Almandine
Almandine có màu đỏ sậm tương ứng với hành Hỏa, thuộc về Thủ thiếu âm tâm kinh, Thủ quyết âm tâm bào kinh. Trong đó, Kinh Thủ Thiếu Âm Tâm liên quan đến bệnh vai, mặt trong chi trên đau, gan tay nóng hoặc lạnh, mồm khô, khát muốn uống nước, đau mắt, đau vùng tim, nấc khan, sườn ngực đau tức, chứng thực thì phát cuồng, chứng hư thì bi ai, khiếp sợ, ở tim, ngực, tâm thần. Ví dụ như huyệt Cực Tuyền có tác dụng liên quan đến đau ngực sườn, đau tim, tay lạnh đau, cánh tay không giơ được, lao hạch; huyệt Thanh Linh có tác dụng liên quan đến đau vai và cánh tay, đau sườn ngực, mắt vàng; huyệt Thiếu Hải (Huyệt Hợp thuộc Thủy) có tác dụng liên quan đến Khuỷu tay co rút, tay tê dại, bàn tay run, đau vùng tim, đầu váng, mắt hoa, hay quên, cuồng, tràng nhạc; huyệt Linh Đạo (Huyệt Kinh thuộc Kim) có tác dụng liên quan đến đau cẳng tay, đau và co khuỷu tay, đau vùng tim, kinh sợ, mất tiếng đột ngột. Kinh Thủ Quyết Âm Tâm Bào liên quan đến các chứng mặt đỏ, nách sưng, cánh tay, khuỷu tay co quắp, gan tay nóng, đau vùng tim, bồn chồn, tức ngực sườn, tim đập thình thịch, cuồng, nói lảm nhảm, hôn mê, ở ngực, tim, dạ dày, bệnh tâm thần, sốt. Ví dụ như huyệt Thiên Trì (Hội của kinh Quyết âm ở tay, chân và Thiếu dương ở chân) có tác dụng liên quan đến Tức ngực, bồn chồn, đau sườn, nách sưng đau, tràng nhạc; huyệt Thiên Tuyền có tác dụng liên quan đến đau mặt trong cánh tay, Đau vùng trước tim, Đau ngực; huyệt Khúc Trạch (Huyệt Hợp thuộc Thủy) có tác dụng liên quan đến Đau sưng khuỷu tay, Đau cẳng tay, cánh tay, đau vùng tim, Mồm khô, phiền táo, chỉ ra mồ hôi ở đầu, nôn do cảm hàn hay thai nghén, thổ tả; huyệt Khích Môn (Huyệt Khích) có tác dụng liên quan đến Đau vùng trước tim có nôn mữa, tim đập hồi hộp, Ngũ tâm phiền nhiệt, tinh thần uể oải.
铁铝榴石 - Thiết Lữ Lựu Thạch
Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch
Lý Trị Liệu, Thạch Học Trị Liệu dịch từ chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi
Lạp cổ. Lithotherapy phân thành Litho đến từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là
đá, therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ] tức là chữa trị, lithotherapy
tức là chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với đá ở ngoài da. Lithotherapy là
một môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận huyền học và thần bí học. Mặc
dù có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả năng của nó, đã được ứng dụng
từ lâu trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại, nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi
bức màn bí mật của những điều thần kỳ giống như nền Đông Y của người Trung Quốc
hay Nam Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc biệt trình bày về
những lý luận căn bản trong Thạch Lý Học đối với Almandine, nằm trong chuỗi
khảo cứu, viết riêng cho tuần báo UNESCO.
Giới
thiệu:
Almandine
là biến thể cứng nhất và phổ biến nhất của Granat màu đỏ hoặc tím đỏ. Almandine
có thể có màu quả anh đào, màu quả mâm sôi, màu tím, thậm chí có màu nâu đỏ.
Sắc độ tùy thuộc vào lượng hợp chất sắt có trong khoáng vật. Almandine chỉ khác
Rubi có màu tương tự về độ cứng. Almandine màu đen rất hiếm gặp. Tên của khoáng
vật này được gọi theo từ “Alabanda”, tên một thành phố ở Tiểu Á, nơi mài dũa
loại đá này từ thời xa xưa. Theo giả thuyết khác, địa danh Alabanda chỉ là một
trạm trung chuyển của con đường buôn bán thuở xưa. Trong tiếng Hán đá Almandine
có tên là 铁铝榴石 trong
đó 铁 là thiết, 铝 là lữ, 榴 là
lựu, 石 là thạch nghĩa là viên đá chứa nhôm sắt màu đỏ lựu Thiết Lựu
Thạch (hoặc 贵榴石 – Quý Lựu Thạch). Đá được
dùng làm đồ kim hoàn được cho là Almadine loại trong suốt. Quân thập tự chinh
đeo nhẫn có nguồn gốc almandine để bảo vệ mình khỏi bị bệnh và thương tật. Từ
ngày xưa, loại đá này đã được ghi nhận là có khả năng giảm đau. Người nga thì
cho rằng, đá thuộc loại này trợ giúp phụ nữ mang thai khi sinh nở. Theo kinh Vệ
Đà Ấn Độ “Aurvela” nói rằng, loại đá này có tác dụng tốt đối với sự rối loạn
“vatta” và “capcha” ( rối loạn trao đổi chất). Nó kích hoạt cơ quan và mô sinh
sản, kích thích tuần hoàn máu và nâng cao tiêm năng. Theo thạch trị liệu học,
almandine giúp làm lành vết thương. Tính chất nhiệm màu: Anmandine cùng với
pirop là “đá lửa”. Nhiều dân tộc coi trọng almandine và ghi nhận tính màu nhiệm
của nó – có khả năng xua đuổi bất hành và đem lại hạnh phúc. ở Châu Âu là
bbieeur tượng của sự chân thành, thành thật, cởi mở. ở Ấn Độ - là biểu tượng
của tình yêu hòa bình.
Giới thiệu thuyết:
Giá trị
thạch lý học của Almandine được trình bày thành các thuyết cơ bản: thuyết Bản
mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học (Chromotherapy), thuyết Linh Khí
(Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy),
thuyết Tứ Trụ, thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves), thuyết Thái Lặc Mã
(Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết Hoa Giáp, thuyết Khí Tiết, thuyết Phật Giáo Mật Tông.
Thuyết
Đông Phương Bản Mệnh có nhiều
luận thuyết khác nhau. Theo phép tính theo năm, Phương Đông dựa trên Can
Chi, lập luận dựa trên ngũ hành, phối màu tạo nên bộ hoa giáp sắc pháp. Từ Giáp
Tý là sắc đỏ ban mai, chuyển dần cho đến Quý Hợi là sắc tím trời khuya, tạo nên
hơn 60 màu khác nhau. Theo phép tính theo tháng, người ta căn cứ vào địa chi
của tháng sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần, tháng 2 là Mão, tháng 3 là
Thìn, tháng 4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi, tháng 7 là Thân, tháng 8
là Dậu, tháng 9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu, cùng
phối hợp với ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Dần Mão thuộc Mộc
(ứng dùng đá có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ thuộc Hỏa (ứng dùng đá có
tông màu cam đỏ hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có tông màu trắng, xám,
ánh bạc), Tý Hợi thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu đen, chàm, tím), Thìn Mùi
Tuất Sửu thuộc Thổ (ứng dùng đá có tông màu vàng, trong, ánh kim). Thuyết về
tháng bản mệnh này được dùng nhiều rộng rãi vì đơn giản, dễ tính ra.
Ở Việt Nam, cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh đều có nói đến thuyết này. Tuy nhiên, sự phân định màu sắc và ngũ hành không giống nhau. Ví dụ như Ts Hoàng Thế Ngữ trong cuốn Đá Quý Việt Nam đưa ra Hỏa ứng màu đỏ, Thủy ứng màu xanh, Thổ ứng màu nâu, Mộc ứng màu lục, Kim ứng màu vàng trắng đen. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định khác Hỏa ứng màu đỏ hồng tím, Thủy ứng màu đen sẫm, Thổ ứng vàng nâu, Mộc ứng lam lục, Kim ứng trắng bạc.
Thuyết Bản Mệnh phương đông xếp loại đá này vào năm Giáp Tí, thuộc Mộc Cục, về Dương Phần. Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Giáp Tí sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu đỏ ngã đen, thuộc về hành Thủy, ứng về tháng Tý Hợi, tức tháng 10,11.
Ở Việt Nam, cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh đều có nói đến thuyết này. Tuy nhiên, sự phân định màu sắc và ngũ hành không giống nhau. Ví dụ như Ts Hoàng Thế Ngữ trong cuốn Đá Quý Việt Nam đưa ra Hỏa ứng màu đỏ, Thủy ứng màu xanh, Thổ ứng màu nâu, Mộc ứng màu lục, Kim ứng màu vàng trắng đen. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định khác Hỏa ứng màu đỏ hồng tím, Thủy ứng màu đen sẫm, Thổ ứng vàng nâu, Mộc ứng lam lục, Kim ứng trắng bạc.
Thuyết Bản Mệnh phương đông xếp loại đá này vào năm Giáp Tí, thuộc Mộc Cục, về Dương Phần. Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Giáp Tí sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu đỏ ngã đen, thuộc về hành Thủy, ứng về tháng Tý Hợi, tức tháng 10,11.
Thuyết Tây
Phương Bản Mệnh là thuyết rất cơ bản của Thạch Lý
Học Phương Tây, dựa trên Cung Hoàng Đạo, mười hai cung mỗi cung chủ chế một
màu, tùy vào ngày bản sinh mà màu sắc đậm nhạt khác nhau theo thời gian, từ đó
luận về đá bản sinh (Birthstones) được dùng nhiều trong văn hóa phương tây. Mặc
dù vậy, hầu hết các tài liệu đều xếp tương đối bất đồng, từ thế kỷ 16 trở đi,
hầu hết không được thống nhất. Ở đây, chỉ trích dẫn những quan điểm được công
nhận rộng rãi. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo tháng như sau:
tháng một màu đỏ cam, tháng hai màu tím tươi, tháng ba màu xanh lam, tháng tư
màu trắng trong, tháng năm màu lục đen, tháng sáu màu trắng đục, tháng bảy màu
đỏ tươi, tháng tám màu xanh chuối, tháng chín màu xanh lá, tháng mười màu đen,
tháng mười một màu vàng, tháng mười hai màu chàm. Thuyết Bản Mệnh phương tây
được định nghĩa theo hoàng đạo như sau: Bạch Dương màu xanh đen, Kim Ngưu màu
xanh dương đậm, Song Tử màu trắng trong, Cự Giải màu xanh lá mạ, Sư Tử màu đen,
Xử Nữ màu cam, Thiên Bình màu lục nhạt, Thiên Yết màu lam, Nhân Mã màu vàng, Ma
Kết màu đỏ tươi, Bảo Bình màu đỏ sậm, Song Ngư màu tím. Thuyết bản mệnh Phương
Tây được ứng dụng rộng rãi trong đời sống từ thế kỷ 18, có tương đối nhiều các
dị biệt tùy vào sách.
Ở Việt Nam, thuyết này cũng được sử dụng khá nhiều, nhưng không hiểu vì sao trong tất cả các cuốn Thạch Lý Học của Việt Nam, ngoại trừ cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc và cuốn Tất Cả Về Khoáng Vật Chữa Bệnh Mầu Nhiệm (dịch của Jasper Stones của Nga), đều không nhắc đến thuyết này.
Đá này màu đen huyết được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng mười, mùa đông và xếp vào đá bản mệnh của cung Sư Tử, thuộc hệ Lửa. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 24 tháng 7 đến 23 tháng 8 hằng năm, hoặc vào tháng 8 thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này.
Ở Việt Nam, thuyết này cũng được sử dụng khá nhiều, nhưng không hiểu vì sao trong tất cả các cuốn Thạch Lý Học của Việt Nam, ngoại trừ cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc và cuốn Tất Cả Về Khoáng Vật Chữa Bệnh Mầu Nhiệm (dịch của Jasper Stones của Nga), đều không nhắc đến thuyết này.
Đá này màu đen huyết được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng mười, mùa đông và xếp vào đá bản mệnh của cung Sư Tử, thuộc hệ Lửa. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 24 tháng 7 đến 23 tháng 8 hằng năm, hoặc vào tháng 8 thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này.
Thuyết
Quang Lý Học (Chromatherapy) được ra đời rất lâu từ giả kim thuật, nhưng
chính thức định hình đặt tên bởi tiến sĩ Christian Agrapart. Thạch Lý Học sử
dụng lại thuật ngữ này, nhưng không sử dụng liệu pháp ánh sáng như Agrapart mà
lý luận dựa trên màu của loại đá. Nó gồm một phần nghiên cứu về màu sắc trong y
học của Agrapart và một phần nghiên cứu về màu sắc trong tâm lý học. Màu sắc
trong tâm lý học đã được nghiên cứu lâu đời như bảng phân chia màu sắc và tâm
trạng "rose of temperaments" (Temperamenten Rose) của Goethe và
Schiller (1798). Nhưng nghệ thuật này chỉ thăng hoa nhờ nghiên cứu của Carl
Jung khi ghép tính biểu tượng của màu sắc vào tâm lý con người. Từ đó, những
người nghiên cứu sau này sử dụng sự tương ứng màu sắc đó trong viên đá và đặt
nền tảng lý thuyết cho Thạch Lý Học. Dựa vào bảng màu sắc đó, cho phép gợi ý
đến tác động chữa bệnh hoặc lên tinh thần con người.
Ở Việt Nam, thuyết Quang Lý Học này cũng được sử dụng rộng rãi. Hầu hết các sách đều có đề cập trừ cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Trong đó cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh có thể coi là chi tiết nhất về thuyết này.
Thuyết Quang Lý Học (Chromatherapy) cho rằng màu đỏ sậm tượng trưng cho lòng can đảm và những thử thách điều đó có nghĩa nó giúp tăng cường sự tự tin, dũng cảm, quả quyết. Song song đó nó sẽ có tác dụng hỗ trợ niềm tin, đặc biệt dành cho người có tính mềm yếu, hay sợ hãi. Trong Rôma Cổ đại, tím Tyrian là màu của Hoàng đế, nhưng màu đỏ có một vị trí biểu tượng tôn giáo quan trọng. Trong huyền thoại La Mã màu đỏ có liên quan đến thần chiến tranh, Mars. Ở Ai Cập cổ đại, màu đỏ liên quan đến cuộc sống, sức khoẻ và chiến thắng. Người Ai Cập sẽ phủ mầu đỏ lên cơ thể họ trong các lễ kỷ niệm. Thời Phục hưng, Quần áo màu đỏ là dấu hiệu của địa vị và sự giàu có. Loại đá này dành cho những người có các ngành nghề liên quan đến sự nguy hiểm như cứu hỏa, bộ đội, cứu hộ, hoặc những người đi phiêu lưu nhằm tăng khả năng dũng cảm.
Ở Việt Nam, thuyết Quang Lý Học này cũng được sử dụng rộng rãi. Hầu hết các sách đều có đề cập trừ cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Trong đó cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh có thể coi là chi tiết nhất về thuyết này.
Thuyết Quang Lý Học (Chromatherapy) cho rằng màu đỏ sậm tượng trưng cho lòng can đảm và những thử thách điều đó có nghĩa nó giúp tăng cường sự tự tin, dũng cảm, quả quyết. Song song đó nó sẽ có tác dụng hỗ trợ niềm tin, đặc biệt dành cho người có tính mềm yếu, hay sợ hãi. Trong Rôma Cổ đại, tím Tyrian là màu của Hoàng đế, nhưng màu đỏ có một vị trí biểu tượng tôn giáo quan trọng. Trong huyền thoại La Mã màu đỏ có liên quan đến thần chiến tranh, Mars. Ở Ai Cập cổ đại, màu đỏ liên quan đến cuộc sống, sức khoẻ và chiến thắng. Người Ai Cập sẽ phủ mầu đỏ lên cơ thể họ trong các lễ kỷ niệm. Thời Phục hưng, Quần áo màu đỏ là dấu hiệu của địa vị và sự giàu có. Loại đá này dành cho những người có các ngành nghề liên quan đến sự nguy hiểm như cứu hỏa, bộ đội, cứu hộ, hoặc những người đi phiêu lưu nhằm tăng khả năng dũng cảm.
Thuyết
Luân Xa (Chakra) được trình bày trong trào lưu Thời Đại Mới (New
Age) bởi các lãnh tụ Thông Thiên Học như Johann Georg Gichtel, hoặc Yoga như
Swami Sivananda. Vẫn vận dụng chủ yếu là màu sắc của viên đá, được dịch nghĩa
theo hình ảnh các luân xa trong văn hóa Ấn Độ trong Áo Nghĩa Thư. Từ nguyên
thủy trong tiếng Sanskrit cakra mang ý nghĩa là "bánh xe" hay
"vòng tròn", các luân xa được miêu tả như là xếp thành một cột thẳng
từ gốc của cột sống lên đến đỉnh đầu, liên quan tới một số chức năng tâm sinh
lý, một khía cạnh của nhận thức, đánh dấu bởi một màu sắc nào đó. Chúng thường
được hình tượng hóa bằng các hoa sen với số cánh khác nhau cho mỗi luân xa. Các
luân xa được cho là đem lại năng lượng cho cơ thể và có liên quan đến các phản
ứng của cơ thể, tình cảm hay tâm lý của một người, là các điểm chứa năng lượng
sống (prana, cũng được gọi là shakti) lưu chuyển giữa các điểm đó dọc theo các
đường chảy (gọi là nadis). Chức năng của các chakra là xoay tròn để thu hút vào
năng lượng sống từ viên đá để giữ cân bằng cho sức khỏe về tâm linh, tâm lý, tình
cảm và sinh lý của cơ thể.
Ở Việt Nam, thuyết Luân Xa được biết đến rộng rãi nhất trong số các thuyết về thạch lý học. Tất cả các sách đều có đề cập đến thuyết này trừ cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Sự nhận định cũng ít nhiều sai khác. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định Luân xa gốc ứng màu đỏ đen, luân xa xương cùng ứng màu cam phấn hồng, luân xa thái dương ứng màu vàng, luân xa tim ứng màu xanh lá, luân xa họng ứng màu xanh lam, luân xa trán ứng màu chàm tím, luân xa vương miện ứng màu trắng và tím nhạt.
Luân Xa (Chakra) cho rằng loại đá này Màu đỏ tượng trưng cho luân xa gốc Muladhara (hoa sen bốn cánh). Nó được tượng trưng bởi một hoa sen màu đỏ, bốn cánh hoa với một hình vuông màu vàng ở giữa. Mỗi cánh hoa có một âm tiết tiếng, đại diện cho bốn vrittis hay ý thức: niềm vui lớn nhất, niềm vui tự nhiên, sự hân hoan trong việc kiểm soát sự đam mê, và hạnh phúc trong sựu tập trung. Nói cách khác, chúng có thể đại diện cho dharma (khát vọng tâm linh trong linh hồn), artha (khát vọng tâm linh), kama (khát vọng thể xác) và moksha (khát vọng giải phóng tinh thần). Tám mũi tên hướng ra từ các cạnh và góc của hình vuông. Nó được tượng trưng bởi một hoa sen với bốn cánh hoa và màu đỏ. Muladhara được cho là nền tảng mà từ đó ra ba kênh tâm linh chính hoặc hiện lên mạch máu: Ida, Pingala và Sushumna. Người ta cũng tin rằng Muladhara là nơi ở tinh tế của Thần Ganapati của Hindu. Loại đá này giúp tăng cường bản năng, thể chất, sinh tồn. Đặt viên đá ở vị trí ngay giữa bộ phận sinh dục và hậu môn, nơi được coi là vị trí của luân xa. Nó có tác động cơ quan sinh sản, hậu môn, tuyến thượng thận, buồng trứng, tinh trùng, tinh hoàn. Thế nên nó có tác dụng cải thiện cho những người hiếm muộn hoặc thiếu khả năng sinh tồn (yếu đuối hoặc thể trạng kém) và sinh sản (vô sinh). Dành cho những người hoạt động trong môi trường cần yếu tố thể chất như công nhân, nông dân, bốc vác,... hoặc liên quan đến ngành thể thao như vận động viên, nhân viên hướng dẫn phục hồi thể lực,....
Ở Việt Nam, thuyết Luân Xa được biết đến rộng rãi nhất trong số các thuyết về thạch lý học. Tất cả các sách đều có đề cập đến thuyết này trừ cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Sự nhận định cũng ít nhiều sai khác. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định Luân xa gốc ứng màu đỏ đen, luân xa xương cùng ứng màu cam phấn hồng, luân xa thái dương ứng màu vàng, luân xa tim ứng màu xanh lá, luân xa họng ứng màu xanh lam, luân xa trán ứng màu chàm tím, luân xa vương miện ứng màu trắng và tím nhạt.
Luân Xa (Chakra) cho rằng loại đá này Màu đỏ tượng trưng cho luân xa gốc Muladhara (hoa sen bốn cánh). Nó được tượng trưng bởi một hoa sen màu đỏ, bốn cánh hoa với một hình vuông màu vàng ở giữa. Mỗi cánh hoa có một âm tiết tiếng, đại diện cho bốn vrittis hay ý thức: niềm vui lớn nhất, niềm vui tự nhiên, sự hân hoan trong việc kiểm soát sự đam mê, và hạnh phúc trong sựu tập trung. Nói cách khác, chúng có thể đại diện cho dharma (khát vọng tâm linh trong linh hồn), artha (khát vọng tâm linh), kama (khát vọng thể xác) và moksha (khát vọng giải phóng tinh thần). Tám mũi tên hướng ra từ các cạnh và góc của hình vuông. Nó được tượng trưng bởi một hoa sen với bốn cánh hoa và màu đỏ. Muladhara được cho là nền tảng mà từ đó ra ba kênh tâm linh chính hoặc hiện lên mạch máu: Ida, Pingala và Sushumna. Người ta cũng tin rằng Muladhara là nơi ở tinh tế của Thần Ganapati của Hindu. Loại đá này giúp tăng cường bản năng, thể chất, sinh tồn. Đặt viên đá ở vị trí ngay giữa bộ phận sinh dục và hậu môn, nơi được coi là vị trí của luân xa. Nó có tác động cơ quan sinh sản, hậu môn, tuyến thượng thận, buồng trứng, tinh trùng, tinh hoàn. Thế nên nó có tác dụng cải thiện cho những người hiếm muộn hoặc thiếu khả năng sinh tồn (yếu đuối hoặc thể trạng kém) và sinh sản (vô sinh). Dành cho những người hoạt động trong môi trường cần yếu tố thể chất như công nhân, nông dân, bốc vác,... hoặc liên quan đến ngành thể thao như vận động viên, nhân viên hướng dẫn phục hồi thể lực,....
Thuyết Hoa
Giáp dựa trên lý học phương đông, canh theo can chi bản mệnh của
một người theo ngày tháng năm sinh, rồi tính sự xung khắc hay tương hợp trong
ngũ hành. Từ đó đưa ra nguyên tắc vận dụng trong thạch học, nhờ vào ngũ hành
trong khoáng thạch đối chế lại với bản mệnh, nhằm điều hòa bản thân. Thuyết Ngũ
Hành quy định theo thiên can: Giáp Ất thuộc Mộc, Bính Đinh thuộc Hỏa, Mậu Kỷ
thuộc Thổ, Canh Tân thuộc Kim, Nhâm Quý thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành quy định
theo địa chi: Dần Mão thuộc Mộc, Ngọ Mùi thuộc Hỏa, Thân Dậu thuộc Kim, Hợi Tý
thuộc Thủy, Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ. Từ thiên can, địa chi, quy định nên
phối hành của bản mệnh: Mậu Thìn thuộc về Thổ phối Thổ,… Khoáng thạch được phân
theo ngũ hành dựa trên màu sắc và hình dạng. Thuyết Ngũ Hành quy định màu sắc:
Lục và Lam thuộc Mộc, Đỏ và Cam thuộc Hỏa, Vàng và Trong thuộc Thổ, Trắng và
Xám thuộc Kim, Đen và Tím thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành quy định theo thể dạng:
trụ và dài thuộc Mộc, nhọn và góc thuộc Hỏa, vuông và cân thuộc Thổ, cong và
tròn thuộc Kim, uốn và lượn thuộc Thủy. Từ đó suy ra được phối hành của khoáng
thạch: ví dụ Huyền Thiết Thạch (Hematite) đen có thể dạng khối tròn
(Botryoidal) được xem là Thủy phối Kim. Thuyết Ngũ Hành quy định tương sinh như
sau: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.
Thuyết Ngũ Hành quy định tương khắc như sau: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy
khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc. Dựa vào tương sinh tương khắc của Ngũ
Hành để khắc chế hay phù trợ cho bản mệnh thông qua việc đeo những khoáng thạch
khác nhau trên cơ thể.
Ở Việt Nam, thuyết Hoa Giáp (Ngũ Hành Can Chi) được trình bày trong hầu hết các sách về Thạch Lý Học, nhưng hầu hết chỉ dừng lại ở lý luận về màu sắc theo ngũ hành. Cá biệt có cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm là có nhắc đến thuyết này ứng dụng lý luận lên hình dạng của tinh thể, tuy nhiên không có khai triển đầy đủ. Thuyết này các phái đạo gia phong thủy khai thác và phát triển rất hoàn chỉnh, được trình bày tóm tắt như bên trên đây.
Thuyết Hoa Giáp cho rằng Thiết Lựu Thạch thuộc về Hỏa (đỏ) phối Thổ (cân), tức Hỏa Cục. Do đó, Thiết Lựu Thạch giúp khắc chế các bản mệnh Mộc-Thổ như Giáp Thìn, Giáp Tuất, Ất Mùi, Ất Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Thiết Lựu Thạch cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Thổ (Hỏa sinh Thổ), gồm có mệnh thuộc Hỏa-Thổ và thuần Thổ: Mậu Ngọ, Kỷ Tỵ, Bính Thìn, Bính Tuất, Đinh Mùi, Đinh Sửu, Mậu Thìn, Mậu Tuất, Kỷ Mùi, Kỷ Sửu, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại ngọc này.
Ở Việt Nam, thuyết Hoa Giáp (Ngũ Hành Can Chi) được trình bày trong hầu hết các sách về Thạch Lý Học, nhưng hầu hết chỉ dừng lại ở lý luận về màu sắc theo ngũ hành. Cá biệt có cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm là có nhắc đến thuyết này ứng dụng lý luận lên hình dạng của tinh thể, tuy nhiên không có khai triển đầy đủ. Thuyết này các phái đạo gia phong thủy khai thác và phát triển rất hoàn chỉnh, được trình bày tóm tắt như bên trên đây.
Thuyết Hoa Giáp cho rằng Thiết Lựu Thạch thuộc về Hỏa (đỏ) phối Thổ (cân), tức Hỏa Cục. Do đó, Thiết Lựu Thạch giúp khắc chế các bản mệnh Mộc-Thổ như Giáp Thìn, Giáp Tuất, Ất Mùi, Ất Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Thiết Lựu Thạch cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Thổ (Hỏa sinh Thổ), gồm có mệnh thuộc Hỏa-Thổ và thuần Thổ: Mậu Ngọ, Kỷ Tỵ, Bính Thìn, Bính Tuất, Đinh Mùi, Đinh Sửu, Mậu Thìn, Mậu Tuất, Kỷ Mùi, Kỷ Sửu, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại ngọc này.
Thuyết Khí
Tiết, dựa trên Ngũ Hành và sự vận hành của Khí Tiết tác động lên con
người. Khí Tiết và Bản Mệnh không hòa hợp, tất sinh ra bệnh tật đau yếu. Bệnh
tật chính là do tinh khí huyết trong cơ thể bị tổn mà nên, trong là lục phủ ngũ
tạng, ngoài là thân thể tứ chi, đều có liên quan đến ngũ hành tương sinh tương
khắc. Nếu can chi ngũ hành quá vượng, trong khi khí tiết bất hòa, tất nhiên gây
bệnh cho người. Y lý phương đông nói về Thiên Can: Giáp chủ Gan, Ất chủ Mật,
Bính chủ Ruột, Đinh chủ Tim, Mậu chủ dạ dày, Kỷ chủ Lách, Canh chủ ruột già,
Tân chủ Phổi, Nhâm chủ Bàng Quang, Quý chủ Thận. Y Lý Phương Đông nói về Địa
Chi: Tý bệnh về Sa Mang, Sửu bệnh về Bụng, Dần bệnh về Chân, Mão bệnh về Mắt,
Thìn bệnh về Lưng, Tỵ bệnh về Mặt, Ngọ bệnh về Tim, Mùi bệnh về Ngực, Thân bệnh
về Cổ, Dậu bệnh về Phổi, Hợi bệnh về Da. Sự hương thịnh hay suy tàn của ngũ
hành trong khí tiết của thiên can địa chi đều có quan hệ. Người sinh vào bản
mệnh Mộc quá vượng, tự khắc tỳ vị có bệnh, nếu nhằm ngay lúc ngày tháng thuộc
về khắc tinh của Mộc thì bệnh phát.
Ở Việt Nam, thuyết Khí Tiết được trình bày tương đối cụ thể trong cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Các cuốn Thạch Lý Học khác hầu như không nhắc đến thuyết này.
Thuyết Ngũ Hành Khí Tiết nói, người có mệnh cục Thổ (sinh vào ngày Mậu-Kỷ, Thìn-Mùi-Tuất-Sửu) gặp vào những ngày thuộc hành Mộc (như ngày Giáp-Ất, Dần-Mão) thì , bởi Thổ khắc Mộc, mật và dạ dày dễ tổn thương, biểu hiện lên cơ thể là bị nấc cục, đau dạ dày, tiêu chảy, hoàng thũng, khó nuốt, chán ăn, buồn nôn. Bên ngoài sẽ biểu hiện ra da khô, tay phải mỏi. Trẻ nhỏ bị suy dinh dưỡng, vàng lá lách. Đặc tính của Thổ là ẩm ướt, dễ bị chìm, sắc mặt vàng vọt. Sách mệnh lý nói: Thổ tại Mộc vượng, lá lách tổn thương. Muốn khắc chế, phải lấy Hỏa giải độc, Thiết Lựu Thạch thuộc Hỏa, có tác dụng tốt với thể trạng người Thổ cục (Hỏa sinh Thổ), đề phòng cho những ngày Mộc thịnh (Giáp-Ất, Dần-Mão) hay tháng hành Mộc như tháng giêng và tháng hai. Người đeo đá Thiết Lựu Thạch, có thể dùng Hỏa khắc chế được Mộc hại.
Ở Việt Nam, thuyết Khí Tiết được trình bày tương đối cụ thể trong cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Các cuốn Thạch Lý Học khác hầu như không nhắc đến thuyết này.
Thuyết Ngũ Hành Khí Tiết nói, người có mệnh cục Thổ (sinh vào ngày Mậu-Kỷ, Thìn-Mùi-Tuất-Sửu) gặp vào những ngày thuộc hành Mộc (như ngày Giáp-Ất, Dần-Mão) thì , bởi Thổ khắc Mộc, mật và dạ dày dễ tổn thương, biểu hiện lên cơ thể là bị nấc cục, đau dạ dày, tiêu chảy, hoàng thũng, khó nuốt, chán ăn, buồn nôn. Bên ngoài sẽ biểu hiện ra da khô, tay phải mỏi. Trẻ nhỏ bị suy dinh dưỡng, vàng lá lách. Đặc tính của Thổ là ẩm ướt, dễ bị chìm, sắc mặt vàng vọt. Sách mệnh lý nói: Thổ tại Mộc vượng, lá lách tổn thương. Muốn khắc chế, phải lấy Hỏa giải độc, Thiết Lựu Thạch thuộc Hỏa, có tác dụng tốt với thể trạng người Thổ cục (Hỏa sinh Thổ), đề phòng cho những ngày Mộc thịnh (Giáp-Ất, Dần-Mão) hay tháng hành Mộc như tháng giêng và tháng hai. Người đeo đá Thiết Lựu Thạch, có thể dùng Hỏa khắc chế được Mộc hại.
Thuyết Tứ
Trụ có thể ứng dụng từ Bát Tự trong Thuyết Tứ Trụ để bổ cứu, dựa
vào màu của đá để tương hỗ lấy mệnh. Chủ yếu dựa vào thiên can, lấy âm dương và
ngũ hành của thiên can để tính lấy bốn phép Kiêu Ấn, Thực Thương, Tỷ Kiếp, Quan
Sát và Tài, dụng vào địa chi mà thành Thập Thần. Từ đó luận ra được Nhật Can và
Nguyệt Lệnh, dựa vào sự phối hợp của nó trong sinh thời mà dự biết lợi yếu của
bản mệnh. Biết được lợi yếu của bản mệnh rồi, mới dùng ngũ hành trong đá ngọc
mà điều hòa. Có sách viết: Nhật Can mạnh yếu cần có sự tương trợ của Nguyệt
Lệnh. Trong trường hợp không có Nguyệt Lệnh hỗ trợ, các can chi trong trụ liền
suy yếu. Có thể dùng phương pháp đá phong thủy để bổ cứu, điều hậu cho Nhật Can.
Ở Việt Nam, thuyết Tứ Trụ được sử dụng cực kỳ nhiều, tất cả các sách Thạch Lý Học tại Việt Nam đều có dẫn xuất như cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh , cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc. Tuy nhiên, có khá nhiều sai biệt giữa các sách với nhau về cách tính, điều này cũng dễ hiểu vì đây là ứng dụng tùy thuộc vào cách luận Tứ Trụ. Ở đây chỉ giữ lại một thuyết để thống nhất là sử dụng sách của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm.
Theo thuyết Tứ Trụ, đá ngọc thuộc mệnh Hỏa rất hạp với mệnh Mộc sinh vào ngày xuân,được nguyệt lệnh mà phần lớn là thân mạnh,vì vừa qua mùa đông lạnh,có chút lạnh lẽo,mượn Hỏa sưởi ấm cơ thể tự do phát triển vươn xa, có Thủy nuôi dưỡng sẽ sinh trưởng nhanh. Tóm lại, Mộc mùa xuân tốt nhất nên có Thủy, Hỏa đến điều hòa mới phát triển tốt. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Mộc sinh mùa thu,thông thường không được sự trợ giúp của nguyệt lệnh, Kim nặng quay quanh, phần lớn thuộc thân yếu. Nếu là Mộc mùa suy yếu, ưa được Hỏa tiết, Thổ dưỡng, Kim khắc không ưa Thủy đến tương trợ. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Hỏa sinh mùa thu. Hỏa mùa thu phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh mới có thể thịnh vượng, chuyển nguy thành yên bình đồng thời đạt được tài lợi, sẽ không bị khốn đốn. Nếu gặp Hỏa đến phù trì, có thể phát huy tài cáng, dựa vào nổ lực của bản thân có thể được thù lao xứng đáng. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Hỏa sinh mùa đông. Hỏa mùa đông phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh, nếu không Thủy vượng sẽ tiêu diệt Hỏa, mãi mãi khó có thể đứng dậy. Hỏa mùa đông thân yếu có Hỏa đến giúp thì Tỷ Kiếp khác Tài tinh, có thể nhìn thấy tiền tài phát triển thịnh vượng, nhưng duyên với vợ bạc, quan hệ không thân mật, hoặc vợ có tình trạng sức khỏe không tốt. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Thổ sinh mùa xuân. Mùa xuân thì Mộc tư lệnh đương quyền, Thổ ở chỗ tử tuyệt, hư phù không có lực, ưa Hỏa đến sinh trợ, kỵ Mộc đến khắc. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Thổ sinh mùa đông. Mùa đông, bên ngoài lạnh, bên trong ấm. Hỏa nhiều mà thịnh vượng thì quý khí hiển vinh. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa xuân. Mùa xuân, do vừa qua mùa đông vẫn còn chút khí lạnh, do đó Kim cần Hỏa sưởi ấm mới có thể loại bỏ khí lạnh mà được phú quý. Nếu Mộc thịnh vượng, Kim sẽ chịu tổn thương. Lúc này cần Kim đến phù trì. Nếu là thiếu Hỏa sưởi ấm thì Kim không thể phát huy tác dụng. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa thu. Mùa thu vừa đúng là Kim tư lệnh đương quyền, do đó Kim lúc này tốt nhất có Hỏa luyện chế mới có thể làm thành vật quý. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa đông. Kim của mùa đông có tính chất hàn lạnh, nếu Mộc nhiều cũng không thể điêu khắc mà tái hiện công hiệu của Kim.
Ở Việt Nam, thuyết Tứ Trụ được sử dụng cực kỳ nhiều, tất cả các sách Thạch Lý Học tại Việt Nam đều có dẫn xuất như cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh , cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc. Tuy nhiên, có khá nhiều sai biệt giữa các sách với nhau về cách tính, điều này cũng dễ hiểu vì đây là ứng dụng tùy thuộc vào cách luận Tứ Trụ. Ở đây chỉ giữ lại một thuyết để thống nhất là sử dụng sách của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm.
Theo thuyết Tứ Trụ, đá ngọc thuộc mệnh Hỏa rất hạp với mệnh Mộc sinh vào ngày xuân,được nguyệt lệnh mà phần lớn là thân mạnh,vì vừa qua mùa đông lạnh,có chút lạnh lẽo,mượn Hỏa sưởi ấm cơ thể tự do phát triển vươn xa, có Thủy nuôi dưỡng sẽ sinh trưởng nhanh. Tóm lại, Mộc mùa xuân tốt nhất nên có Thủy, Hỏa đến điều hòa mới phát triển tốt. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Mộc sinh mùa thu,thông thường không được sự trợ giúp của nguyệt lệnh, Kim nặng quay quanh, phần lớn thuộc thân yếu. Nếu là Mộc mùa suy yếu, ưa được Hỏa tiết, Thổ dưỡng, Kim khắc không ưa Thủy đến tương trợ. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Hỏa sinh mùa thu. Hỏa mùa thu phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh mới có thể thịnh vượng, chuyển nguy thành yên bình đồng thời đạt được tài lợi, sẽ không bị khốn đốn. Nếu gặp Hỏa đến phù trì, có thể phát huy tài cáng, dựa vào nổ lực của bản thân có thể được thù lao xứng đáng. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Hỏa sinh mùa đông. Hỏa mùa đông phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh, nếu không Thủy vượng sẽ tiêu diệt Hỏa, mãi mãi khó có thể đứng dậy. Hỏa mùa đông thân yếu có Hỏa đến giúp thì Tỷ Kiếp khác Tài tinh, có thể nhìn thấy tiền tài phát triển thịnh vượng, nhưng duyên với vợ bạc, quan hệ không thân mật, hoặc vợ có tình trạng sức khỏe không tốt. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Thổ sinh mùa xuân. Mùa xuân thì Mộc tư lệnh đương quyền, Thổ ở chỗ tử tuyệt, hư phù không có lực, ưa Hỏa đến sinh trợ, kỵ Mộc đến khắc. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Thổ sinh mùa đông. Mùa đông, bên ngoài lạnh, bên trong ấm. Hỏa nhiều mà thịnh vượng thì quý khí hiển vinh. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa xuân. Mùa xuân, do vừa qua mùa đông vẫn còn chút khí lạnh, do đó Kim cần Hỏa sưởi ấm mới có thể loại bỏ khí lạnh mà được phú quý. Nếu Mộc thịnh vượng, Kim sẽ chịu tổn thương. Lúc này cần Kim đến phù trì. Nếu là thiếu Hỏa sưởi ấm thì Kim không thể phát huy tác dụng. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa thu. Mùa thu vừa đúng là Kim tư lệnh đương quyền, do đó Kim lúc này tốt nhất có Hỏa luyện chế mới có thể làm thành vật quý. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa đông. Kim của mùa đông có tính chất hàn lạnh, nếu Mộc nhiều cũng không thể điêu khắc mà tái hiện công hiệu của Kim.
Thuyết Vi
Lượng Trị Liệu (Oligotherapy) đề xuất bởi bác sĩ Jacques Ménétrier và
Gabriel Bertrand, vào giữa thế kỷ 20. Những người thực hành Thạch Lý Học áp
dụng lý thuyết này trong việc trị liệu thông qua cơ sở giống như Thuyết Vi
Lượng Đồng Căn (Homeopathy) của Samuel Hahnemann. Christian Friedrich Samuel
Hahnemann (1755-1843), một nhà vật lý học, hóa học và y học người Đức, đã đưa
ra một lý thuyết liên quan đến sự quan hệ yếu tố trong chứng và chất của cơ thể
người, sau này phát triển thành hệ thống Vi Lượng Đồng Căn. Mỗi vi lượng trong
đá được cho là sẽ tác động đến vi lượng tương ứng trong cơ thể người, và nhờ đó
bộ phận chứa vi lượng đó được chữa khỏi. Mỗi viên đá, bằng vi lượng chứa trong
nó, được tin là sẽ tác động lên phần sinh lý cơ thể, giúp gợi ý cho việc chữa
bệnh hoặc tác động lên tinh thần. Trong thành phần của Ngọc Đông Linh
(Aventurine) ngoài thành phần chính Thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy) cho
rằng thành phần Silic trong thạch anh có tác dụng trị liệu. Trong cơ thể con
người, silic chiếm chỉ số năng lượng (MASS) là 0,0023, vì vậy nó tác động tích
cực cho sức khỏe, mặc dù, tác dụng không rõ ràng ở chứng bệnh hay vị trí nào
của cơ thể.
Ở Việt Nam, thuyết Vi Lượng được nhắc đến duy nhất trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh, nhưng khá sơ khai, vì cho rằng đây là thuyết phức tạp, chuyên sâu. Các cuốn khác, hầu như không hề biết gì về thuyết này.
Almandine có công thức hóa học Fe2Al2(SiO4)3. Trong cơ thể con người, silic chiếm chỉ số năng lượng (MASS) là 0,0023, tỉ lệ nguyên tố là 0.0058, vì vậy nó tác động tích cực cho sức khỏe, mặc dù, tác dụng không rõ ràng ở chứng bệnh hay vị trí nào của cơ thể. Nguyên tố Oxygen (O) có số nguyên tử là 8, chiếm tỉ trọng trong cơ thể người là 0.65. Thành phần của nguyên tố này trong cơ thể trung bình là 43kg chiếm tỷ lệ là 24%. Tác động đến sức khỏe và sự sống của hầu hết các loài động thực vật trên thế giới. Nguyên tố Iron (Fe) chỉ số nguyên tử là 26, trong cơ thể người đạt tỉ trọng là 60*10-4, khối lượng trung bình 0.0042kg chiếm tỷ lệ 0.00067%. Tác động vừa tích cực cho sức khỏe do sắt là nguyên tố chủ đạo trong máu (Hemoglobin, Cytochromes) và vài loại hóc-môn trong cơ thể. Tác dụng lên hệ tuần hoàn, máu huyết. Được coi là có tác dụng tốt trong việc cầm máu, chữa các chứng xuất huyết, và các chứng liên quan đến máu.
Ở Việt Nam, thuyết Vi Lượng được nhắc đến duy nhất trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh, nhưng khá sơ khai, vì cho rằng đây là thuyết phức tạp, chuyên sâu. Các cuốn khác, hầu như không hề biết gì về thuyết này.
Almandine có công thức hóa học Fe2Al2(SiO4)3. Trong cơ thể con người, silic chiếm chỉ số năng lượng (MASS) là 0,0023, tỉ lệ nguyên tố là 0.0058, vì vậy nó tác động tích cực cho sức khỏe, mặc dù, tác dụng không rõ ràng ở chứng bệnh hay vị trí nào của cơ thể. Nguyên tố Oxygen (O) có số nguyên tử là 8, chiếm tỉ trọng trong cơ thể người là 0.65. Thành phần của nguyên tố này trong cơ thể trung bình là 43kg chiếm tỷ lệ là 24%. Tác động đến sức khỏe và sự sống của hầu hết các loài động thực vật trên thế giới. Nguyên tố Iron (Fe) chỉ số nguyên tử là 26, trong cơ thể người đạt tỉ trọng là 60*10-4, khối lượng trung bình 0.0042kg chiếm tỷ lệ 0.00067%. Tác động vừa tích cực cho sức khỏe do sắt là nguyên tố chủ đạo trong máu (Hemoglobin, Cytochromes) và vài loại hóc-môn trong cơ thể. Tác dụng lên hệ tuần hoàn, máu huyết. Được coi là có tác dụng tốt trong việc cầm máu, chữa các chứng xuất huyết, và các chứng liên quan đến máu.
Thuyết
Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves) của Newlands ứng dụng trong giả kim thuật,
cho phép tính toán sự liên hệ của khoáng chất trong đá và chiêm tinh,từ đó suy
dẫn đến các ứng dụng của đá lên cơ thể con người. Vào năm 1864, John Alexander
Reina Newlands (1837-1898), nhà hóa học người Anh, tìm ra quy luật bát
bội: Mỗi nguyên tố hóa học đều thể hiện tính chất tương tự như nguyên tố thứ 8
khi xếp các nguyên tố theo khối lượng nguyên tử tăng dần. Điều này kích thích
các nhà huyền học giả kim thuật vì giả kim từ lâu không thể tạo ra bất kỳ quy
luật nào tương xứng phù hợp với khoa học hiện đại. Quy luật số 8 ứng với tám
hành tinh (gồm cả trái đất) mà nền tảng của nó đã có từ lâu, và còn tương ứng
nhiều hình thức tâm linh huyền học khác liên đới với con số 8 như Geomancy (bói
đất). Từ đó người ta (mà nổi tiếng nhất là nhà huyền học George Ivanovich
Gurdjieff, người cực kỳ yêu quý thuyết Law of Octaves) xây dựng nên hệ tính để
tìm ra nguyên tố chủ đạo và hành tinh chủ đạo trong một viên đá. Từ đó, dẫn suy
ra những đặc tính chữa bệnh hoặc tác động lên tinh thần.
Ở Việt Nam, hầu như không có sách nào đề cập đến thuyết này. Ngay cả ở những sách nước ngoài cũng rất hiếm gặp. Thường ở các sách huyền học như các tạp bản của George Gurdjieff, và người kế thừa dưới dạng các enneagram (bát tố đồ).
Thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves) cho rằng loại đá này mang yếu tố mộc tinh, vì vậy có tác động lên vùng bụng, gan, tuyến yên, lớp mỡ quanh eo, đùi. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến sự nghèo khó (suy dinh dưỡng) và cả giàu có (béo phì), các chứng liên quan đến bụng, gan (đau bụng). Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là trấn giữ các mối quan hệ của nhà chiêm tinh thứ 2 và 9: tài sản, tiền bạc (nhà Lucrum) và du hành, du lịch (nhà Iter). Dành hỗ trợ cho những người có vấn đề với tiền bạc hay gặp vận rủi, những người muốn đi du lịch, hay di cư không được xuông sẻ, thúc đẩy tiền bạc và thường xuyên du hành. tăng cường vật chất và sở hữu, đặc biệt là sự phát triển, thịnh vượng, may mắn, tự do, du hành, luật pháp, nhân đạo,... nhấn mạnh đến yếu tố giàu có vật chất. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố mộc tinh bảo trợ về địa lý và cấu trúc nói chung (Dante Alighieri). Vì vậy, đá này dành cho những người làm trong lĩnh vực liên quan đến các địa lý và du lịch như hướng dẫn viên du lịch, phi công, hoa tiêu, tài xế, cục địa dư, tàu hỏa, khảo cổ, xây dựng cầu đường...
Ở Việt Nam, hầu như không có sách nào đề cập đến thuyết này. Ngay cả ở những sách nước ngoài cũng rất hiếm gặp. Thường ở các sách huyền học như các tạp bản của George Gurdjieff, và người kế thừa dưới dạng các enneagram (bát tố đồ).
Thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves) cho rằng loại đá này mang yếu tố mộc tinh, vì vậy có tác động lên vùng bụng, gan, tuyến yên, lớp mỡ quanh eo, đùi. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến sự nghèo khó (suy dinh dưỡng) và cả giàu có (béo phì), các chứng liên quan đến bụng, gan (đau bụng). Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là trấn giữ các mối quan hệ của nhà chiêm tinh thứ 2 và 9: tài sản, tiền bạc (nhà Lucrum) và du hành, du lịch (nhà Iter). Dành hỗ trợ cho những người có vấn đề với tiền bạc hay gặp vận rủi, những người muốn đi du lịch, hay di cư không được xuông sẻ, thúc đẩy tiền bạc và thường xuyên du hành. tăng cường vật chất và sở hữu, đặc biệt là sự phát triển, thịnh vượng, may mắn, tự do, du hành, luật pháp, nhân đạo,... nhấn mạnh đến yếu tố giàu có vật chất. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố mộc tinh bảo trợ về địa lý và cấu trúc nói chung (Dante Alighieri). Vì vậy, đá này dành cho những người làm trong lĩnh vực liên quan đến các địa lý và du lịch như hướng dẫn viên du lịch, phi công, hoa tiêu, tài xế, cục địa dư, tàu hỏa, khảo cổ, xây dựng cầu đường...
Thuyết
Thái Lặc Mã (Thelema) đề xuất bởi nhà huyền học Aleser Crowley, đầu thế
kỷ 20, mặc dù bản thệ thống của nó, được thừa hưởng thừ Hội Kín Kim Bình Minh
ra đời vào thế kỷ 19. Hệ thống Thelema được ứng dụng trong Thạch Lý Học thông
qua mối liên hệ với Sinh Thụ (Tree of Life), một lý thuyết của người Do Thái ra
đời cùng thời với Kinh Cựu Ước. Hệ thống dựa trên các sách tương ứng do sự đóng
góp của nhiều nhà huyền học khác nhau: McGregors Mathers, Paul Foster Case… đặc
biệt được tổng hợp trong cuốn Kinh Liber 777.
Ở Việt Nam, thuyết Thelema hầu như chưa bao giờ được nhắc đến trong tất cả các sách về Thạch Lý Học đã xuất bản. Tuy nhiên, rất nhiều tài liệu về huyền học phương tây do những du học sinh tại Hải Ngoại được đăng trên các trang mạng, sử dụng hệ thống này của Thelema. Thuyết này được các nhóm huyền học phương tây sử dụng rộng rãi ở thời kỳ Internet nở rộ khoảng năm 2012, bởi các nhóm nghiên cứu Huyền Bí Học và Ma Thuật Học, như nhóm Huyền Học Phương Tây, Hội Tarot Huyền Bí...
Thuyết Thelema cho rằng Almandine gắng liền với Planets số 17 Pé (Mars). Từ פה (peh) có nghĩa là miệng, nhưng thường đồng nghĩa với lời nói. Với một chú ý tốt sẽ có thể nhận ra một khuôn mặt với một miệng trong hình dạng của ký tự này. Chữ peh được viết ף khi nó xuất hiện ở cuối một từ, và ף khi nó xuất hiện ở đầu hoặc nửa từ. Hình ảnh của ký tự Pe (Pay, Phe, peh) là miệng mà thường được coi là không có gì nhiều hơn một sự giống nhau với hình dạng của ký tự, không có ý nghĩa đặc biệt. Nhưng miệng có thể được coi như một sự mở ra mà trong đó hơi thở đến, hoặc Hơi Thở Của Sự Sống. Do đó Pe có thể được xem như một sự mở cửa thông qua đó Ánh sáng của bản thân tỏa sáng. Ở đây người đàn ông cuối cùng đã tự mình nhận thức cao hơn và mang ý thức của mình trong sự liên kết với nó. Khi ý thức vẫn còn trong ánh sáng rực rỡ này, ánh sáng tự nó trở thành một cái gì đó mà trong đó năng lượng, ánh sáng, kiến thức và trí tuệ đang chảy. Một cái giếng cũng giống như một cái miệng trên trái đất, cho chúng ta nước của sự sống. Trong Liber 777, nó được coi là chữa trị cho các biểu hiện bệnh tật của hệ thống cơ bắp và điều trị các chứng viêm.
Ở Việt Nam, thuyết Thelema hầu như chưa bao giờ được nhắc đến trong tất cả các sách về Thạch Lý Học đã xuất bản. Tuy nhiên, rất nhiều tài liệu về huyền học phương tây do những du học sinh tại Hải Ngoại được đăng trên các trang mạng, sử dụng hệ thống này của Thelema. Thuyết này được các nhóm huyền học phương tây sử dụng rộng rãi ở thời kỳ Internet nở rộ khoảng năm 2012, bởi các nhóm nghiên cứu Huyền Bí Học và Ma Thuật Học, như nhóm Huyền Học Phương Tây, Hội Tarot Huyền Bí...
Thuyết Thelema cho rằng Almandine gắng liền với Planets số 17 Pé (Mars). Từ פה (peh) có nghĩa là miệng, nhưng thường đồng nghĩa với lời nói. Với một chú ý tốt sẽ có thể nhận ra một khuôn mặt với một miệng trong hình dạng của ký tự này. Chữ peh được viết ף khi nó xuất hiện ở cuối một từ, và ף khi nó xuất hiện ở đầu hoặc nửa từ. Hình ảnh của ký tự Pe (Pay, Phe, peh) là miệng mà thường được coi là không có gì nhiều hơn một sự giống nhau với hình dạng của ký tự, không có ý nghĩa đặc biệt. Nhưng miệng có thể được coi như một sự mở ra mà trong đó hơi thở đến, hoặc Hơi Thở Của Sự Sống. Do đó Pe có thể được xem như một sự mở cửa thông qua đó Ánh sáng của bản thân tỏa sáng. Ở đây người đàn ông cuối cùng đã tự mình nhận thức cao hơn và mang ý thức của mình trong sự liên kết với nó. Khi ý thức vẫn còn trong ánh sáng rực rỡ này, ánh sáng tự nó trở thành một cái gì đó mà trong đó năng lượng, ánh sáng, kiến thức và trí tuệ đang chảy. Một cái giếng cũng giống như một cái miệng trên trái đất, cho chúng ta nước của sự sống. Trong Liber 777, nó được coi là chữa trị cho các biểu hiện bệnh tật của hệ thống cơ bắp và điều trị các chứng viêm.
Thuyết Reiki (Linh Khí), dựa trên sự kết hợp của hệ thống
Kinh Lạc trong Y Thuật Trung Hoa, hệ thống Luân Xa trong Y Thuật Ấn Độ và
thuyết Ngũ Hành trong thạch học, dùng trong xoa bóp, ấn huyệt, được đề xuất bởi
Mikao Usui năm 1922. Nếu hệ thống luân xa thật sự ít khi được áp dụng trong
Reiki thực hành, hệ thống Kinh Lạc lại được sử dụng trong ấn huyệt rất rộng
rãi. Kinh lạc là đường khí huyết vận hành trong cơ thể, đường chính của nó gọi
là kinh, nhánh của nó gọi là lạc, kinh với lạc liên kết đan xen ngang dọc, liên
thông trên dưới trong ngoài, là cái lưới liên lạc toàn thân. Kinh lạc phân ra
hai loại kinh mạch và lạc mạch.Trong kinh mạch gồm chính kinh và kỳ kinh, chính
kinh có mười hai sợi, tả hữu đối xứng, tức thủ túc tam âm kinh và thủ túc tam
dương kinh, gọi chung mười hai kinh mạch, mỗi kinh thuộc một tạng hoặc một phủ.
Kỳ kinh có tám sợi, tức đốc mạch, nhâm mạch, xung mạch, đái mạch, âm duy mạch,
dương duy mạch, âm kiểu mạch, dương kiểu mạch. Thông thường nhắc đến mười hai
kinh mạch và thêm vào hai mạch nhâm đốc gọi chung mười bốn kinh mạch chính.
Bệnh tật đều do sự vận hành bế tắc của khí luân chuyển trong 12 kinh mạch này,
nếu được khơi thông, ắt sẽ hết bệnh tật. Y Tông Tâm Lĩnh bàn về Kinh Lạc nói,
mười hai kinh lạc, có Thủ thái âm phế kinh (手太阴肺经) thuộc về hành Kim, Thủ thiếu âm tâm kinh ( 手少阴心经) thuộc về hành Hỏa,
Thủ quyết âm tâm bào kinh (手厥阴心包经)
thuộc về hành Hỏa, Thủ thiếu dương tam tiêu kinh (手少阳三焦经) thuộc về hành Hỏa,
Thủ thái dương tiểu tràng kinh (手太阳小肠经) thuộc về hành Hỏa, Thủ dương minh đại tràng kinh (手阳明大肠经) thuộc về hành Kim),
Túc thái âm tỳ kinh (足太阴脾经) thuộc về hành Thổ,
Túc thiếu âm thận kinh (足少阴肾经) thuộc về hành Thủy,
Túc quyết âm can kinh (足厥阴肝经) thuộc về hành Mộc,
Túc thiếu dương đảm kinh (足少阳胆经) thuộc về hành Mộc,
Túc thái dương bàng quang kinh (足太阳膀胱经) thuộc về hành Thủy, Túc dương minh vị kinh (足阳明胃经) thuộc về hành Thổ.
Mỗi mạch lại ứng những bệnh lý khác nhau. Cách sử dụng truyền thống là dùng đá
phù hợp làm thành cây ấn huyệt để trị liệu khơi thông kinh mạch, giống với châm
cứu.
Ở Việt Nam, hầu như không có tài liệu về môn này hoặc tài liệu về Reiki từng được xuất bản, tuy nhiên, nhiều học giả cho biết đã từng có sách về môn này xuất bản trước 1975 mà chúng tôi chưa có dịp khảo cứu được.
Ở Việt Nam, hầu như không có tài liệu về môn này hoặc tài liệu về Reiki từng được xuất bản, tuy nhiên, nhiều học giả cho biết đã từng có sách về môn này xuất bản trước 1975 mà chúng tôi chưa có dịp khảo cứu được.
Almandine có màu đỏ sậm tương ứng với hành Hỏa, thuộc về Thủ thiếu âm tâm kinh, Thủ quyết âm tâm bào kinh. Trong đó, Kinh Thủ Thiếu Âm Tâm liên quan đến bệnh vai, mặt trong chi trên đau, gan tay nóng hoặc lạnh, mồm khô, khát muốn uống nước, đau mắt, đau vùng tim, nấc khan, sườn ngực đau tức, chứng thực thì phát cuồng, chứng hư thì bi ai, khiếp sợ, ở tim, ngực, tâm thần. Ví dụ như huyệt Cực Tuyền có tác dụng liên quan đến đau ngực sườn, đau tim, tay lạnh đau, cánh tay không giơ được, lao hạch; huyệt Thanh Linh có tác dụng liên quan đến đau vai và cánh tay, đau sườn ngực, mắt vàng; huyệt Thiếu Hải (Huyệt Hợp thuộc Thủy) có tác dụng liên quan đến Khuỷu tay co rút, tay tê dại, bàn tay run, đau vùng tim, đầu váng, mắt hoa, hay quên, cuồng, tràng nhạc; huyệt Linh Đạo (Huyệt Kinh thuộc Kim) có tác dụng liên quan đến đau cẳng tay, đau và co khuỷu tay, đau vùng tim, kinh sợ, mất tiếng đột ngột. Kinh Thủ Quyết Âm Tâm Bào liên quan đến các chứng mặt đỏ, nách sưng, cánh tay, khuỷu tay co quắp, gan tay nóng, đau vùng tim, bồn chồn, tức ngực sườn, tim đập thình thịch, cuồng, nói lảm nhảm, hôn mê, ở ngực, tim, dạ dày, bệnh tâm thần, sốt. Ví dụ như huyệt Thiên Trì (Hội của kinh Quyết âm ở tay, chân và Thiếu dương ở chân) có tác dụng liên quan đến Tức ngực, bồn chồn, đau sườn, nách sưng đau, tràng nhạc; huyệt Thiên Tuyền có tác dụng liên quan đến đau mặt trong cánh tay, Đau vùng trước tim, Đau ngực; huyệt Khúc Trạch (Huyệt Hợp thuộc Thủy) có tác dụng liên quan đến Đau sưng khuỷu tay, Đau cẳng tay, cánh tay, đau vùng tim, Mồm khô, phiền táo, chỉ ra mồ hôi ở đầu, nôn do cảm hàn hay thai nghén, thổ tả; huyệt Khích Môn (Huyệt Khích) có tác dụng liên quan đến Đau vùng trước tim có nôn mữa, tim đập hồi hộp, Ngũ tâm phiền nhiệt, tinh thần uể oải.
Thuyết Bát Quái
Kinh Dịch (Iching Therapy), mặc dù được
lấy từ lý thuyết của châu Á, nhưng việc áp dụng nó vào thạch lý học thì lại do
các nhà huyền học Nga, gần gũi với lý thuyết Thông Thiên Học, ra đời vào những
năm 1980. Ở Việt Nam, thuyết này ít được phát triển, đại diện chỉ có Ts Hoàng
Thế Ngữ, Chủ Tịch Hội Đá Quý Việt Nam, tốt nghiệp tại Nga, dùng trong cuốn Đá
Quý Việt Nam, nhưng chỉ dùng cấu trúc hình thái tinh hệ để luận. Cuốn Thạch Đá
Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, tuy có dẫn ra phép Bát Quái, nhưng lại chỉ dựa trên
màu sắc của Ngũ Hành để luận. Cả hai đều rất sơ khai. Dựa vào hình thái tinh hệ
của tinh thể gồm tám loại, được phân định thành tám quái thuộc nội quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông
Thiên Học: Lập Phương (cubic) ứng Càn , Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam
Phương (rhombohedral) ứng Ly, Lục Phương (hexagonal) ứng Đoài, Tam Tà (triclinic)
ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic) ứng Tốn, Phi
Tinh (noncrystallinic) ứng Khôn. Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng khác:
Lập Phương ứng Càn, Tam Tà ứng Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn, Tam
Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở đây
chỉ trình bày thuyết của Thông Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm tám
màu, ứng với tám quái thuộc ngoại quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính, đều
nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ nhất được trình bày trong I-ching: Binary
Numbers, Astrology, And Chakras, dựa trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng,
Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ,
Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành
ứng bát quái cho rằng: Càn ứng dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn
ứng cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề
xuất dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam,
Cấn ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại quái
tương ứng với hình dạng và màu sắc của tinh thể, từ đó tính ra được quái trong
64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại ứng một bộ phận cơ thể theo y lý
trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể.
Theo thuyết Bát Quái Kinh Dịch, đá Almandine có màu đen huyết tương ứng quẻ ngoại quái Cấn, có tinh hệ Lập Phương tương ứng quẻ nội quái Càn, ghép lại chính là quẻ quái số 26: quẻ Sơn Thiên Đại Súc. Quái 26 ứng với vị trí chân trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên quan đến hệ xương như Viêm Khớp, đau lưng, bệnh gout,... Quẻ Sơn Thiệt Đại Súc có nghĩa là Xúc là chứa ngăn, lại là chứa họp, Phàm sự chứa họp, đều chuyên nói về cái lớn hơn. Sự chứa đựng, nên được chính đạo, cho nên nói là lợi về sự chính. Đã có đạo đức đầy chứa ở trong, nên ở ngôi trên, để hưởng lộc trời, thi thố với thiên hạ, thì chẳng những là tốt một mình, mà lại tốt cả thiên hạ, người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy.
Ở Việt Nam, thuyết này hầu như chưa bao giờ được
nhắc đến trong các sách Thạch Lý Học đã xuất bản. Tuy nhiên một số kinh sách về
ngũ sắc trí đã được dịch và xuất bản những năm gần đây như Đại Giải Thoát Thông
Qua Sự Nghe Trong Bardo của Guru Rinpoche, Những Giáo Pháp Bí Mật Của Tử Thư
Tây Tạng của Detlef Ingo Lauf.
Đá Almandine có màu đỏ, là bổn sắc của A Di Đà Như Lai (Amitabha) . Ngài là sự chuyển hóa của sự hỗn độn thành sự phân minh. Màu đỏ đại diện cho vô úy tướng ứng với miệng. Đeo Almandine sẽ được A Di Đà Như Lai Phật hộ trì, hỗ trợ về miệng và sự phân minh. Vì đây cũng là màu của cõi atula, đá Almandine được coi là bùa hộ về vị dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về vị dục thông qua vị phật phân minh. Tử thư nhắc đến màu đỏ như biểu hiện cho sự phân minh, trí huệ, đồng thời sự tỵ nạnh ganh ghét. Tử Thư Tây Tạng viết rằng: Vào ngày thứ tư, một ánh sáng đỏ – đó là yếu tố tinh khiết của lửa, sẽ chiếu sáng và đồng thời đức Phật A Di Đà từ cõi phương Tây màu đỏ, Cõi Cực Lạc (The Blissful) sẽ xuất hiện trước mặt con. Thân ngài màu đỏ, ngài cầm hoa sen trong tay, ngài ngự trên ngai con chim công, ngài đang ôm người phối ngẫu là Phật Mẫu Pandaravasini. Ánh sáng đỏ của tưởng uẩn trong tánh thanh tịnh căn bản của nó là Diệu Quan Sát Trí (wisdom of discrimination), màu đỏ rực rỡ, được trang hoàng bởi những dĩa ánh sáng quang minh, rõ rệt, sắc bén, óng ánh từ tim của đức Phật A Di Đà. Vào ngày thứ tư, có các tia sáng của hỏa đại màu đỏ xuất phát từ phương tây. Chính giữa luồng ánh sáng đó có đức Phật A Di Đà, đứng trên tòa sen đang rộng hai tay tiếp dẫn. Luồng ánh sáng này chiếu soi khắp mười phương thế giới không chỗ nào không soi đến. Gần đó có một lớp ánh sáng màu nâu đục, tượng trưng cho cảnh giới của ngạ quỷ cũng đồng thời xuất hiện.
Theo thuyết Bát Quái Kinh Dịch, đá Almandine có màu đen huyết tương ứng quẻ ngoại quái Cấn, có tinh hệ Lập Phương tương ứng quẻ nội quái Càn, ghép lại chính là quẻ quái số 26: quẻ Sơn Thiên Đại Súc. Quái 26 ứng với vị trí chân trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên quan đến hệ xương như Viêm Khớp, đau lưng, bệnh gout,... Quẻ Sơn Thiệt Đại Súc có nghĩa là Xúc là chứa ngăn, lại là chứa họp, Phàm sự chứa họp, đều chuyên nói về cái lớn hơn. Sự chứa đựng, nên được chính đạo, cho nên nói là lợi về sự chính. Đã có đạo đức đầy chứa ở trong, nên ở ngôi trên, để hưởng lộc trời, thi thố với thiên hạ, thì chẳng những là tốt một mình, mà lại tốt cả thiên hạ, người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy.
Thuyết Phật Giáo Mật Tông là phái phật giáo duy nhất có ứng dụng trong
Thạch Lý Học. Lý thuyết dựa trên hình ảnh của Ngũ Trí Như Lai và Tử Thư. Ngũ
Phật còn gọi là Ngũ Trí Như Lai, Ngũ Trí Phật, Ngũ Phương phật, hay còn được
gọi Ngũ Thiền Định Phật; là tên gọi chỉ năm vị Phật trong Mật Tông, lấy Đại
Nhật Như Lai làm chủ tôn, có sự khu biệt giữa Ngũ Phật giới Kim Cương và Ngũ
Phật giới Thai Tạng. Năm đức Phật này đại diện cho 5 phẩm chất của con người và
tạo ra sự tuyệt mỹ và hay nhất để phá bỏ những sai trái trong 5 phẩm chất đó.
Mỗi đức Phật là một con đường tuyệt diệu để đi đến cảnh giới Niết Bàn và Vô
sanh. Tu theo những vị đó sẽ mau chóng vào được cung điện Niết Bàn. Ngũ trí Như
Lai là 5 vị Phật tối cao của Phật giáo Tây Tạng. Năm vị phật này đại diện bởi
năm màu, gọi là Ngũ Sắc Trí (pancha-varna): Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairochana)
đại diện bởi màu trắng và tím, A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya) đại diện bởi màu
lam và đen, Bảo Sanh Như Lai (Ratnasambhava) đại diện bởi màu vàng và cam, A Di
Đà Như Lai (Amitabha) đại diện bởi màu đỏ và hồng, Bất Không Thành Tựu Như Lai
(Amoghasiddhi) đại diện bởi màu lục. Nitin Kumar căn cứ vào kinh điển
Chandamaharosana Tantra dẫn ra những quy tắc sử dụng màu săc trong mật tông,
đáng chú ý cho rằng: màu lam đại diện cho phẫn nộ tướng ứng vị trí tai, màu
vàng đại diện cho sinh dưỡng tướng ứng vị trí mũi, màu đỏ đại diện cho vô úy
tướng ứng miệng, màu lục đại diện cho uy đức tướng ứng vị trí đầu. Trong Tử Thư
Tây Tạng cũng tuyên về màu sắc tương ứng lục đạo: ánh sáng trắng là của cõi
trời, ánh sáng đỏ là của cõi Atula, ánh sáng lam là của cõi người, ánh sáng lục
là của cõi súc sanh, ánh sáng vàng là của cõi quỷ đói, ánh sáng xám là của cõi
địa ngục.
Đá Almandine có màu đỏ, là bổn sắc của A Di Đà Như Lai (Amitabha) . Ngài là sự chuyển hóa của sự hỗn độn thành sự phân minh. Màu đỏ đại diện cho vô úy tướng ứng với miệng. Đeo Almandine sẽ được A Di Đà Như Lai Phật hộ trì, hỗ trợ về miệng và sự phân minh. Vì đây cũng là màu của cõi atula, đá Almandine được coi là bùa hộ về vị dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về vị dục thông qua vị phật phân minh. Tử thư nhắc đến màu đỏ như biểu hiện cho sự phân minh, trí huệ, đồng thời sự tỵ nạnh ganh ghét. Tử Thư Tây Tạng viết rằng: Vào ngày thứ tư, một ánh sáng đỏ – đó là yếu tố tinh khiết của lửa, sẽ chiếu sáng và đồng thời đức Phật A Di Đà từ cõi phương Tây màu đỏ, Cõi Cực Lạc (The Blissful) sẽ xuất hiện trước mặt con. Thân ngài màu đỏ, ngài cầm hoa sen trong tay, ngài ngự trên ngai con chim công, ngài đang ôm người phối ngẫu là Phật Mẫu Pandaravasini. Ánh sáng đỏ của tưởng uẩn trong tánh thanh tịnh căn bản của nó là Diệu Quan Sát Trí (wisdom of discrimination), màu đỏ rực rỡ, được trang hoàng bởi những dĩa ánh sáng quang minh, rõ rệt, sắc bén, óng ánh từ tim của đức Phật A Di Đà. Vào ngày thứ tư, có các tia sáng của hỏa đại màu đỏ xuất phát từ phương tây. Chính giữa luồng ánh sáng đó có đức Phật A Di Đà, đứng trên tòa sen đang rộng hai tay tiếp dẫn. Luồng ánh sáng này chiếu soi khắp mười phương thế giới không chỗ nào không soi đến. Gần đó có một lớp ánh sáng màu nâu đục, tượng trưng cho cảnh giới của ngạ quỷ cũng đồng thời xuất hiện.
Nơi tìm ra: Mỏ đá Almadine có ở Ấn
Độ, Mông Cổ, Madagaska, Phần Lan và Karelia
Lời cảm
ơn: bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng
nghiệp: tiến sĩ Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ
(tp.HCM), nhà sưu tập Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên
Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments