh như sau: Mộc sinh Hỏa,
Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Thuyết Ngũ Hành quy
định tương khắc như sau: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc
Kim, Kim khắc Mộc. Dựa vào tương sinh tương khắc của Ngũ Hành để khắc chế hay
phù trợ cho bản mệnh thông qua việc đeo những khoáng thạch khác nhau trên cơ
thể.
Ở Việt Nam, thuyết Hoa Giáp (Ngũ Hành Can Chi) được trình bày trong hầu hết các sách về Thạch Lý Học, nhưng hầu hết chỉ dừng lại ở lý luận về màu sắc theo ngũ hành. Cá biệt có cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm là có nhắc đến thuyết này ứng dụng lý luận lên hình dạng của tinh thể, tuy nhiên không có khai triển đầy đủ. Thuyết này các phái đạo gia phong thủy khai thác và phát triển rất hoàn chỉnh, được trình bày tóm tắt như bên trên đây.
Thuyết Hoa Giáp cho rằng Ban Thái Thạch thuộc về Hỏa (đỏ cam) phối Kim (cong), tức Hỏa Cục. Do đó, Ban Thái Thạch giúp khắc chế các bản mệnh Mộc-Thổ như Giáp Thìn, Giáp Tuất, Ất Mùi, Ất Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Ban Thái Thạch cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Thổ (Hỏa sinh Thổ), gồm có mệnh thuộc Hỏa-Thổ và thuần Thổ: Mậu Ngọ, Kỷ Tỵ, Bính Thìn, Bính Tuất, Đinh Mùi, Đinh Sửu, Mậu Thìn, Mậu Tuất, Kỷ Mùi, Kỷ Sửu, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại ngọc này.
Ở Việt Nam, thuyết Hoa Giáp (Ngũ Hành Can Chi) được trình bày trong hầu hết các sách về Thạch Lý Học, nhưng hầu hết chỉ dừng lại ở lý luận về màu sắc theo ngũ hành. Cá biệt có cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm là có nhắc đến thuyết này ứng dụng lý luận lên hình dạng của tinh thể, tuy nhiên không có khai triển đầy đủ. Thuyết này các phái đạo gia phong thủy khai thác và phát triển rất hoàn chỉnh, được trình bày tóm tắt như bên trên đây.
Thuyết Hoa Giáp cho rằng Ban Thái Thạch thuộc về Hỏa (đỏ cam) phối Kim (cong), tức Hỏa Cục. Do đó, Ban Thái Thạch giúp khắc chế các bản mệnh Mộc-Thổ như Giáp Thìn, Giáp Tuất, Ất Mùi, Ất Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Ban Thái Thạch cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Thổ (Hỏa sinh Thổ), gồm có mệnh thuộc Hỏa-Thổ và thuần Thổ: Mậu Ngọ, Kỷ Tỵ, Bính Thìn, Bính Tuất, Đinh Mùi, Đinh Sửu, Mậu Thìn, Mậu Tuất, Kỷ Mùi, Kỷ Sửu, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại ngọc này.
Thuyết Khí Tiết (Qìjié) dựa trên Ngũ Hành và sự vận hành của Khí Tiết tác động lên con người. Khí
Tiết và Bản Mệnh không hòa hợp, tất sinh ra bệnh tật đau yếu. Bệnh tật chính là
do tinh khí huyết trong cơ thể bị tổn mà nên, trong là lục phủ ngũ tạng, ngoài
là thân thể tứ chi, đều có liên quan đến ngũ hành tương sinh tương khắc. Nếu
can chi ngũ hành quá vượng, trong khi khí tiết bất hòa, tất nhiên gây bệnh cho
người. Y lý phương đông nói về Thiên Can: Giáp chủ Gan, Ất chủ Mật, Bính chủ
Ruột, Đinh chủ Tim, Mậu chủ dạ dày, Kỷ chủ Lách, Canh chủ ruột già, Tân chủ
Phổi, Nhâm chủ Bàng Quang, Quý chủ Thận. Y Lý Phương Đông nói về Địa Chi: Tý
bệnh về Sa Mang, Sửu bệnh về Bụng, Dần bệnh về Chân, Mão bệnh về Mắt, Thìn bệnh
về Lưng, Tỵ bệnh về Mặt, Ngọ bệnh về Tim, Mùi bệnh về Ngực, Thân bệnh về Cổ,
Dậu bệnh về Phổi, Hợi bệnh về Da. Sự hương thịnh hay suy tàn của ngũ hành trong
khí tiết của thiên can địa chi đều có quan hệ. Người sinh vào bản mệnh Mộc quá
vượng, tự khắc tỳ vị có bệnh, nếu nhằm ngay lúc ngày tháng thuộc về khắc tinh
của Mộc thì bệnh phát. Thuyết Ngũ Hành Khí Tiết nói, người có mệnh cục Thổ
(sinh vào ngày Mậu-Kỷ, Thìn-Mùi-Tuất-Sửu) gặp vào những ngày thuộc hành Mộc
(như ngày Giáp-Ất, Dần-Mão) thì, bởi Thổ khắc Mộc, mật và dạ dày dễ tổn thương,
biểu hiện lên cơ thể là bị nấc cục, đau dạ dày, tiêu chảy, hoàng thũng, khó
nuốt, chán ăn, buồn nôn. Bên ngoài sẽ biểu hiện ra da khô, tay phải mỏi. Trẻ
nhỏ bị suy dinh dưỡng, vàng lá lách. Đặc tính của Thổ là ẩm ướt, dễ bị chìm,
sắc mặt vàng vọt.
Ở Việt Nam, thuyết Khí Tiết được trình bày tương đối cụ thể trong cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Các cuốn Thạch Lý Học khác hầu như không nhắc đến thuyết này.
Sách mệnh lý nói: Thổ tại Mộc vượng, lá lách tổn thương. Muốn khắc chế, phải lấy Hỏa giải độc, Ban Thái Thạch thuộc Hỏa, có tác dụng tốt với thể trạng người Thổ cục (Hỏa sinh Thổ), đề phòng cho những ngày Mộc thịnh (Giáp-Ất, Dần-Mão) hay tháng hành Mộc như tháng giêng và tháng hai. Người đeo đá Ban Thái Thạch, có thể dùng Hỏa khắc chế được Mộc hại.
Ở Việt Nam, thuyết Khí Tiết được trình bày tương đối cụ thể trong cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Các cuốn Thạch Lý Học khác hầu như không nhắc đến thuyết này.
Sách mệnh lý nói: Thổ tại Mộc vượng, lá lách tổn thương. Muốn khắc chế, phải lấy Hỏa giải độc, Ban Thái Thạch thuộc Hỏa, có tác dụng tốt với thể trạng người Thổ cục (Hỏa sinh Thổ), đề phòng cho những ngày Mộc thịnh (Giáp-Ất, Dần-Mão) hay tháng hành Mộc như tháng giêng và tháng hai. Người đeo đá Ban Thái Thạch, có thể dùng Hỏa khắc chế được Mộc hại.
Thuyết Tứ Trụ (Sìzhù) có thể ứng dụng từ Bát Tự trong Thuyết Tứ Trụ để bổ cứu, dựa vào màu
của đá để tương hỗ lấy mệnh. Chủ yếu dựa vào thiên can, lấy âm dương và ngũ
hành của thiên can để tính lấy bốn phép Kiêu Ấn, Thực Thương, Tỷ Kiếp, Quan Sát
và Tài, dụng vào địa chi mà thành Thập Thần. Từ đó luận ra được Nhật Can và
Nguyệt Lệnh, dựa vào sự phối hợp của nó trong sinh thời mà dự biết lợi yếu của
bản mệnh. Biết được lợi yếu của bản mệnh rồi, mới dùng ngũ hành trong đá ngọc
mà điều hòa. Có sách viết: Nhật Can mạnh yếu cần có sự tương trợ của Nguyệt
Lệnh. Trong trường hợp không có Nguyệt Lệnh hỗ trợ, các can chi trong trụ liền
suy yếu. Có thể dùng phương pháp đá phong thủy để bổ cứu, điều hậu cho Nhật
Can.
Ở Việt Nam, thuyết Tứ Trụ được sử dụng cực kỳ nhiều, tất cả các sách Thạch Lý Học tại Việt Nam đều có dẫn xuất như cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh , cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc. Tuy nhiên, có khá nhiều sai biệt giữa các sách với nhau về cách tính, điều này cũng dễ hiểu vì đây là ứng dụng tùy thuộc vào cách luận Tứ Trụ. Ở đây chỉ giữ lại một thuyết để thống nhất là sử dụng sách của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm.
Theo thuyết Tứ
Trụ, Ban Thái Thạch thuộc mệnh Hỏa rất hạp với mệnh Mộc sinh vào ngày xuân,
được nguyệt lệnh mà phần lớn là thân mạnh, vì vừa qua mùa đông lạnh, có chút
lạnh lẽo, mượn Hỏa sưởi ấm cơ thể tự do phát triển vươn xa, có Thủy nuôi dưỡng
sẽ sinh trưởng nhanh. Tóm lại, Mộc mùa xuân tốt nhất nên có Thủy, Hỏa đến điều
hòa mới phát triển tốt. Ban Thái Thạch thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với
mệnh Mộc sinh mùa thu, thông thường không được sự trợ giúp của nguyệt lệnh, Kim
nặng quay quanh, phần lớn thuộc thân yếu. Nếu là Mộc mùa suy yếu, ưa được Hỏa
tiết, Thổ dưỡng, Kim khắc không ưa Thủy đến tương trợ. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa
cũng rất hạp với mệnh Hỏa sinh mùa thu. Hỏa mùa thu phần lớn là thân yếu, cần
có Mộc sinh mới có thể thịnh vượng, chuyển nguy thành yên bình đồng thời đạt
được tài lợi, sẽ không bị khốn đốn. Nếu gặp Hỏa đến phù trì, có thể phát huy
tài cáng, dựa vào nổ lực của bản thân có thể được thù lao xứng đáng. Đá ngọc
thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Hỏa sinh mùa đông. Hỏa mùa đông phần lớn là
thân yếu, cần có Mộc sinh, nếu không Thủy vượng sẽ tiêu diệt Hỏa, mãi mãi khó
có thể đứng dậy. Hỏa mùa đông thân yếu có Hỏa đến giúp thì Tỷ Kiếp khác Tài
tinh, có thể nhìn thấy tiền tài phát triển thịnh vượng, nhưng duyên với vợ bạc,
quan hệ không thân mật, hoặc vợ có tình trạng sức khỏe không tốt.
Thuyết Vi Lượng
Trị Liệu (Oligotherapy) đề xuất bởi bác sĩ
Jacques Ménétrier và Gabriel Bertrand, vào giữa thế kỷ 20. Những người thực
hành Thạch Lý Học áp dụng lý thuyết này trong việc trị liệu thông qua cơ sở
giống như Thuyết Vi Lượng Đồng Căn (Homeopathy) của Samuel Hahnemann. Christian
Friedrich Samuel Hahnemann (1755-1843), một nhà vật lý học, hóa học và y học
người Đức, đã đưa ra một lý thuyết liên quan đến sự quan hệ yếu tố trong chứng
và chất của cơ thể người, sau này phát triển thành hệ thống Vi Lượng Đồng Căn.
Mỗi vi lượng trong đá được cho là sẽ tác động đến vi lượng tương ứng trong cơ
thể người, và nhờ đó bộ phận chứa vi lượng đó được chữa khỏi. Mỗi viên đá, bằng
vi lượng chứa trong nó, được tin là sẽ tác động lên phần sinh lý cơ thể, giúp
gợi ý cho việc chữa bệnh hoặc tác động lên tinh thần.
Ở Việt Nam, thuyết Vi Lượng được nhắc đến duy nhất trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh, nhưng khá sơ khai, vì cho rằng đây là thuyết phức tạp, chuyên sâu. Các cuốn khác, hầu như không hề biết gì về thuyết này.
Trong thành
phần của Ammolite ngoài thành phần chính CaCO3 Thuyết Vi Lượng
Trị Liệu (Oligotherapy) cho rằng Nguyên tố Oxygen (O) có số nguyên tử là 8,
chiếm tỉ trọng trong cơ thể người là 0.65. Thành phần của nguyên tố này trong
cơ thể trung bình là 43kg chiếm tỷ lệ là 24%. Tác động đến sức khỏe và sự sống
của hầu hết các loài động thực vật trên thế giới. Nguyên tố Calcium (Ca) có số
nguyên tử là 20, tỉ trọng Canxi trong cơ thể là 0.014 và khối lượng trung bình
trong cơ thể người là 1kg đạt tỷ lệ là 0.22%. Tác động tích cực cho sức khỏe do
Can xi là thành phần chủ yếu của răng và hệ xương, đặc biệt là trong các thành
phần Calmodulin và Hydroxylapatite. Tác dụng lên hệ xương, chiều cao, sự vận
động và phục hồi xương. Được coi là có tác dụng tốt cho chứng gãy xương, hay
tăng chiều cao ở trẻ em. Được sử dụng nhiều cho các vận động viên, hoặc các
ngành nghề cơ bắp. Nguyên tố Carbon (C) có số hiệu nguyên tử là 6, tỉ trọng cúa
nó trong cơ thể ta là 0.18, khối lượng trung bình 16kg chiếm tỷ lệ 12% trong cơ
thể. Tác động tích cực cho sức khỏe do
Carbon là thành phần chính cấu tạo nên sinh vật sống. Tuy nhiên, thuyết
Oligotherapy chú trọng vào các vi chất, chứ không phải các chất cơ bản, nên
thường Carbon không được tính vào thuyết này.
Thuyết Hài Hòa
Bộ Tám (Law of Octaves) của Newlands ứng
dụng trong giả kim thuật, cho phép tính toán sự liên hệ của khoáng chất trong
đá và chiêm tinh,từ đó suy dẫn đến các ứng dụng của đá lên cơ thể con người.
Vào năm 1864, John Alexander Reina Newlands (1837-1898), nhà hóa học
người Anh, tìm ra quy luật bát bội: Mỗi nguyên tố hóa học đều thể hiện
tính chất tương tự như nguyên tố thứ 8 khi xếp các nguyên tố theo khối lượng
nguyên tử tăng dần. Điều này kích thích các nhà huyền học giả kim thuật vì giả
kim từ lâu không thể tạo ra bất kỳ quy luật nào tương xứng phù hợp với khoa học
hiện đại. Quy luật số 8 ứng với tám hành tinh (gồm cả trái đất) mà nền tảng của
nó đã có từ lâu, và còn tương ứng nhiều hình thức tâm linh huyền học khác liên
đới với con số 8 như Geomancy (bói đất). Từ đó người ta (mà nổi tiếng nhất là
nhà huyền học George Ivanovich Gurdjieff, người cực kỳ yêu quý thuyết Law of
Octaves) xây dựng nên hệ tính để tìm ra nguyên tố chủ đạo và hành tinh chủ đạo
trong một viên đá. Từ đó, dẫn suy ra những đặc tính chữa bệnh hoặc tác động lên
tinh thần.
Ở Việt Nam, hầu như không có sách nào đề cập đến thuyết này. Ngay cả ở những sách nước ngoài cũng rất hiếm gặp. Thường ở các sách huyền học như các tạp bản của George Gurdjieff, và người kế thừa dưới dạng các enneagram (bát tố đồ)
Thuyết Hài Hòa
Bộ Tám (Law of Octaves) cho rằng loại đá này mang yếu tố của hỏa tinh với
nguyên tố chủ đạo là nguyên tố Lửa. Vì vậy nó tác động lên hệ sinh dục, bộ phận
sinh dục, tuyến thượng thận. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan
đến tình dục như yếu sinh lý, liệt dương, khoái cảm kém nhằm tăng cường sinh
lực tình dục. Nó còn giúp tăng cường ý chí và tư tưởng, đặc biệt là sự tham
vọng, đầy năng lượng, đam mê, nam tính, hành động, kỷ luật, lòng nhiệt huyết,
nhiệt tình trong tình dục... nhấn mạnh yếu tố ý chí. Về mặt tinh thần, loại đá
này được cho là trấn giữ các mối quan hệ của nhà chiêm tinh thứ 3 và 10: anh
em, bà con (nhà Fratres); chức vụ, nhiệm (nhà Regnum). Dành hỗ trợ cho những
người có mối quan hệ đã nêu không được suông sẻ để cải thiện tình hình. Thuyết
của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố hỏa tinh bảo trợ về toán và suy luận nói
chung (Dante Alighieri). Dành cho những người làm trong lĩnh vực liên quan đến
tính toán như các ngành toán, vật lý, kỹ sư, cơ giới, thủ quỹ, thủ kho, buôn
bán, kế toán ...
Thuyết Thái Lặc
Mã (Thelema) đề xuất bởi nhà huyền học
Aleser Crowley, đầu thế kỷ 20, mặc dù bản thệ thống của nó, được thừa hưởng thừ
Hội Kín Kim Bình Minh ra đời vào thế kỷ 19. Hệ thống Thelema được ứng dụng
trong Thạch Lý Học thông qua mối liên hệ với Sinh Thụ (Tree of Life), một lý
thuyết của người Do Thái ra đời cùng thời với Kinh Cựu Ước. Hệ thống dựa trên
các sách tương ứng do sự đóng góp của nhiều nhà huyền học khác nhau: McGregors
Mathers, Paul Foster Case… đặc biệt được tổng hợp trong cuốn Kinh Liber 777.
Ở Việt Nam, thuyết Thelema hầu như chưa bao giờ được nhắc đến trong tất cả các sách về Thạch Lý Học đã xuất bản. Tuy nhiên, rất nhiều tài liệu về huyền học phương tây do những du học sinh tại Hải Ngoại được đăng trên các trang mạng, sử dụng hệ thống này của Thelema. Thuyết này được các nhóm huyền học phương tây sử dụng rộng rãi ở thời kỳ Internet nở rộ khoảng năm 2012, bởi các nhóm nghiên cứu Huyền Bí Học và Ma Thuật Học, như nhóm Huyền Học Phương Tây, Hội Tarot Huyền Bí...
Thuyết Thelema
cho rằng Ammolite gắng liền với Sepheroth số 8 Hod. Quan điểm của Hasidic trong
Do thái giáo về Hod là nó liên quan đến lời cầu nguyện của người Do thái. Cầu
nguyện được xem như là hình thức "phục tùng"; Hod được giải thích như
là một cách tương tự thay vì "chinh phục" sẽ gặp một trở ngại theo
cách của mình, (đó là ý tưởng của Netzach), chinh phục bản thân là "những
trở ngại" liên quan đến phẩm chất của Hod. Trong Liber 777, nó được coi là
chữa trị cho các biểu hiện bệnh tật của phần hông và các cơ quan vị trí hông eo
trái và nó có tác dụng điều trị với các bệnh liên quan đến thần kinh.
Thuyết Reiki (Linh Khí), dựa trên sự
kết hợp của hệ thống Kinh Lạc trong Y Thuật Trung Hoa, hệ thống Luân Xa trong Y
Thuật Ấn Độ và thuyết Ngũ Hành trong thạch học, dùng trong xoa bóp, ấn huyệt,
được đề xuất bởi Mikao Usui năm 1922. Nếu hệ thống luân xa thật sự ít khi được
áp dụng trong Reiki thực hành, hệ thống Kinh Lạc lại được sử dụng trong ấn huyệt
rất rộng rãi. Kinh lạc là đường khí huyết vận hành trong cơ thể, đường chính của
nó gọi là kinh, nhánh của nó gọi là lạc, kinh với lạc liên kết đan xen ngang dọc,
liên thông trên dưới trong ngoài, là cái lưới liên lạc toàn thân. Kinh lạc phân
ra hai loại kinh mạch và lạc mạch.Trong kinh mạch gồm chính kinh và kỳ kinh,
chính kinh có mười hai sợi, tả hữu đối xứng, tức thủ túc tam âm kinh và thủ túc
tam dương kinh, gọi chung mười hai kinh mạch, mỗi kinh thuộc một tạng hoặc một
phủ. Kỳ kinh có tám sợi, tức đốc mạch, nhâm mạch, xung mạch, đái mạch, âm duy mạch,
dương duy mạch, âm kiểu mạch, dương kiểu mạch. Thông thường nhắc đến mười hai
kinh mạch và thêm vào hai mạch nhâm đốc gọi chung mười bốn kinh mạch chính. Bệnh
tật đều do sự vận hành bế tắc của khí luân chuyển trong 12 kinh mạch này, nếu
được khơi thông, ắt sẽ hết bệnh tật. Y Tông Tâm Lĩnh bàn về Kinh Lạc nói, mười
hai kinh lạc, có Thủ thái âm phế kinh (手太阴肺经) thuộc về hành Kim, Thủ thiếu âm tâm kinh ( 手少阴心经) thuộc về hành Hỏa,
Thủ quyết âm tâm bào kinh (手厥阴心包经) thuộc về hành Hỏa, Thủ thiếu dương tam tiêu kinh (手少阳三焦经) thuộc về hành Hỏa,
Thủ thái dương tiểu tràng kinh (手太阳小肠经) thuộc về hành Hỏa, Thủ dương minh đại tràng kinh (手阳明大肠经) thuộc về hành
Kim), Túc thái âm tỳ kinh (足太阴脾经) thuộc về hành Thổ, Túc thiếu âm thận kinh (足少阴肾经) thuộc về hành Thủy, Túc quyết âm can kinh (足厥阴肝经) thuộc về hành Mộc,
Túc thiếu dương đảm kinh (足少阳胆经) thuộc về hành Mộc, Túc thái dương bàng quang kinh (足太阳膀胱经) thuộc về hành
Thủy, Túc dương minh vị kinh (足阳明胃经) thuộc về hành Thổ. Mỗi mạch lại ứng những bệnh lý khác nhau. Cách sử dụng
truyền thống là dùng đá phù hợp làm thành cây ấn huyệt để trị liệu khơi thông
kinh mạch, giống với châm cứu. Ở Việt Nam, hầu như không có tài liệu về môn này
hoặc tài liệu về Reiki từng được xuất bản, tuy nhiên, nhiều học giả cho biết đã
từng có sách về môn này xuất bản trước 1975 mà chúng tôi chưa có dịp khảo cứu
được.
Thuyết Bát Quái
Kinh Dịch (Iching Therapy), mặc dù được
lấy từ lý thuyết của châu Á, nhưng việc áp dụng nó vào thạch lý học thì lại do
các nhà huyền học Nga, gần gũi với lý thuyết Thông Thiên Học, ra đời vào những
năm 1980. Ở Việt Nam, thuyết này ít được phát triển, đại diện chỉ có Ts Hoàng
Thế Ngữ, Chủ Tịch Hội Đá Quý Việt Nam, tốt nghiệp tại Nga, dùng trong cuốn Đá
Quý Việt Nam, nhưng chỉ dùng cấu trúc hình thái tinh hệ để luận. Cuốn Thạch Đá
Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, tuy có dẫn ra phép Bát Quái, nhưng lại chỉ dựa trên
màu sắc của Ngũ Hành để luận. Cả hai đều rất sơ khai. Dựa vào hình thái tinh hệ
của tinh thể gồm tám loại, được phân định thành tám quái thuộc nội quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông
Thiên Học: Lập Phương (cubic) ứng Càn , Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam
Phương (rhombohedral) ứng Ly, Lục Phương (hexagonal) ứng Đoài, Tam Tà (triclinic)
ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic) ứng Tốn, Phi
Tinh (noncrystallinic) ứng Khôn. Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng khác:
Lập Phương ứng Càn, Tam Tà ứng Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn, Tam
Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở đây
chỉ trình bày thuyết của Thông Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm tám
màu, ứng với tám quái thuộc ngoại quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính, đều
nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ nhất được trình bày trong I-ching: Binary
Numbers, Astrology, And Chakras, dựa trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng,
Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ,
Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành
ứng bát quái cho rằng: Càn ứng dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn
ứng cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề
xuất dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam,
Cấn ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại quái
tương ứng với hình dạng và màu sắc của tinh thể, từ đó tính ra được quái trong
64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại ứng một bộ phận cơ thể theo y lý
trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể.
Theo thuyết Bát Quái Kinh Dịch, đá Ammolite có màu đỏ cam tương ứng quẻ ngoại quái Ly, có tinh hệ Chán Giao tương ứng quẻ nội quái Tốn, ghép lại chính là quẻ quái số 50: quẻ Hỏa Phong Đỉnh. Quái 50 ứng với vị trí tai trong trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên quan đến hệ thính giác như viêm tai giữa, viêm tai ngoài, ù tai, thủng màn nhĩ, rò luân nhĩ,... Quẻ Hỏa Phong Đỉnh có nghĩa: Quẻ Đỉnh, Tự quái nói rằng: Thay đổi các vật, không gì bằng cái vạc, cho nên tiếp đến quẻ Đỉnh. Sự dùng của cái vạc, là để thay đổi các vật, biến thứ sống ra thứ chín, đổi cái rắn thành cái mềm. Đây lấy tài quẻ mà nói. Như tài quẻ này, có thể đem đến được sự cả hanh vậy. Chỉ nên nói “nguyên hanh”, chữ “cát” là thừa. Vì tài quẻ này có thể đem đến được sự cả hanh. Lời Thoán nói “nguyên hanh” nghĩa đó rõ lắm, người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy.
Theo thuyết Bát Quái Kinh Dịch, đá Ammolite có màu đỏ cam tương ứng quẻ ngoại quái Ly, có tinh hệ Chán Giao tương ứng quẻ nội quái Tốn, ghép lại chính là quẻ quái số 50: quẻ Hỏa Phong Đỉnh. Quái 50 ứng với vị trí tai trong trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên quan đến hệ thính giác như viêm tai giữa, viêm tai ngoài, ù tai, thủng màn nhĩ, rò luân nhĩ,... Quẻ Hỏa Phong Đỉnh có nghĩa: Quẻ Đỉnh, Tự quái nói rằng: Thay đổi các vật, không gì bằng cái vạc, cho nên tiếp đến quẻ Đỉnh. Sự dùng của cái vạc, là để thay đổi các vật, biến thứ sống ra thứ chín, đổi cái rắn thành cái mềm. Đây lấy tài quẻ mà nói. Như tài quẻ này, có thể đem đến được sự cả hanh vậy. Chỉ nên nói “nguyên hanh”, chữ “cát” là thừa. Vì tài quẻ này có thể đem đến được sự cả hanh. Lời Thoán nói “nguyên hanh” nghĩa đó rõ lắm, người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy.
Thuyết Phật Giáo Mật Tông là phái phật giáo duy nhất có ứng dụng trong Thạch Lý Học. Lý thuyết dựa trên hình ảnh của Ngũ Trí Như Lai và Tử Thư. Ngũ Phật còn gọi là Ngũ Trí Như Lai, Ngũ Trí Phật, Ngũ Phương phật, hay còn được gọi Ngũ Thiền Định Phật; là tên gọi chỉ năm vị Phật trong Mật Tông, lấy Đại Nhật Như Lai làm chủ tôn, có sự khu biệt giữa Ngũ Phật giới Kim Cương và Ngũ Phật giới Thai Tạng. Năm đức Phật này đại diện cho 5 phẩm chất của con người và tạo ra sự tuyệt mỹ và hay nhất để phá bỏ những sai trái trong 5 phẩm chất đó. Mỗi đức Phật là một con đường tuyệt diệu để đi đến cảnh giới Niết Bàn và Vô sanh. Tu theo những vị đó sẽ mau chóng vào được cung điện Niết Bàn. Ngũ trí Như Lai là 5 vị Phật tối cao của Phật giáo Tây Tạng. Năm vị phật này đại diện bởi năm màu, gọi là Ngũ Sắc Trí (pancha-varna): Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairochana) đại diện bởi màu trắng và tím, A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya) đại diện bởi màu lam và đen, Bảo Sanh Như Lai (Ratnasambhava) đại diện bởi màu vàng và cam, A Di Đà Như Lai (Amitabha) đại diện bởi màu đỏ và hồng, Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi) đại diện bởi màu lục. Nitin Kumar căn cứ vào kinh điển Chandamaharosana Tantra dẫn ra những quy tắc sử dụng màu săc trong mật tông, đáng chú ý cho rằng: màu lam đại diện cho phẫn nộ tướng ứng vị trí tai, màu vàng đại diện cho sinh dưỡng tướng ứng vị trí mũi, màu đỏ đại diện cho vô úy tướng ứng miệng, màu lục đại diện cho uy đức tướng ứng vị trí đầu. Trong Tử Thư Tây Tạng cũng tuyên về màu sắc tương ứng lục đạo: ánh sáng trắng là của cõi trời, ánh sáng đỏ là của cõi Atula, ánh sáng lam là của cõi người, ánh sáng lục là của cõi súc sanh, ánh sáng vàng là của cõi quỷ đói, ánh sáng xám là của cõi địa ngục.
Ở Việt Nam, thuyết này hầu như chưa bao giờ được nhắc đến trong các sách Thạch Lý Học đã xuất bản. Tuy nhiên một số kinh sách về ngũ sắc trí đã được dịch và xuất bản những năm gần đây như Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe Trong Bardo của Guru Rinpoche, Những Giáo Pháp Bí Mật Của Tử Thư Tây Tạng của Detlef Ingo Lauf.
Đá Ammolite có màu đỏ, là bổn sắc của A Di Đà Như Lai (Amitabha) . Ngài là sự chuyển hóa của sự hỗn độn thành sự phân minh. Màu đỏ đại diện cho vô úy tướng ứng với miệng. Đeo Ammolite sẽ được A Di Đà Như Lai Phật hộ trì, hỗ trợ về miệng và sự phân minh. Vì đây cũng là màu của cõi atula, đá Ammolite được coi là bùa hộ về vị dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về vị dục thông qua vị phật phân minh. Tử thư nhắc đến màu đỏ như biểu hiện cho sự phân minh, trí huệ, đồng thời sự tỵ nạnh ganh ghét. Tử Thư Tây Tạng viết rằng: Vào ngày thứ tư, một ánh sáng đỏ – đó là yếu tố tinh khiết của lửa, sẽ chiếu sáng và đồng thời đức Phật A Di Đà từ cõi phương Tây màu đỏ, Cõi Cực Lạc (The Blissful) sẽ xuất hiện trước mặt con. Thân ngài màu đỏ, ngài cầm hoa sen trong tay, ngài ngự trên ngai con chim công, ngài đang ôm người phối ngẫu là Phật Mẫu Pandaravasini. Ánh sáng đỏ của tưởng uẩn trong tánh thanh tịnh căn bản của nó là Diệu Quan Sát Trí (wisdom of discrimination), màu đỏ rực rỡ, được trang hoàng bởi những dĩa ánh sáng quang minh, rõ rệt, sắc bén, óng ánh từ tim của đức Phật A Di Đà. Vào ngày thứ tư, có các tia sáng của hỏa đại màu đỏ xuất phát từ phương tây. Chính giữa luồng ánh sáng đó có đức Phật A Di Đà, đứng trên tòa sen đang rộng hai tay tiếp dẫn. Luồng ánh sáng này chiếu soi khắp mười phương thế giới không chỗ nào không soi đến. Gần đó có một lớp ánh sáng màu nâu đục, tượng trưng cho cảnh giới của ngạ quỷ cũng đồng thời xuất hiện.
Nơi tìm thấy: Vỏ của Ammolite
gặp ở nhiều nơi trên trái đất, tuy nhiên, là khoáng vật Ammolite chỉ mới được
khai thác ở một nơi, đó là tỉnh Albert Canada. Chất lượng và giá trị tương ứng
của Ammolite tùy thuộc vào sự phong phú màu sắc của chúng. Ammolite có thể có
màu vàng, da cam, xanh lá cây, xanh lam. Thật kì lạ sắc thái này không phải là
do sắc tố mà là do sự khúc xạ của ánh sáng khi xuyên qua các lớp xà cừ hóa
thạch.
Lời cảm ơn: bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp:
tiến sĩ Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM),
nhà sưu tập Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược
sĩ Phạm Hoàng Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments