Amazonite
天河石 - Thiên
Hà Thạch
Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị
Liệu, Thạch Học Trị Liệu dịch từ chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp
cổ. Lithotherapy phân thành Litho đến từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá,
therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ] tức là chữa trị, lithotherapy tức là
chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với đá ở ngoài da. Lithotherapy là một
môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận huyền học và thần bí học. Mặc dù
có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả năng của nó, đã được ứng dụng từ
lâu trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại, nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức
màn bí mật của những điều thần kỳ giống như nền Đông Y của người Trung Quốc hay
Nam Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc biệt trình bày về những lý
luận căn bản trong Thạch Lý Học đối với Amazonite, nằm trong chuỗi khảo cứu,
viết riêng cho tuần báo UNESCO.
Giới
thiệu đá:
Amazonite
– Fenspat xanh lá cây hay xanh lá cây phớt xanh da trời có ánh tơ trắng mờ.
Loại đá này đã được biết đến từ thời cổ đại. Trên lãnh thổ Etiopia và Ai Cập đã
có những khu mỏ Amazonit từ vài ngàn năm TCN. Những nhà sử học khẳng định rằng,
đầu tiên vào năm 1783, R.B.Rome de Lille đặt tên cho một số viên đá màu xanh lá
cây từ lưu vực sông Amazon là “đá của những nữ chiến binh Amazone”. Về sau vào
năm 1847, A.Breithaut đặt cho loại đá này tên gọi ngắn gọn là “Amazonit”. Trong
tiếng hán 天河石 (Thiên Hà Thạch) trong đó
天 nghĩa là thiên, 河 nghĩa là hà, 石 nghĩa là
thạch. Thần thoại Hy Lạp khẳng định rằng Hyppolita – người chỉ huy các nữ chiến
binh Amazon có chiếc thắt lưng làm bằng những viên đá màu xanh lá cây. Có lẽ đó
chính là đá Amazonit? Nhưng dù sao, theo bằng chứng của những nhà sử học cổ đại
“đá của những nữ chiến binh Amazone” dường như lấy từ dãy núi Riphaei. Đó là
tên gọi trước kia của Ural, nơi thật sự có Amazonite. Theo một số truyền
thuyết, phụ nữ Xkif dùng bột từ một loại đá màu xanh lá cây xoa lên một bên
ngực để cho vú không phát triển. Có thể từ đó mà phát sinh câu chuyện thần
thoại về các nữ chiến binh Amazone (chỉ có một bên vú). Không phải ngẫu nhiên
mà đồ trang sức amazolite được tìm thấy khi khai quật những khu mộ cổ ở Xkif ở
chính nơi mà theo mô tả của Herodot và Plinus là nơi các nữ chiến binh Amazon
đã sống. Các chuyên gia cho rằng massage bằng những quả cầu Amazolite có khả
năng loại trừ sự ccawng thẳng về thần kinh và củng cố cơ tim. Có ý kiến cho
rằng khi đeo chuỗi hạt Amazonite có khả năng làm tươi trẻ và làm đẹp màu da. Amazonite
giúp điều trị bệnh viêm khớp, bệnh thấp, thoái hóa đốt sống cổ. Amazonite được
coi là loại đá của lòng dũng cảm và trung thành. Màu của đá Amazonite tạo sự
hứng khởi, giảm cảm giác lo lắng và tự ti. Đồ trang sức bằng Amazonite giúp
củng cố mối quan hệ gia đình và xây dựng gia đình bền vững. Chúng đem lại sự no
đủ về vật chất và khả năng thổi vào những người lớn tuổi làn gió của sự tươi
trẻ. Những nhà thần bí đặt viên đá amazonit dưới “hổ phách ma thuật” để đem lại
hổ phách tính chất đặc biệt. Có nhiều lý do để người ta tin rằng Amazonite tăng
cương khả năng tiên đoán.
Giới thiệu các thuyết: Giá trị thạch lý học của Amethyst được trình bày thành các
thuyết cơ bản: thuyết Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học
(Chromotherapy), thuyết Linh Khí (Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng
Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves), thuyết Thái Lặc Mã
(Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết Hoa Giáp (Hwangap), thuyết
Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié).
Thuyết
Đông Phương Bản Mệnh có nhiều luận thuyết khác nhau. Theo phép
tính theo năm, Phương Đông dựa trên Can Chi, lập luận dựa trên ngũ hành, phối
màu tạo nên bộ hoa giáp sắc pháp. Từ Giáp Tý là sắc đỏ ban mai, chuyển dần cho
đến Quý Hợi là sắc tím trời khuya, tạo nên hơn 60 màu khác nhau. Theo phép tính
theo tháng, người ta căn cứ vào địa chi của tháng sinh, theo như sau: Tháng
giêng là Dần, tháng 2 là Mão, tháng 3 là Thìn, tháng 4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ,
tháng 6 là Mùi, tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu, tháng 9 là Tuất, tháng 10 là
Hợi, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu, cùng phối hợp với ngũ hành của tháng để
chia màu sắc đá, như sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng dùng đá có tông màu lục, lam,
dương), Tị Ngọ thuộc Hỏa (ứng dùng đá có tông màu cam đỏ hồng), Thân Dậu thuộc
Kim (ứng dùng đá có tông màu trắng, xám, ánh bạc), Tý Hợi thuộc Thủy (ứng dùng
đá có tông màu đen, chàm, tím), Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ (ứng dùng đá có
tông màu vàng, trong, ánh kim). Thuyết về tháng bản mệnh này được dùng nhiều
rộng rãi vì đơn giản, dễ tính ra. Ở Việt Nam, cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ
Thanh Trúc, cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ, cuốn Ứng Dụng Năng
Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh đều có nói đến thuyết này. Tuy nhiên, sự
phân định màu sắc và ngũ hành không giống nhau. Ví dụ như Ts Hoàng Thế Ngữ
trong cuốn Đá Quý Việt Nam đưa ra Hỏa ứng màu đỏ, Thủy ứng màu xanh, Thổ ứng
màu nâu, Mộc ứng màu lục, Kim ứng màu vàng trắng đen. Ths. Nguyễn Mạnh Linh
trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định khác Hỏa ứng màu đỏ hồng tím,
Thủy ứng màu đen sẫm, Thổ ứng vàng nâu, Mộc ứng lam lục, Kim ứng trắng bạc.
Thuyết
Bản Mệnh phương đông xếp loại đá này vào năm Canh Tuất, thuộc Kim Cục, về Dương
Phần. Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Canh Tuất sử dụng. Về tháng bản
mệnh, đá này màu lam, thuộc về hành Mộc, ứng về tháng Dần Mão, tức tháng 1,2.
Thuyết
Tây Phương Bản Mệnh là thuyết rất cơ bản của Thạch Lý Học Phương Tây, dựa trên
Cung Hoàng Đạo, mười hai cung mỗi cung chủ chế một màu, tùy vào ngày bản sinh
mà màu sắc đậm nhạt khác nhau theo thời gian, từ đó luận về đá bản sinh
(Birthstones) được dùng nhiều trong văn hóa phương tây. Mặc dù vậy, hầu hết các
tài liệu đều xếp tương đối bất đồng, từ thế kỷ 16 trở đi, hầu hết không được
thống nhất. Ở đây, chỉ trích dẫn những quan điểm được công nhận rộng rãi.
Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo tháng như sau: tháng một màu đỏ
cam, tháng hai màu tím tươi, tháng ba màu xanh lam, tháng tư màu trắng trong,
tháng năm màu lục đen, tháng sáu màu trắng đục, tháng bảy màu đỏ tươi, tháng
tám màu xanh chuối, tháng chín màu xanh lá, tháng mười màu đen, tháng mười một
màu vàng, tháng mười hai màu chàm. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa
theo hoàng đạo như sau: Bạch Dương màu xanh đen, Kim Ngưu màu xanh dương đậm,
Song Tử màu trắng trong, Cự Giải màu xanh lá mạ, Sư Tử màu đen, Xử Nữ màu cam,
Thiên Bình màu lục nhạt, Thiên Yết màu lam, Nhân Mã màu vàng, Ma Kết màu đỏ
tươi, Bảo Bình màu đỏ sậm, Song Ngư màu tím. Thuyết bản mệnh Phương Tây được
ứng dụng rộng rãi trong đời sống từ thế kỷ 18, có tương đối nhiều các dị biệt
tùy vào sách. Ở Việt Nam, thuyết này cũng được sử dụng khá nhiều, nhưng không
hiểu vì sao trong tất cả các cuốn Thạch Lý Học của Việt Nam, ngoại trừ cuốn
Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc và cuốn Tất Cả Về Khoáng Vật Chữa Bệnh Mầu
Nhiệm (dịch của Jasper Stones của Nga), đều không nhắc đến thuyết này.
Đá này
màu lam được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng ba, mùa xuân và xếp vào đá bản
mệnh của cung Thiên Yết, thuộc hệ nước. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 24 tháng
10 đến 22 tháng 11 hằng năm, hoặc vào tháng 11 thì được xem là có lợi khi đeo
loại đá này.
Thuyết Quang Lý Học (Chromatherapy) được ra đời
rất lâu từ giả kim thuật, nhưng chính thức định hình đặt tên bởi tiến sĩ
Christian Agrapart. Thạch Lý Học sử dụng lại thuật ngữ này, nhưng không sử dụng
liệu pháp ánh sáng như Agrapart mà lý luận dựa trên màu của loại đá. Nó gồm một
phần nghiên cứu về màu sắc trong y học của Agrapart và một phần nghiên cứu về
màu sắc trong tâm lý học. Màu sắc trong tâm lý học đã được nghiên cứu lâu đời
như bảng phân chia màu sắc và tâm trạng "rose of temperaments"
(Temperamenten Rose) của Goethe và Schiller (1798). Nhưng nghệ thuật này chỉ
thăng hoa nhờ nghiên cứu của Carl Jung khi ghép tính biểu tượng của màu sắc vào
tâm lý con người. Từ đó, những người nghiên cứu sau này sử dụng sự tương ứng
màu sắc đó trong viên đá và đặt nền tảng lý thuyết cho Thạch Lý Học. Dựa vào
bảng màu sắc đó, cho phép gợi ý đến tác động chữa bệnh hoặc lên tinh thần con
người.
Ở Việt
Nam, thuyết Quang Lý Học này cũng được sử dụng rộng rãi. Hầu hết các sách đều
có đề cập trừ cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý
Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Trong đó cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý
của Ths. Nguyễn Mạnh Linh có thể coi là chi tiết nhất về thuyết này.
Thuyết
Quang Lý Học (Chromatherapy) cho rằng là một trong 3 màu chính của bảng màu sắc
truyền thống, cùng với đỏ và lục. Nó nằm giũa màu tím và màu lục trong ánh sáng
quang phổ.Ở Ai Cập màu xanh đã được kết nối với bầu trời và thần linh. Thần
Amun của Ai Cập có thể làm cho da của mình màu xanh để ông có thể bay, vô hình,
trên bầu trời. Xanh lam cũng có thể bảo vệ chống lại cái ác; nhiều người ở vùng
Địa Trung Hải vẫn mặc một bộ áo giáp màu xanh, tượng trưng cho con mắt của
Thiên Chúa, để bảo vệ họ khỏi những tai hoạ. Ở Trung Quốc, màu xanh lam thường
có liên quan đến sự hành hạ, ma quỷ, và cái chết. Khảo sát tại Hoa Kỳ và Châu
Âu cho thấy màu xanh là màu phổ biến nhất liên quan đến sự hài hòa, trung thành,
tự tin, khoảng cách, vô hạn, trí tưởng tượng, lạnh, và đôi khi là nỗi buồn.
Trong các cuộc thăm dò ý kiến công chúng ở hai nơi này, màu sắc phổ biến nhất
được lựa chọn bởi gần một nửa số nam giới và phụ nữ, xanh lam là màu ưa thích
của họ. Các cuộc khảo sát tương tự cũng chỉ ra rằng màu xanh là màu có liên
quan nhiều nhất với nam giới, trước màu đen và cũng là màu sắc gắn liền với trí
tuệ, kiến thức, bình tĩnh và tập trung.
Thuyết
Luân Xa (Chakra) được trình bày trong trào lưu Thời Đại Mới (New
Age) bởi các lãnh tụ Thông Thiên Học như Johann Georg Gichtel, hoặc Yoga như
Swami Sivananda. Vẫn vận dụng chủ yếu là màu sắc của viên đá, được dịch nghĩa
theo hình ảnh các luân xa trong văn hóa Ấn Độ trong Áo Nghĩa Thư. Từ nguyên
thủy trong tiếng Sanskrit cakra mang ý nghĩa là "bánh xe" hay
"vòng tròn", các luân xa được miêu tả như là xếp thành một cột thẳng
từ gốc của cột sống lên đến đỉnh đầu, liên quan tới một số chức năng tâm sinh
lý, một khía cạnh của nhận thức, đánh dấu bởi một màu sắc nào đó. Chúng thường
được hình tượng hóa bằng các hoa sen với số cánh khác nhau cho mỗi luân xa. Các
luân xa được cho là đem lại năng lượng cho cơ thể và có liên quan đến các phản
ứng của cơ thể, tình cảm hay tâm lý của một người, là các điểm chứa năng lượng
sống (prana, cũng được gọi là shakti) lưu chuyển giữa các điểm đó dọc theo các
đường chảy (gọi là nadis). Chức năng của các chakra là xoay tròn để thu hút vào
năng lượng sống từ viên đá để giữ cân bằng cho sức khỏe về tâm linh, tâm lý,
tình cảm và sinh lý của cơ thể.
Ở Việt
Nam, thuyết Luân Xa được biết đến rộng rãi nhất trong số các thuyết về thạch lý
học. Tất cả các sách đều có đề cập đến thuyết này trừ cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong
Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Sự nhận định cũng ít nhiều sai khác. Ths.
Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định Luân xa gốc ứng
màu đỏ đen, luân xa xương cùng ứng màu cam phấn hồng, luân xa thái dương ứng
màu vàng, luân xa tim ứng màu xanh lá, luân xa họng ứng màu xanh lam, luân xa
trán ứng màu chàm tím, luân xa vương miện ứng màu trắng và tím nhạt.
Thuyết
Luân Xa cho rằng loại đá này màu lục ứng với luân xa tim Anahata (hoa sen mười
hai cánh). Anahata được đại diện bởi một hoa sen với mười hai cánh hoa. Mười
hai cánh hoa đỏ được khắc với âm tiết kam, kham, gam, gham, ngam, cham, chham,
jam, jham, nyam, tam và tham trong tiếng Phạn. Ở cấp độ chakra Anahata xuất
hiện khả năng tích hợp hai lực đối lập và theo cách này để đạt được hiệu quả
(âm thanh, trong trường hợp này), mà không có hai lực lượng phải đương đầu nhau
(mà không chạm vào hai phần). Năng lượng này đặc biệt cho sự hợp tác và hội
nhập, mang lại hòa bình và một viễn cảnh mới trong một thế giới, cho đến cấp độ
này (chỉ xem xét các năng lực đặc trưng cho ba lực lượng trung tâm đầu tiên:
Muladhara, Swasdhistana và Manipura)chỉ tạo ra ít hay nhiều sự đối đầu ý thức
giữa các lực lượng đối lập. Trên thực tế, tên Anahata cho thấy hiệu quả hiệp
lực của sự tương tác của năng lượng ở cấp độ này. Chúng ứng với sự tò mò của
dục vọng, gian lận, bấp bênh, ăn năn, hy vọng, lo lắng, khao khát, vô tư, kiêu
căng, năng lực, phân biệt và thách thức. Loại đá này mang đến khả năng tăng
cường tình cảm, lòng nhân ái, từ bi. Đặt viên đá ngay vị trí ngực, giữa ức, nơi
có luân xa. Nó có tác động lên tim, hệ miễn dịch, hệ hô hấp, phổi, lồng ngực.
Vì vậy sẽ tác dụng cải thiện dành cho những người thiếu cảm thông, hoặc bị xơ
cứng cảm xúc. Những người trong các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe như y tế viên,
bác sĩ, y tá, dược sĩ hoặc lĩnh vực giáo dục như giáo viên, giáo sư, nhân viên
cộng đồng cũng là những đối tượng của loại đá này. Những người trong vị trí
khắc nghiệt (đao phủ) cũng hay sử dụng loại đá này để trị liệu tâm hồn. Theo
cuốn “Tất cả vế khoáng vật chữa bệnh màu nhiệm” của Jasper Stone, ông cho rằng
amazonit thuộc có tác dụng luân xa: Luân xa vùng họng: kiểm soát cơ quan hô
hấp, họng, hệ thống thính giác và da, hoạt tính của luân xa này giúp tự khẳng
định trong hoạt động xã hội về nghề nghiệp, điều khiển cảm xúc, giúp đem đến
cảm giác mãn nguyện. Luân xa vùng tim: tác động đến hệ thống tim mạch, tế bào
tuyết vú, cột sống và hai tay; giúp khởi sinh lòng nhân ái, tính chân thành cởi
mở, sự nhạy cảm; củng cố ý chí biến đổi thế giới.
Thuyết Hoa Giáp dựa trên lý học phương
đông, canh theo can chi bản mệnh của một người theo ngày tháng năm sinh, rồi
tính sự xung khắc hay tương hợp trong ngũ hành. Từ đó đưa ra nguyên tắc vận
dụng trong thạch học, nhờ vào ngũ hành trong khoáng thạch đối chế lại với bản
mệnh, nhằm điều hòa bản thân. Thuyết Ngũ Hành quy định theo thiên can: Giáp Ất
thuộc Mộc, Bính Đinh thuộc Hỏa, Mậu Kỷ thuộc Thổ, Canh Tân thuộc Kim, Nhâm Quý
thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành quy định theo địa chi: Dần Mão thuộc Mộc, Ngọ Mùi
thuộc Hỏa, Thân Dậu thuộc Kim, Hợi Tý thuộc Thủy, Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ.
Từ thiên can, địa chi, quy định nên phối hành của bản mệnh: Mậu Thìn thuộc về
Thổ phối Thổ,… Khoáng thạch được phân theo ngũ hành dựa trên màu sắc và hình
dạng. Thuyết Ngũ Hành quy định màu sắc: Lục và Lam thuộc Mộc, Đỏ và Cam thuộc
Hỏa, Vàng và Trong thuộc Thổ, Trắng và Xám thuộc Kim, Đen và Tím thuộc Thủy.
Thuyết Ngũ Hành quy định theo thể dạng: trụ và dài thuộc Mộc, nhọn và góc thuộc
Hỏa, vuông và cân thuộc Thổ, cong và tròn thuộc Kim, uốn và lượn thuộc Thủy. Từ
đó suy ra được phối hành của khoáng thạch: ví dụ Huyền Thiết Thạch (Hematite) đen
có thể dạng khối tròn (Botryoidal) được xem là Thủy phối Kim. Thuyết Ngũ Hành
quy định tương sinh như sau: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh
Thủy, Thủy sinh Mộc. Thuyết Ngũ Hành quy định tương khắc như sau: Mộc khắc Thổ,
Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc. Dựa vào tương sinh
tương khắc của Ngũ Hành để khắc chế hay phù trợ cho bản mệnh thông qua việc đeo
những khoáng thạch khác nhau trên cơ thể.
Ở Việt
Nam, thuyết Hoa Giáp (Ngũ Hành Can Chi) được trình bày trong hầu hết các sách
về Thạch Lý Học, nhưng hầu hết chỉ dừng lại ở lý luận về màu sắc theo ngũ hành.
Cá biệt có cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm là có nhắc
đến thuyết này ứng dụng lý luận lên hình dạng của tinh thể, tuy nhiên không có
khai triển đầy đủ. Thuyết này các phái đạo gia phong thủy khai thác và phát
triển rất hoàn chỉnh, được trình bày tóm tắt như bên trên đây.
Thuyết
Hoa Giáp cho rằng Thiên Hà Thạch thuộc về Mộc (lục) phối Thổ (cân), tức Mộc
Cục. Do đó, Thiên Hà Thạch giúp khắc chế các bản mệnh Thủy – Hỏa như Nhâm Ngọ,
Quý Tỵ, Bính Tý, Đinh Hợi, vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc
này. Thiên Hà Thạch cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Hỏa (Mộc sinh Hỏa), gồm
mệnh thuộc Hỏa Mộc và thuần Hỏa: Bính Dần, Đinh Mão, Giáp Ngọ, Ất Tỵ, Bính Ngọ,
Đinh Tỵ, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại ngọc này.
Thuyết
Khí Tiết, dựa trên Ngũ Hành và sự vận hành của Khí Tiết tác động lên con
người. Khí Tiết và Bản Mệnh không hòa hợp, tất sinh ra bệnh tật đau yếu. Bệnh
tật chính là do tinh khí huyết trong cơ thể bị tổn mà nên, trong là lục phủ ngũ
tạng, ngoài là thân thể tứ chi, đều có liên quan đến ngũ hành tương sinh tương
khắc. Nếu can chi ngũ hành quá vượng, trong khi khí tiết bất hòa, tất nhiên gây
bệnh cho người. Y lý phương đông nói về Thiên Can: Giáp chủ Gan, Ất chủ Mật,
Bính chủ Ruột, Đinh chủ Tim, Mậu chủ dạ dày, Kỷ chủ Lách, Canh chủ ruột già,
Tân chủ Phổi, Nhâm chủ Bàng Quang, Quý chủ Thận. Y Lý Phương Đông nói về Địa
Chi: Tý bệnh về Sa Mang, Sửu bệnh về Bụng, Dần bệnh về Chân, Mão bệnh về Mắt,
Thìn bệnh về Lưng, Tỵ bệnh về Mặt, Ngọ bệnh về Tim, Mùi bệnh về Ngực, Thân bệnh
về Cổ, Dậu bệnh về Phổi, Hợi bệnh về Da. Sự hương thịnh hay suy tàn của ngũ
hành trong khí tiết của thiên can địa chi đều có quan hệ. Người sinh vào bản
mệnh Mộc quá vượng, tự khắc tỳ vị có bệnh, nếu nhằm ngay lúc ngày tháng thuộc
về khắc tinh của Mộc thì bệnh phát.
Ở Việt
Nam, thuyết Khí Tiết được trình bày tương đối cụ thể trong cuốn Sổ Tay Đá Quý
Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Các cuốn Thạch Lý Học khác hầu như không
nhắc đến thuyết này.
Thuyết
Khí Tiết nói, người có mệnh cục Hỏa (sinh vào ngày Bính-Đinh, Tỵ-Ngọ) gặp vào
những ngày thuộc hành Thủy (như các ngày Nhâm-Quý, Tý-Hợi) thì bởi Thủy khắc
Hỏa, sinh ra bệnh ở Ruột Tim, biểu hiện ở tiểu tràng và tâm kinh: câm đau
miệng, co giật ngưng mủ, đậu mùa, ung nhọt, ghẻ lở, mặt đỏ, nóng nảy. Sách mệnh
lý nói: mắt mờ, do Hỏa bị Thủy khắc chế, phải lấy Mộc giải độc, Thiên Hà Thạch
thuộc Mộc, có tác dụng tốt cho thể trạng người Hỏa Cục (Mộc sinh Hỏa), nhất là
vào những ngày Thủy thịnh (Nhâm-Quý, Tý-Hợi) và các tháng hành Thủy như tháng
mười và mười một. Người đeo đá Thiên Hà Thạch, có thể dùng Mộc khắc chế được
Thủy hại.
Thuyết Tứ
Trụ có thể ứng dụng từ Bát Tự trong Thuyết Tứ Trụ để bổ cứu, dựa
vào màu của đá để tương hỗ lấy mệnh. Chủ yếu dựa vào thiên can, lấy âm dương và
ngũ hành của thiên can để tính lấy bốn phép Kiêu Ấn, Thực Thương, Tỷ Kiếp, Quan
Sát và Tài, dụng vào địa chi mà thành Thập Thần. Từ đó luận ra được Nhật Can và
Nguyệt Lệnh, dựa vào sự phối hợp của nó trong sinh thời mà dự biết lợi yếu của
bản mệnh. Biết được lợi yếu của bản mệnh rồi, mới dùng ngũ hành trong đá ngọc
mà điều hòa. Có sách viết: Nhật Can mạnh yếu cần có sự tương trợ của Nguyệt
Lệnh. Trong trường hợp không có Nguyệt Lệnh hỗ trợ, các can chi trong trụ liền
suy yếu. Có thể dùng phương pháp đá phong thủy để bổ cứu, điều hậu cho Nhật
Can.
Ở Việt Nam, thuyết Tứ Trụ được sử dụng cực kỳ nhiều, tất cả các
sách Thạch Lý Học tại Việt Nam đều có dẫn xuất như cuốn Đá Quý Việt Nam của ts.
Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm, cuốn
Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh , cuốn Thạch Đá Trị Liệu
của Hồ Thanh Trúc. Tuy nhiên, có khá nhiều sai biệt giữa các sách với nhau về
cách tính, điều này cũng dễ hiểu vì đây là ứng dụng tùy thuộc vào cách luận Tứ
Trụ. Ở đây chỉ giữ lại một thuyết để thống nhất là sử dụng sách của ĐĐ. Thích
Minh Nghiêm.
Theo
thuyết Tứ Trụ, đá ngọc thuộc mệnh Mộc rất hạp với mệnh Hỏa sinh vào mùa thu.
Hỏa mùa thu phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh mới có thể thịnh vượng,
chuyển nguy thành yên bình đồng thời đạt được tài lợi, sẽ không bị khốn đốn.
Nếu thân yếu không có Ấn lại gặp Thủy khắc sẽ khó tránh nguy cơ bị tiêu trừ, cơ
thể không khỏe mạnh, thậm chí mất mạng. Nếu là Hỏa mùa thu có thân yếu lại gặp
Thổ hao tiết, khó sáng và không thể phát huy tài hoa, vất vả cả đời. Nếu thân
yếu lại gặp Kim đến tiết hao phần lớn là vất vả, nhiều thất bại, ít thành công,
kinh tế khó khăn, nghèo khổ lao đao. Đá ngọc thuộc mệnh Mộc cũng rất hạp với
Hỏa sinh mùa đông. Hỏa mùa đông phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh, nếu
không Thủy vượng sẽ tiêu diệt Hỏa, mãi mãi khó có thể đứng dậy. Hỏa mùa đông
thân yếu có Hỏa đến giúp thì Tỷ Kiếp khác Tài tinh, có thể nhìn thấy tiền tài
phát triển thịnh vượng, nhưng duyên với vợ bạc, quan hệ không thân mật, hoặc vợ
có tình trạng sức khỏe không tốt. Nếu chỉ có Tỷ Kiếp mà không có Tài, đại diện
cho vận thế thuận lợi, không có lợi ích thực tế. Đá ngọc thuộc mệnh Mộc cũng
rất hạp với mệnh Thủy sinh mùa thu. Thủy của mùa thu, vì Kim tư lệnh đương
quyền, do đó Kim Thủy tương sinh, mẹ vượng con tướng. Mộc thịnh vượng thì sẽ
tiết hao nguyên khí của Thủy, nhưng con cái sẽ hiển vinh.
Thuyết Vi
Lượng Trị Liệu (Oligotherapy) đề xuất bởi bác sĩ Jacques Ménétrier và
Gabriel Bertrand, vào giữa thế kỷ 20. Những người thực hành Thạch Lý Học áp
dụng lý thuyết này trong việc trị liệu thông qua cơ sở giống như Thuyết Vi
Lượng Đồng Căn (Homeopathy) của Samuel Hahnemann. Christian Friedrich Samuel
Hahnemann (1755-1843), một nhà vật lý học, hóa học và y học người Đức, đã đưa
ra một lý thuyết liên quan đến sự quan hệ yếu tố trong chứng và chất của cơ thể
người, sau này phát triển thành hệ thống Vi Lượng Đồng Căn. Mỗi vi lượng trong
đá được cho là sẽ tác động đến vi lượng tương ứng trong cơ thể người, và nhờ đó
bộ phận chứa vi lượng đó được chữa khỏi. Mỗi viên đá, bằng vi lượng chứa trong
nó, được tin là sẽ tác động lên phần sinh lý cơ thể, giúp gợi ý cho việc chữa
bệnh hoặc tác động lên tinh thần.
Ở Việt
Nam, thuyết Vi Lượng được nhắc đến duy nhất trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá
Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh, nhưng khá sơ khai, vì cho rằng đây là thuyết
phức tạp, chuyên sâu. Các cuốn khác, hầu như không hề biết gì về thuyết này.
Trong
thành phần của Amazonit có công thức hóa học KAlSi3O8, theo
Thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy) cho rằng thành phần Silic trong thạch
anh có tác dụng trị liệu. Trong cơ thể con người, silic chiếm chỉ số năng lượng
(MASS) là 0,0023, vì vậy nó tác động tích cực cho sức khỏe, mặc dù, tác dụng
không rõ ràng ở chứng bệnh hay vị trí nào của cơ thể. Nguyên tố Oxygen (O) có
số nguyên tử là 8, chiếm tỉ trọng trong cơ thể người là 0.65. Thành phần của
nguyên tố này trong cơ thể trung bình là 43kg chiếm tỷ lệ là 24%. Tác động đến
sức khỏe và sự sống của hầu hết các loài động thực vật trên thế giới. Nguyên tố
Potassium (K) có nguyên tử khối là 19, tỉ trọng cơ thể là 0.25 và có khối lượng
trung bình 0.14kg đạt tỷ lệ 0.033%. Tác động vừa tích cực do Kali là thành phần
chủ chốt trong các dây thần kinh nơ ron, và các búi co cơ trong cơ thể. Tác
dụng lên các bệnh về cơ khớp, và các bệnh về thần kinh hoặc tâm lý.
Thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves) của
Newlands ứng dụng trong giả kim thuật, cho phép tính toán sự liên hệ của khoáng
chất trong đá và chiêm tinh,từ đó suy dẫn đến các ứng dụng của đá lên cơ thể
con người. Vào năm 1864, John Alexander Reina Newlands (1837-1898), nhà hóa học
người Anh, tìm ra quy luật bát bội: Mỗi nguyên tố hóa học đều thể hiện tính
chất tương tự như nguyên tố thứ 8 khi xếp các nguyên tố theo khối lượng nguyên
tử tăng dần. Điều này kích thích các nhà huyền học giả kim thuật vì giả kim từ
lâu không thể tạo ra bất kỳ quy luật nào tương xứng phù hợp với khoa học hiện
đại. Quy luật số 8 ứng với tám hành tinh (gồm cả trái đất) mà nền tảng của nó
đã có từ lâu, và còn tương ứng nhiều hình thức tâm linh huyền học khác liên đới
với con số 8 như Geomancy (bói đất). Từ đó người ta (mà nổi tiếng nhất là nhà
huyền học George Ivanovich Gurdjieff, người cực kỳ yêu quý thuyết Law of
Octaves) xây dựng nên hệ tính để tìm ra nguyên tố chủ đạo và hành tinh chủ đạo
trong một viên đá. Từ đó, dẫn suy ra những đặc tính chữa bệnh hoặc tác động lên
tinh thần.
Ở Việt Nam, hầu như không có sách nào đề cập đến thuyết này. Ngay
cả ở những sách nước ngoài cũng rất hiếm gặp. Thường ở các sách huyền học như
các tạp bản của George Gurdjieff, và người kế thừa dưới dạng các enneagram (bát
tố đồ).
Thuyết
Hài Hòa Bộ Tám cho rằng loại đá này mang yếu tố của hỏa tinh với nguyên tố chủ
đạo là nguyên tố Lửa. Vì vậy nó tác động lên hệ sinh dục, bộ phận sinh dục,
tuyến thượng thận. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến tình
dục như yếu sinh lý, liệt dương, khoái cảm kém nhằm tăng cường sinh lực tình
dục. Nó còn giúp tăng cường ý chí và tư tưởng, đặc biệt là sự tham vọng, đầy
năng lượng, đam mê, nam tính, hành động, kỷ luật, lòng nhiệt huyết, nhiệt tình
trong tình dục... nhấn mạnh yếu tố ý chí. Về mặt tinh thần, loại đá này được cho
là trấn giữ các mối quan hệ của nhà chiêm tinh thứ 3 và 10: anh em, bà con (nhà
Fratres); chức vụ, nhiệm (nhà Regnum). Dành hỗ trợ cho những người có mối quan
hệ đã nêu không được suông sẻ để cải thiện tình hình. Thuyết của Dante
Alighieri, cho rằng yếu tố hỏa tinh bảo trợ về toán và suy luận nói chung
(Dante Alighieri). Dành cho những người làm trong lĩnh vực liên quan đến tính
toán như các ngành toán, vật lý, kỹ sư, cơ giới, thủ quỹ, thủ kho, buôn bán, kế
toán ...
Thuyết
Thái Lặc Mã (Thelema) đề xuất bởi nhà huyền học Aleser Crowley, đầu thế
kỷ 20, mặc dù bản thệ thống của nó, được thừa hưởng thừ Hội Kín Kim Bình Minh
ra đời vào thế kỷ 19. Hệ thống Thelema được ứng dụng trong Thạch Lý Học thông
qua mối liên hệ với Sinh Thụ (Tree of Life), một lý thuyết của người Do Thái ra
đời cùng thời với Kinh Cựu Ước. Hệ thống dựa trên các sách tương ứng do sự đóng
góp của nhiều nhà huyền học khác nhau: McGregors Mathers, Paul Foster Case… đặc
biệt được tổng hợp trong cuốn Kinh Liber 777.
Ở Việt Nam, thuyết Thelema hầu như chưa bao giờ được nhắc
đến trong tất cả các sách về Thạch Lý Học đã xuất bản. Tuy nhiên, rất nhiều tài
liệu về huyền học phương tây do những du học sinh tại Hải Ngoại được đăng trên
các trang mạng, sử dụng hệ thống này của Thelema. Thuyết này được các nhóm
huyền học phương tây sử dụng rộng rãi ở thời kỳ Internet nở rộ khoảng năm 2012,
bởi các nhóm nghiên cứu Huyền Bí Học và Ma Thuật Học, như nhóm Huyền Học Phương
Tây, Hội Tarot Huyền Bí...
Thuyết
Thelema cho rằng Amazonite gắng liền với Zodiac số 14 Nun (Scorpio). Nun đề cập
đến cuộc sống phổ quát, thay đổi liên tục nhưng luôn luôn giữ nguyên, giống như
dòng nước chảy. Có thể được hiểu là "móc câu" (để câu cá) và "bỏ
đi". Đó là một ký tự đôi khi được sử dụng làm chữ cái thay thế để ngụy
trang một cái tên. Theo nghĩa bí ẩn của nó, Nun đại diện cho Sự trung thành
vĩnh viễn và sự xuất hiện của linh hồn. Giống như linh hồn là một tia lửa của
Thiên Chúa, thì ơn của Thiên Chúa dành cho tất cả mọi người. Trong Liber 777,
nó được coi là chữa trị cho các biểu hiện bệnh tật ở ruột. Nó có tác dụng chữa
trị với các bệnh về ung thư.
Thuyết
Reiki (Linh Khí), dựa trên sự kết hợp của hệ thống Kinh Lạc trong Y
Thuật Trung Hoa, hệ thống Luân Xa trong Y Thuật Ấn Độ và thuyết Ngũ Hành trong
thạch học, dùng trong xoa bóp, ấn huyệt, được đề xuất bởi Mikao Usui năm 1922.
Nếu hệ thống luân xa thật sự ít khi được áp dụng trong Reiki thực hành, hệ
thống Kinh Lạc lại được sử dụng trong ấn huyệt rất rộng rãi. Kinh lạc là đường
khí huyết vận hành trong cơ thể, đường chính của nó gọi là kinh, nhánh của nó
gọi là lạc, kinh với lạc liên kết đan xen ngang dọc, liên thông trên dưới trong
ngoài, là cái lưới liên lạc toàn thân. Kinh lạc phân ra hai loại kinh mạch và
lạc mạch.Trong kinh mạch gồm chính kinh và kỳ kinh, chính kinh có mười hai sợi,
tả hữu đối xứng, tức thủ túc tam âm kinh và thủ túc tam dương kinh, gọi chung
mười hai kinh mạch, mỗi kinh thuộc một tạng hoặc một phủ. Kỳ kinh có tám sợi,
tức đốc mạch, nhâm mạch, xung mạch, đái mạch, âm duy mạch, dương duy mạch, âm
kiểu mạch, dương kiểu mạch. Thông thường nhắc đến mười hai kinh mạch và thêm
vào hai mạch nhâm đốc gọi chung mười bốn kinh mạch chính. Bệnh tật đều do sự
vận hành bế tắc của khí luân chuyển trong 12 kinh mạch này, nếu được khơi
thông, ắt sẽ hết bệnh tật. Y Tông Tâm Lĩnh bàn về Kinh Lạc nói, mười hai kinh
lạc, có Thủ thái âm phế kinh (手太阴肺经) thuộc về hành Kim, Thủ thiếu âm tâm kinh ( 手少阴心经) thuộc về hành Hỏa, Thủ quyết âm
tâm bào kinh (手厥阴心包经) thuộc về hành Hỏa, Thủ thiếu dương tam tiêu kinh (手少阳三焦经) thuộc về hành Hỏa, Thủ thái
dương tiểu tràng kinh (手太阳小肠经) thuộc về hành Hỏa, Thủ dương minh đại tràng kinh (手阳明大肠经) thuộc về hành Kim), Túc thái âm
tỳ kinh (足太阴脾经) thuộc về hành Thổ, Túc thiếu âm thận kinh (足少阴肾经) thuộc về hành Thủy, Túc quyết âm
can kinh (足厥阴肝经) thuộc về hành Mộc, Túc thiếu dương đảm kinh (足少阳胆经) thuộc về hành Mộc, Túc thái dương
bàng quang kinh (足太阳膀胱经) thuộc về hành Thủy, Túc dương minh vị kinh (足阳明胃经) thuộc về hành Thổ. Mỗi mạch lại
ứng những bệnh lý khác nhau. Cách sử dụng truyền thống là dùng đá phù hợp làm
thành cây ấn huyệt để trị liệu khơi thông kinh mạch, giống với châm cứu.
Ở Việt
Nam, hầu như không có tài liệu về môn này hoặc tài liệu về Reiki từng được xuất
bản, tuy nhiên, nhiều học giả cho biết đã từng có sách về môn này xuất bản
trước 1975 mà chúng tôi chưa có dịp khảo cứu được.
Amazonite màu lam trong hành Mộc và thuộc vào Kinh Túc Quyết Âm
Can, Kinh Túc Thiếu Dương Đởm. Kinh Túc Quyết Âm Can liên quan đến bệnh đầu
đau, đầu váng, mắt hoa, nhìn không rõ, tai ù, sốt cao, có thể co giật, đái dầm,
đái không lợi, ngực tức, nôn nấc, bụng trên đau, da vàng, ỉa lỏng, họng như bị
tắc, thoát vị, bụng dưới đau, ở hệ sinh dục, bàng quang, ruột, ngực, sườn, mắt.
Ví dụ như huyệt Lãi Câu (Huyệt Lạc nối với kinh thiếu dương Đởm) có tác dụng
đến đau cẳng chân, đai khó, đau tinh hoàn, kinh nguyệt không đều, khí hư, băng
huyết; huyệt Trung Đô (Huyệt Khích) có tác dụng đến đau bụng dưới, sưng tinh
hoàn, băng huyết, viêm bàng quang cấp, đái khó, đái buốt; huyệt Tất Quan có tác
dụng đau mặt trong khớp gối, mặt trong cẳng chân; huyệt Khúc Tuyền (Huyệt Hợp
thuộc Thủy) có tác dụng đau mặt trong khớp gối, mặt trong đùi, đau sưng tinh
hoàn, đau dương vật hoặc âm hộ, đau bụng dưới, đái khó, hoa mắt, đau mắt; huyệt
Âm Bao có tác dụng liên quan đến đau thắt lưng, đau bụng dưới, kinh nguyệt
không đều, tiểu tiện khó. Kinh Túc Thiếu Dương Đởm liên quan đến bệnh Sốt rét,
điếc, đau đầu, hàm đau, mắt đau, hố trên đòn sưng đau, nách sưng, lao hạch,
khớp háng và mặt ngoài chi dưới đau, phía ngoài bàn chân nóng, ngón chân thứ tư
vận động khó, Cạnh sườn đau, ngực đau, mồm đắng, nôn, Ở đầu, mặt, tai, mũi,
họng, ngực, sườn, sốt. Ví dụ như huyệt Bản Thần (Hội của kinh Thiếu dương ở
chân và mạch Dương duy) có tác dụng liên quan đến đau đầu, Hoa mắt, điên, kinh
phong; huyệt Dương Bạch (Hội của kinh Thiếu dương ở chân với kinh Dương minh ở
chân, tay và mạch Dương duy) có tác dụng liên quan đến đau đầu, đau mắt, mắt
nhiều dử, mắt mờ, sụp mi, mắt không nhắm được, quáng gà, loạn thị; huyệt Lâm
Khấp (Hội của kinh Thiếu dương, Thái dương ở chân và mạch Dương duy) có tác
dụng liên quan đến đau đầu, hoa mắt, chảy nước mắt, đau khóe mắt ngoài, kinh
phong.
Thuyết Bát Quái Kinh Dịch (Iching Therapy), mặc dù
được lấy từ lý thuyết của châu Á, nhưng việc áp dụng nó vào thạch lý học thì
lại do các nhà huyền học Nga, gần gũi với lý thuyết Thông Thiên Học, ra đời vào
những năm 1980. Ở Việt Nam, thuyết này ít được phát triển, đại diện chỉ có Ts
Hoàng Thế Ngữ, Chủ Tịch Hội Đá Quý Việt Nam, tốt nghiệp tại Nga, dùng trong
cuốn Đá Quý Việt Nam, nhưng chỉ dùng cấu trúc hình thái tinh hệ để luận. Cuốn
Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, tuy có dẫn ra phép Bát Quái, nhưng lại chỉ
dựa trên màu sắc của Ngũ Hành để luận. Cả hai đều rất sơ khai. Dựa vào hình
thái tinh hệ của tinh thể gồm tám loại, được phân định thành tám quái thuộc nội
quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập Phương (cubic) ứng Càn ,
Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam Phương (rhombohedral) ứng Ly, Lục
Phương (hexagonal) ứng Đoài, Tam Tà (triclinic) ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic)
ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic) ứng Tốn, Phi Tinh (noncrystallinic) ứng
Khôn. Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng khác: Lập Phương ứng Càn, Tam Tà
ứng Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn, Tam Phương-Tứ Phương-Lục Phương
ứng Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở đây chỉ trình bày thuyết của
Thông Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm tám màu, ứng với tám quái
thuộc ngoại quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính, đều nêu ra ở đây. Cụ thể
thuyết thứ nhất được trình bày trong I-ching: Binary Numbers, Astrology, And
Chakras, dựa trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng, Đoài ứng tím, Ly
ứng lam, Chấn ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ, Khôn ứng đen.
Thuyết thứ hai do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành ứng bát quái
cho rằng: Càn ứng dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn ứng cam,
Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề xuất dựa
trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam, Cấn
ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa
trên thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại quái tương ứng với hình dạng và màu
sắc của tinh thể, từ đó tính ra được quái trong 64 quái kinh dịch. Mỗi quái
kinh dịch lại ứng một bộ phận cơ thể theo y lý trong kinh dịch, phân thành 64
phần cơ thể.
Theo thuyết Bát Quái Kinh Dịch, đá Amazonite có màu lam tương ứng
quẻ ngoại quái Ly, có tinh hệ Tam Tà tương ứng quẻ nội quái Cấn, ghép lại chính
là quẻ quái số 56: quẻ Hỏa Sơn Lữ. Quái 56 ứng với vị trí mũi trong cơ thể. Vì
vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên quan đến hệ hô hấp như
viêm phế quảng, viêm phổi, lao, hen xuyễn, ho... Quẻ Hỏa Sơn Lữ có nghĩa Lữ là
ky lữ, núi đậu ở dưới, lửa bốc ở trên, là tượng “bỏ chỗ ngưng đậu không ở” cho
nên là lữ. Lấy hào Sáu Năm được chỗ giữa ở ngoài, mà thuận với hào Dương ở trên
và dưới Cấn đậu mà Ly thì bám vào chỗ sáng, cho nên lời chiêm của nó là thể nho
nhỏ hanh thông. Hành lữ không phải chỗ ở thường, hình như có thể cẩu thả, song
“đạo” không chỗ nào không ở, cho nên việc hành lữ cũng có chỗ chính của nó.],
người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy.
Thuyết Phật Giáo Mật Tông là phái phật giáo duy nhất có ứng dụng trong
Thạch Lý Học. Lý thuyết dựa trên hình ảnh của Ngũ Trí Như Lai và Tử Thư. Ngũ
Phật còn gọi là Ngũ Trí Như Lai, Ngũ Trí Phật, Ngũ Phương phật, hay còn được
gọi Ngũ Thiền Định Phật; là tên gọi chỉ năm vị Phật trong Mật Tông, lấy Đại
Nhật Như Lai làm chủ tôn, có sự khu biệt giữa Ngũ Phật giới Kim Cương và Ngũ
Phật giới Thai Tạng. Năm đức Phật này đại diện cho 5 phẩm chất của con người và
tạo ra sự tuyệt mỹ và hay nhất để phá bỏ những sai trái trong 5 phẩm chất đó. Mỗi
đức Phật là một con đường tuyệt diệu để đi đến cảnh giới Niết Bàn và Vô sanh.
Tu theo những vị đó sẽ mau chóng vào được cung điện Niết Bàn. Ngũ trí Như Lai
là 5 vị Phật tối cao của Phật giáo Tây Tạng. Năm vị phật này đại diện bởi năm
màu, gọi là Ngũ Sắc Trí (pancha-varna): Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairochana) đại
diện bởi màu trắng và tím, A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya) đại diện bởi màu lam và
đen, Bảo Sanh Như Lai (Ratnasambhava) đại diện bởi màu vàng và cam, A Di Đà Như
Lai (Amitabha) đại diện bởi màu đỏ và hồng, Bất Không Thành Tựu Như Lai
(Amoghasiddhi) đại diện bởi màu lục. Nitin Kumar căn cứ vào kinh điển
Chandamaharosana Tantra dẫn ra những quy tắc sử dụng màu săc trong mật tông,
đáng chú ý cho rằng: màu lam đại diện cho phẫn nộ tướng ứng vị trí tai, màu
vàng đại diện cho sinh dưỡng tướng ứng vị trí mũi, màu đỏ đại diện cho vô úy
tướng ứng miệng, màu lục đại diện cho uy đức tướng ứng vị trí đầu. Trong Tử Thư
Tây Tạng cũng tuyên về màu sắc tương ứng lục đạo: ánh sáng trắng là của cõi
trời, ánh sáng đỏ là của cõi Atula, ánh sáng lam là của cõi người, ánh sáng lục
là của cõi súc sanh, ánh sáng vàng là của cõi quỷ đói, ánh sáng xám là của cõi
địa ngục.
Ở Việt
Nam, thuyết này hầu như chưa bao giờ được nhắc đến trong các sách Thạch Lý Học
đã xuất bản. Tuy nhiên một số kinh sách về ngũ sắc trí đã được dịch và xuất bản
những năm gần đây như Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe Trong Bardo của Guru
Rinpoche, Những Giáo Pháp Bí Mật Của Tử Thư Tây Tạng của Detlef Ingo Lauf.
Đá Amazonite
có màu lam, là bổn sắc của A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya). Ngài là sự chuyển hóa
của sân hận thành từ bi. Màu lam và đen đại diện cho phẫn nộ tướng ứng với tai.
Đeo Amazonite sẽ được A Súc Bệ Như Lai Phật hộ trì, hỗ trợ về tai và sự điềm
tĩnh. Vì đây cũng là màu của cõi người, đá Amazonite được coi là bùa hộ về
thính dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về thính dục thông qua vị phật phẫn
nộ. Tử Thư cho rằng màu này cũng được hộ lãnh bởi Phật Tỳ Lô Giá Na và Phật Kim
Cương Tát Đỏa. Tử Thư nói về màu lam như sau: bầu trời hiện ra màu lam và chíng
giữa có đức Phật Tỳ Lô Giá na, tượng trưng cho sự thật tuyệt đối hay sự trong
sạch vô biên, xuất hiện. Từ tim của đức Phật Kim Cương Tát Đỏa, trên tấm vải
màu lam quang minh của Đại viên cảnh trí, sẽ xuất hiện một cái dĩa lam giống
như một cái chén màu lam ngọc, hướng mặt xuống, được trang hoàng bằng những cái
dĩa và những cái dĩa nhỏ hơn. Màu của hư không là màu lam và linh ảnh
xuất hiện lúc này là Phật Tỳ Lô Giá Na (Vairocana). Những người cần sự điềm
tĩnh hay sự thanh lọc những ý niệm bất hảo có thể dùng loại đá màu lam để giải
trừ.
Nơi tìm
thấy: Mỏ Amazonite cũng có ở Brazil, Ai Cập, Ấn Độ, Canada, Mông
Cổ, Na Uy, Hoa Kỳ và Nam Phi, trên bán đảo Kol’ski, vùng Trung Á và Ukraina.
Lời cảm
ơn: bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng
nghiệp: tiến sĩ Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ
(tp.HCM), nhà sưu tập Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên
Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments