Ametrine
两 色石英 - Lưỡng Sắc Thạch Anh
Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch
Lý Trị Liệu, Thạch Học Trị Liệu dịch từ chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi
Lạp cổ. Lithotherapy phân thành Litho đến từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là
đá, therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ] tức là chữa trị, lithotherapy
tức là chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với đá ở ngoài da. Lithotherapy là
một môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận huyền học và thần bí học. Mặc
dù có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả năng của nó, đã được ứng dụng
từ lâu trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại, nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi
bức màn bí mật của những điều thần kỳ giống như nền Đông Y của người Trung Quốc
hay Nam Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc biệt trình bày về
những lý luận căn bản trong Thạch Lý Học đối với Ametrine, nằm trong chuỗi khảo
cứu, viết riêng cho tuần báo UNESCO.
Giới thiệu đá: Ametrine
- khoáng vật dạng Crom kết hợp các đặc điểm của ametit lẫn xitrin. Hiếm khi
trong khoáng tự nhiên xuất hiện những tinh thể nhiều đới chứa trong đó cả hai
loại khoáng vật. Đó lafametrin – loại đá nửa quý có ánh tím, màu hoa tử đinh
hương hoặc tông màu vàng - đỏ. Xitrin màu vàng như rượu vang ametit màu tím như
hoa anh thảo đều là những biến thể của silic dioxit (thạch anh) chỉ khác nhau
bởi sự có mặt của tạp chất. Ametrine, còn gọi là trystine hoặc theo tên thương
mại của nó là Bolivianite, là một loại thạch anh tự nhiên. Nó là một hỗn hợp
của Amethyst và Citrine với các vùng màu tím và vàng hoặc da cam. Màu của các
vùng có thể nhìn thấy trong Ametrine là do các trạng thái oxi hóa khác nhau của
sắt trong tinh thể. Các trạng thái oxy hóa khác nhau xảy ra do có sự thay đổi
nhiệt độ trên toàn bộ pha lê trong quá trình hình thành. Tại Trung Quốc đá này
có tên là Lưỡng Sắc Thạch Anh (两 色石英) trong đó Lưỡng Sắc là (两 色) và (石英) là
Thạch Anh. Ametrine nhân tạo có thể được tạo ra bằng cách xử lý nhiệt khác nhau
của Ametit. Tương tự như Cytrin, Ametrine cụng có tác động tốt đến hệ tiêu hóa.
Nó có ích trong việc điều trị viêm dạ dày, viêm thận, bàng quang. Theo tích
xưa, vợ của Dol Filipe de Urriola-i-Goitia khi chết đã tặng chồng mình viên đá
Ametrine 2 màu tuyệt đẹp. Viên đá dại diện cho tình yêu phân đều giữa gia tộc
của cô và người chồng ngoại lai. Như vậy từ xưa, Ametrine đã được xem là
bùa tình yêu và có khà năng kết hợp những nguồn năng lượng trái ngược nhau.
Giới
thiệu các thuyết: Giá trị thạch lý học của Amethyst được trình bày
thành các thuyết cơ bản: thuyết Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học
(Chromotherapy), thuyết Linh Khí (Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng
Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết
Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves), thuyết Thái Lặc Mã (Thelema), thuyết Chiêm
Tinh Học (Astrology), thuyết Hoa Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo Mật Tông,
thuyết Khí Tiết (Qìjié).
Thuyết Đông Phương Bản Mệnh có nhiều luận thuyết khác
nhau. Theo phép tính theo năm, Phương Đông dựa trên Can Chi, lập luận dựa trên
ngũ hành, phối màu tạo nên bộ hoa giáp sắc pháp. Từ Giáp Tý là sắc đỏ ban mai,
chuyển dần cho đến Quý Hợi là sắc tím trời khuya, tạo nên hơn 60 màu khác nhau.
Theo phép tính theo tháng, người ta căn cứ vào địa chi của tháng sinh, theo như
sau: Tháng giêng là Dần, tháng 2 là Mão, tháng 3 là Thìn, tháng 4 là Tỵ, tháng
5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi, tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu, tháng 9 là Tuất,
tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu, cùng phối hợp với ngũ hành
của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng dùng đá có tông
màu lục, lam, dương), Tị Ngọ thuộc Hỏa (ứng dùng đá có tông màu cam đỏ hồng),
Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có tông màu trắng, xám, ánh bạc), Tý Hợi thuộc
Thủy (ứng dùng đá có tông màu đen, chàm, tím), Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ (ứng
dùng đá có tông màu vàng, trong, ánh kim). Thuyết về tháng bản mệnh này được
dùng nhiều rộng rãi vì đơn giản, dễ tính ra.
Ở Việt Nam, cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh đều có nói đến thuyết này. Tuy nhiên, sự phân định màu sắc và ngũ hành không giống nhau. Ví dụ như Ts Hoàng Thế Ngữ trong cuốn Đá Quý Việt Nam đưa ra Hỏa ứng màu đỏ, Thủy ứng màu xanh, Thổ ứng màu nâu, Mộc ứng màu lục, Kim ứng màu vàng trắng đen. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định khác Hỏa ứng màu đỏ hồng tím, Thủy ứng màu đen sẫm, Thổ ứng vàng nâu, Mộc ứng lam lục, Kim ứng trắng bạc.
Ở Việt Nam, cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh đều có nói đến thuyết này. Tuy nhiên, sự phân định màu sắc và ngũ hành không giống nhau. Ví dụ như Ts Hoàng Thế Ngữ trong cuốn Đá Quý Việt Nam đưa ra Hỏa ứng màu đỏ, Thủy ứng màu xanh, Thổ ứng màu nâu, Mộc ứng màu lục, Kim ứng màu vàng trắng đen. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định khác Hỏa ứng màu đỏ hồng tím, Thủy ứng màu đen sẫm, Thổ ứng vàng nâu, Mộc ứng lam lục, Kim ứng trắng bạc.
Thuyết Bản Mệnh phương đông xếp loại đá này vào năm Ất Sửu, thuộc Mộc Cục,
về Âm Phần. Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Ất Sửu sử dụng. Về tháng bản
mệnh, đá này màu tím và cam, thuộc về hành Thủy, ứng về tháng Tí Hợi, tức tháng
10,11.
Thuyết Tây Phương Bản Mệnh là thuyết rất cơ bản của Thạch Lý
Học Phương Tây, dựa trên Cung Hoàng Đạo, mười hai cung mỗi cung chủ chế một
màu, tùy vào ngày bản sinh mà màu sắc đậm nhạt khác nhau theo thời gian, từ đó
luận về đá bản sinh (Birthstones) được dùng nhiều trong văn hóa phương tây. Mặc
dù vậy, hầu hết các tài liệu đều xếp tương đối bất đồng, từ thế kỷ 16 trở đi,
hầu hết không được thống nhất. Ở đây, chỉ trích dẫn những quan điểm được công
nhận rộng rãi. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo tháng như sau:
tháng một màu đỏ cam, tháng hai màu tím tươi, tháng ba màu xanh lam, tháng tư
màu trắng trong, tháng năm màu lục đen, tháng sáu màu trắng đục, tháng bảy màu
đỏ tươi, tháng tám màu xanh chuối, tháng chín màu xanh lá, tháng mười màu đen,
tháng mười một màu vàng, tháng mười hai màu chàm. Thuyết Bản Mệnh phương tây
được định nghĩa theo hoàng đạo như sau: Bạch Dương màu xanh đen, Kim Ngưu màu
xanh dương đậm, Song Tử màu trắng trong, Cự Giải màu xanh lá mạ, Sư Tử màu đen,
Xử Nữ màu cam, Thiên Bình màu lục nhạt, Thiên Yết màu lam, Nhân Mã màu vàng, Ma
Kết màu đỏ tươi, Bảo Bình màu đỏ sậm, Song Ngư màu tím. Thuyết bản mệnh Phương
Tây được ứng dụng rộng rãi trong đời sống từ thế kỷ 18, có tương đối nhiều các
dị biệt tùy vào sách.
Ở Việt Nam, thuyết này cũng được sử dụng khá nhiều, nhưng không hiểu vì sao trong tất cả các cuốn Thạch Lý Học của Việt Nam, ngoại trừ cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc và cuốn Tất Cả Về Khoáng Vật Chữa Bệnh Mầu Nhiệm (dịch của Jasper Stones của Nga), đều không nhắc đến thuyết này.
Ở Việt Nam, thuyết này cũng được sử dụng khá nhiều, nhưng không hiểu vì sao trong tất cả các cuốn Thạch Lý Học của Việt Nam, ngoại trừ cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc và cuốn Tất Cả Về Khoáng Vật Chữa Bệnh Mầu Nhiệm (dịch của Jasper Stones của Nga), đều không nhắc đến thuyết này.
Đá này màu tím cam được xếp vào loại đá bản mệnh của
tháng hai, mùa xuân và xếp vào đá bản mệnh của cung Song Ngư, thuộc hệ nước. Vì
vậy, những ai sinh vào giữa 19 tháng 2 đến 20 tháng 3 hằng năm, hoặc vào tháng 3
thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này.
Thuyết
Quang Lý Học (Chromatherapy) được ra đời rất lâu từ giả kim thuật, nhưng
chính thức định hình đặt tên bởi tiến sĩ Christian Agrapart. Thạch Lý Học sử
dụng lại thuật ngữ này, nhưng không sử dụng liệu pháp ánh sáng như Agrapart mà
lý luận dựa trên màu của loại đá. Nó gồm một phần nghiên cứu về màu sắc trong y
học của Agrapart và một phần nghiên cứu về màu sắc trong tâm lý học. Màu sắc
trong tâm lý học đã được nghiên cứu lâu đời như bảng phân chia màu sắc và tâm
trạng "rose of temperaments" (Temperamenten Rose) của Goethe và
Schiller (1798). Nhưng nghệ thuật này chỉ thăng hoa nhờ nghiên cứu của Carl
Jung khi ghép tính biểu tượng của màu sắc vào tâm lý con người. Từ đó, những
người nghiên cứu sau này sử dụng sự tương ứng màu sắc đó trong viên đá và đặt
nền tảng lý thuyết cho Thạch Lý Học. Dựa vào bảng màu sắc đó, cho phép gợi ý
đến tác động chữa bệnh hoặc lên tinh thần con người.
Ở Việt Nam, thuyết Quang Lý Học này cũng được sử dụng rộng rãi. Hầu hết các sách đều có đề cập trừ cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Trong đó cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh có thể coi là chi tiết nhất về thuyết này.
Thuyết Quang Lý Học cho rằng màu cam tượng trưng cho cuộc sống hạnh phúc và an lạc. Loại đá này giúp tăng cường khả năng cảm thụ hạnh phúc, tìm thấy sự an lạc và dung dị. Nó mang lại tác dụng phát triển dành cho những người mất niềm tin vào cuộc sống, những người bi quan hay đang trong cảnh khốn cùng. Dành cho những người trong các ngành nghề liên quan đến tâm lý như bác sĩ tâm lý, tư vấn viên, bảo trợ viên hoặc các nhân viên xã hội. Cũng dành cho những người hoạt động tâm linh như các đạo sư, nhà sư và mục vụ sứ. Màu tím tươi tượng trưng cho sự sáng tạo và độc đáo, giúp tăng cường khả năng sáng tạo, ý tưởng độc đáo, tiếp thu ý tưởng. Nó có tác dụng phát triển trí não, tăng cường sáng tạo, ý tưởng độc đáo hoặc những người cần sự sáng tạo. Đặc biệt dành cho những người trong lĩnh vực nghệ thuật (tạo mẫu, thời trang), hoặc văn chương (nhà văn, truyện tranh), hoặc những người nghiên cứu, sáng chế (nhà khoa học, lý thuyết gia).
Ở Việt Nam, thuyết Quang Lý Học này cũng được sử dụng rộng rãi. Hầu hết các sách đều có đề cập trừ cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Trong đó cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh có thể coi là chi tiết nhất về thuyết này.
Thuyết Quang Lý Học cho rằng màu cam tượng trưng cho cuộc sống hạnh phúc và an lạc. Loại đá này giúp tăng cường khả năng cảm thụ hạnh phúc, tìm thấy sự an lạc và dung dị. Nó mang lại tác dụng phát triển dành cho những người mất niềm tin vào cuộc sống, những người bi quan hay đang trong cảnh khốn cùng. Dành cho những người trong các ngành nghề liên quan đến tâm lý như bác sĩ tâm lý, tư vấn viên, bảo trợ viên hoặc các nhân viên xã hội. Cũng dành cho những người hoạt động tâm linh như các đạo sư, nhà sư và mục vụ sứ. Màu tím tươi tượng trưng cho sự sáng tạo và độc đáo, giúp tăng cường khả năng sáng tạo, ý tưởng độc đáo, tiếp thu ý tưởng. Nó có tác dụng phát triển trí não, tăng cường sáng tạo, ý tưởng độc đáo hoặc những người cần sự sáng tạo. Đặc biệt dành cho những người trong lĩnh vực nghệ thuật (tạo mẫu, thời trang), hoặc văn chương (nhà văn, truyện tranh), hoặc những người nghiên cứu, sáng chế (nhà khoa học, lý thuyết gia).
Thuyết Luân
Xa (Chakra) được trình bày trong trào lưu Thời Đại Mới (New
Age) bởi các lãnh tụ Thông Thiên Học như Johann Georg Gichtel, hoặc Yoga như
Swami Sivananda. Vẫn vận dụng chủ yếu là màu sắc của viên đá, được dịch nghĩa
theo hình ảnh các luân xa trong văn hóa Ấn Độ trong Áo Nghĩa Thư. Từ nguyên
thủy trong tiếng Sanskrit cakra mang ý nghĩa là "bánh xe" hay
"vòng tròn", các luân xa được miêu tả như là xếp thành một cột thẳng
từ gốc của cột sống lên đến đỉnh đầu, liên quan tới một số chức năng tâm sinh
lý, một khía cạnh của nhận thức, đánh dấu bởi một màu sắc nào đó. Chúng thường
được hình tượng hóa bằng các hoa sen với số cánh khác nhau cho mỗi luân xa. Các
luân xa được cho là đem lại năng lượng cho cơ thể và có liên quan đến các phản
ứng của cơ thể, tình cảm hay tâm lý của một người, là các điểm chứa năng lượng
sống (prana, cũng được gọi là shakti) lưu chuyển giữa các điểm đó dọc theo các
đường chảy (gọi là nadis). Chức năng của các chakra là xoay tròn để thu hút vào
năng lượng sống từ viên đá để giữ cân bằng cho sức khỏe về tâm linh, tâm lý, tình
cảm và sinh lý của cơ thể.
Ở Việt Nam, thuyết Luân Xa được biết đến rộng rãi nhất trong số các thuyết về thạch lý học. Tất cả các sách đều có đề cập đến thuyết này trừ cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Sự nhận định cũng ít nhiều sai khác. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định Luân xa gốc ứng màu đỏ đen, luân xa xương cùng ứng màu cam phấn hồng, luân xa thái dương ứng màu vàng, luân xa tim ứng màu xanh lá, luân xa họng ứng màu xanh lam, luân xa trán ứng màu chàm tím, luân xa vương miện ứng màu trắng và tím nhạt.
Ở Việt Nam, thuyết Luân Xa được biết đến rộng rãi nhất trong số các thuyết về thạch lý học. Tất cả các sách đều có đề cập đến thuyết này trừ cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Sự nhận định cũng ít nhiều sai khác. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định Luân xa gốc ứng màu đỏ đen, luân xa xương cùng ứng màu cam phấn hồng, luân xa thái dương ứng màu vàng, luân xa tim ứng màu xanh lá, luân xa họng ứng màu xanh lam, luân xa trán ứng màu chàm tím, luân xa vương miện ứng màu trắng và tím nhạt.
Thuyết Luân
Xa cho rằng loại đá này màu cam ứng với luân xa xương cùng
Swadhisthana (hoa sen sáu cánh). Vị chúa của chakra swadhisthana là Thần
Bhoramdev Saraswati. Svadhishthana được minh họa như một hoa sen trắng (Nelumbo
nucifera). Nó có sáu cánh hoa màu đỏ tươi có ghi các âm tiết: ban, bhaṃ, maṃ, yaṃ, raṃ và laṃ. Bên trong
hoa sen này là một trăng lưỡi liềm trắng đại diện cho vùng nước do vị thần
Varuna chủ tọa.Nguồn gốc thần chú, nằm trong vùng sâu nhất trong vòng tròn, là
một mặt trăng màu trắng vaṃ. Câu thần
chú nằm phía trên ở trong vòng ràng buộc, hay dấu chấm, là vị thần Vishnu. Ông
có màu xanh đậm và mặc một dhoti hay trang phục truyền thống ấn độ màu vàng.
Ông ta cầm một tù và, một cái chùy, một cái vòng và một hoa sen.Ông ta mặc
shriwatsa mark , và đá koustabha. Ông ta đang ngồi trên hoa sen hồng, hoặc trên
con chim ưng thần bí Garuda.Sức mạnh của ông là nữ thần Rakini (hay Chakini).
Cô ấy màu đen, mặc áo đỏ hoặc trắng và ngồi trên hoa sen đỏ. Cô thường được
miêu tả bằng một mặt và hai cánh tay, cầm thanh kiếm và lá chắn, hoặc hai mặt
và bốn vũ trang, và giữ một đinh ba, hoa sen, trống và sấm sét, hoặc mũi tên,
đầu lâu, trống và rìu.Sáu cánh tượng trưng cho các phương thức của ý thức sau
đây, còn gọi là Vittitti hay ý thức: tình thương, tàn nhẫn, cảm giác hủy diệt,
ảo tưởng, khinh miệt và nghi ngờ. Với khả năng tăng cường tình dục, sự sáng
tạo. Đặt viên đá ở vị trí ngay giữa vùng háng, dưới ổ bụng, nơi có luân xa. Nó
sẽ tác động bộ phận sinh dục, dương vật, âm đạo, kinh nguyệt. Vì vậy nó sẽ tác
dụng cải thiện dành cho những người bị tác động tình dục, không cảm xúc tình
dục hoặc gặp những vấn đề liên quan sinh lý. Dành cho những người làm việc liên
quan đến sự sáng tạo như ngành thời trang, nghệ thuật, nhà văn hoặc các nhà
phát minh, nhà triết gia, tư tưởng gia... hoặc những người làm việc liên quan
đến tình dục hay sản khoa. Màu tím ứng với luân xa vương miện Sahasrara (hoa
sen ngàn cánh). Tướng ứng là năng lực giúp tăng cường tư tưởng, nhận thức và
suy nghĩ. Loại đá này cho tác động lên tuyến yên, nội tiết tố, não bộ. Từ đó
mang lại tác dụng cải thiện điểm yếu trong tư tưởng nhận thức hay suy nghĩ.
Dành cho những người bị căng thẳng thần kinh, hoặc có hoạt động trí não không
tốt. Dành cho các ngành nghề liên quan đến việc suy nghĩ, tư duy như nhà nghiên
cứu, nhà kinh doanh, xã hội chính trị gia... Theo cuốn “Tất cả vế khoáng vật
chữa bệnh màu nhiệm” của Jasper Stone có Luân xa vùng rốn: kiểm soát ruột, thận
và hệ tiết niệu, luân xa náy tương ứng với tình yêu khác giới và sự thỏa mãn
tình cảm, tình dục; nguồn dự trữ năng lượng sinh dục tập trung ở luân xa này.
Năng lượng chiếu xạ của Dương.
Thuyết Hoa
Giáp dựa trên lý học phương đông, canh theo can chi bản mệnh của một
người theo ngày tháng năm sinh, rồi tính sự xung khắc hay tương hợp trong ngũ hành.
Từ đó đưa ra nguyên tắc vận dụng trong thạch học, nhờ vào ngũ hành trong khoáng
thạch đối chế lại với bản mệnh, nhằm điều hòa bản thân. Thuyết Ngũ Hành quy
định theo thiên can: Giáp Ất thuộc Mộc, Bính Đinh thuộc Hỏa, Mậu Kỷ thuộc Thổ,
Canh Tân thuộc Kim, Nhâm Quý thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành quy định theo địa chi:
Dần Mão thuộc Mộc, Ngọ Mùi thuộc Hỏa, Thân Dậu thuộc Kim, Hợi Tý thuộc Thủy,
Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ. Từ thiên can, địa chi, quy định nên phối hành của
bản mệnh: Mậu Thìn thuộc về Thổ phối Thổ,… Khoáng thạch được phân theo ngũ hành
dựa trên màu sắc và hình dạng. Thuyết Ngũ Hành quy định màu sắc: Lục và Lam
thuộc Mộc, Đỏ và Cam thuộc Hỏa, Vàng và Trong thuộc Thổ, Trắng và Xám thuộc
Kim, Đen và Tím thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành quy định theo thể dạng: trụ và dài
thuộc Mộc, nhọn và góc thuộc Hỏa, vuông và cân thuộc Thổ, cong và tròn thuộc
Kim, uốn và lượn thuộc Thủy. Từ đó suy ra được phối hành của khoáng thạch: ví
dụ Huyền Thiết Thạch (Hematite) đen có thể dạng khối tròn (Botryoidal) được xem
là Thủy phối Kim. Thuyết Ngũ Hành quy định tương sinh như sau: Mộc sinh Hỏa,
Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Thuyết Ngũ Hành quy
định tương khắc như sau: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc
Kim, Kim khắc Mộc. Dựa vào tương sinh tương khắc của Ngũ Hành để khắc chế hay
phù trợ cho bản mệnh thông qua việc đeo những khoáng thạch khác nhau trên cơ
thể.
Ở Việt Nam, thuyết Hoa Giáp (Ngũ Hành Can Chi) được trình bày trong hầu hết các sách về Thạch Lý Học, nhưng hầu hết chỉ dừng lại ở lý luận về màu sắc theo ngũ hành. Cá biệt có cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm là có nhắc đến thuyết này ứng dụng lý luận lên hình dạng của tinh thể, tuy nhiên không có khai triển đầy đủ. Thuyết này các phái đạo gia phong thủy khai thác và phát triển rất hoàn chỉnh, được trình bày tóm tắt như bên trên đây.
Ở Việt Nam, thuyết Hoa Giáp (Ngũ Hành Can Chi) được trình bày trong hầu hết các sách về Thạch Lý Học, nhưng hầu hết chỉ dừng lại ở lý luận về màu sắc theo ngũ hành. Cá biệt có cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm là có nhắc đến thuyết này ứng dụng lý luận lên hình dạng của tinh thể, tuy nhiên không có khai triển đầy đủ. Thuyết này các phái đạo gia phong thủy khai thác và phát triển rất hoàn chỉnh, được trình bày tóm tắt như bên trên đây.
Thuyết Hoa
Giáp cho rằng Lưỡng Sắc Thạch Anh thuộc về Thủy (tím) phối Hỏa (nhọn),
tức Thủy Cục. Do đó, Lưỡng Sắc Thạch Anh giúp khắc chế các bản mệnh
Kim – Mộc như Giáp Thân, Ất Dậu, Canh Dần, Tân Mão, vì vậy, những bản mệnh trên
có lợi khi đeo loại ngọc này. Lưỡng Sắc Thạch Anh cũng phù trợ cho
các bản mệnh thuộc Mộc (Thủy sinh Mộc), gồm có mệnh thuộc Thủy Mộc và thuần
Mộc: Giáp Tý, Ất Hợi, Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Dần, Ất Mão, các bản mệnh này có
lợi khi tiếp xúc với loại ngọc này.
Thuyết Khí Tiết (Qìjié) dựa trên Ngũ Hành và sự vận hành của Khí Tiết tác động lên con người. Khí Tiết và Bản Mệnh không hòa hợp, tất sinh ra bệnh tật đau yếu. Bệnh tật chính là do tinh khí huyết trong cơ thể bị tổn mà nên, trong là lục phủ ngũ tạng, ngoài là thân thể tứ chi, đều có liên quan đến ngũ hành tương sinh tương khắc. Nếu can chi ngũ hành quá vượng, trong khi khí tiết bất hòa, tất nhiên gây bệnh cho người. Y lý phương đông nói về Thiên Can: Giáp chủ Gan, Ất chủ Mật, Bính chủ Ruột, Đinh chủ Tim, Mậu chủ dạ dày, Kỷ chủ Lách, Canh chủ ruột già, Tân chủ Phổi, Nhâm chủ Bàng Quang, Quý chủ Thận. Y Lý Phương Đông nói về Địa Chi: Tý bệnh về Sa Mang, Sửu bệnh về Bụng, Dần bệnh về Chân, Mão bệnh về Mắt, Thìn bệnh về Lưng, Tỵ bệnh về Mặt, Ngọ bệnh về Tim, Mùi bệnh về Ngực, Thân bệnh về Cổ, Dậu bệnh về Phổi, Hợi bệnh về Da. Sự hương thịnh hay suy tàn của ngũ hành trong khí tiết của thiên can địa chi đều có quan hệ. Người sinh vào bản mệnh Mộc quá vượng, tự khắc tỳ vị có bệnh, nếu nhằm ngay lúc ngày tháng thuộc về khắc tinh của Mộc thì bệnh phát.
Ở Việt Nam, thuyết Khí Tiết được trình bày tương đối cụ thể trong cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Các cuốn Thạch Lý Học khác hầu như không nhắc đến thuyết này.
Thuyết Khí Tiết nói, người có mệnh cục Mộc (sinh vào ngày Giáp-Ất, Dần Mão) gặp vào những ngày thuộc hành Kim (như các ngày Canh-Tân, Thân-Dậu) và những tháng hành Kim (như tháng bảy, tháng tám) thì bởi Kim khắc Mộc, sinh ra bệnh ở gan và mật. Bên trong, biểu hiện ở bệnh lương tinh, lao phổi, thổ huyết, đau đầu, suyễn, trúng phong, phù nề tê liệt, chứng phong, đau gân cốt. Bên ngoài biểu hiện da khô, đau mắt, chân tay run rẩy... Sách mệnh lý nói: gân cốt đau nhức, là do Mộc bị Kim thương hại, phải lấy Thủy giải độc, Lưỡng Sắc Thạch Anh thuộc Thủy, có tác dụng tốt cho thể trạng người Mộc Cục (Thủy sinh Mộc), nhất là vào những ngày hay tháng Kim thịnh (Canh - Tân, Thân - Dậu) và các tháng hành Kim như tháng bảy, tháng tám. Người đeo đá Lưỡng Sắc Thạch Anh, có thể dùng Thủy khắc chế được Kim hại.
Thuyết Tứ Trụ (Sìzhù) có thể ứng dụng từ Bát Tự trong Thuyết Tứ Trụ để bổ cứu, dựa vào màu của đá để tương hỗ lấy mệnh. Chủ yếu dựa vào thiên can, lấy âm dương và ngũ hành của thiên can để tính lấy bốn phép Kiêu Ấn, Thực Thương, Tỷ Kiếp, Quan Sát và Tài, dụng vào địa chi mà thành Thập Thần. Từ đó luận ra được Nhật Can và Nguyệt Lệnh, dựa vào sự phối hợp của nó trong sinh thời mà dự biết lợi yếu của bản mệnh. Biết được lợi yếu của bản mệnh rồi, mới dùng ngũ hành trong đá ngọc mà điều hòa. Có sách viết: Nhật Can mạnh yếu cần có sự tương trợ của Nguyệt Lệnh. Trong trường hợp không có Nguyệt Lệnh hỗ trợ, các can chi trong trụ liền suy yếu. Có thể dùng phương pháp đá phong thủy để bổ cứu, điều hậu cho Nhật Can.
Ở Việt Nam, thuyết Tứ Trụ được sử dụng cực kỳ nhiều, tất cả các sách Thạch Lý Học tại Việt Nam đều có dẫn xuất như cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh , cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc. Tuy nhiên, có khá nhiều sai biệt giữa các sách với nhau về cách tính, điều này cũng dễ hiểu vì đây là ứng dụng tùy thuộc vào cách luận Tứ Trụ. Ở đây chỉ giữ lại một thuyết để thống nhất là sử dụng sách của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm.
Theo thuyết Tứ Trụ, đá ngọc thuộc mệnh Hỏa rất hạp với mệnh Mộc sinh vào ngày xuân,được nguyệt lệnh mà phần lớn là thân mạnh,vì vừa qua mùa đông lạnh, có chút lạnh lẽo, mượn Hỏa sưởi ấm cơ thể tự do phát triển vươn xa, có Thủy nuôi dưỡng sẽ sinh trưởng nhanh. Tóm lại, Mộc mùa xuân tốt nhất nên có Thủy, Hỏa đến điều hòa mới phát triển tốt. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Mộc sinh mùa thu, thông thường không được sự trợ giúp của nguyệt lệnh, Kim nặng quay quanh, phần lớn thuộc thân yếu. Nếu là Mộc mùa suy yếu, ưa được Hỏa tiết, Thổ dưỡng, Kim khắc không ưa Thủy đến tương trợ. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Hỏa sinh mùa thu. Hỏa mùa thu phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh mới có thể thịnh vượng, chuyển nguy thành yên bình đồng thời đạt được tài lợi, sẽ không bị khốn đốn. Nếu gặp Hỏa đến phù trì, có thể phát huy tài cáng, dựa vào nổ lực của bản thân có thể được thù lao xứng đáng. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Hỏa sinh mùa đông. Hỏa mùa đông phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh, nếu không Thủy vượng sẽ tiêu diệt Hỏa, mãi mãi khó có thể đứng dậy. Hỏa mùa đông thân yếu có Hỏa đến giúp thì Tỷ Kiếp khác Tài tinh, có thể nhìn thấy tiền tài phát triển thịnh vượng, nhưng duyên với vợ bạc, quan hệ không thân mật, hoặc vợ có tình trạng sức khỏe không tốt. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Thổ sinh mùa xuân. Mùa xuân thì Mộc tư lệnh đương quyền, Thổ ở chỗ tử tuyệt, hư phù không có lực, ưa Hỏa đến sinh trợ, kỵ Mộc đến khắc. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Thổ sinh mùa đông. Mùa đông, bên ngoài lạnh, bên trong ấm. Hỏa nhiều mà thịnh vượng thì quý khí hiển vinh. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa xuân. Mùa xuân, do vừa qua mùa đông vẫn còn chút khí lạnh, do đó Kim cần Hỏa sưởi ấm mới có thể loại bỏ khí lạnh mà được phú quý. Nếu Mộc thịnh vượng, Kim sẽ chịu tổn thương. Lúc này cần Kim đến phù trì. Nếu là thiếu Hỏa sưởi ấm thì Kim không thể phát huy tác dụng. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa thu. Mùa thu vừa đúng là Kim tư lệnh đương quyền, do đó Kim lúc này tốt nhất có Hỏa luyện chế mới có thể làm thành vật quý. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa đông. Kim của mùa đông có tính chất hàn lạnh, nếu Mộc nhiều cũng không thể điêu khắc mà tái hiện công hiệu của Kim. Nếu Thủy quá nhiều, Kim sẽ bị chìm vào ưu phiền. Thổ có thể khắc Thủy, làm cho Kim không chịu ảnh hưởng của hàn lạnh, mà Hỏa có thể sinh trợ Thổ, Thổ có thể sinh trợ Kim, Thổ Kim là mẹ con tương sinh, có thể thành công. Kim cũng ưa Tỷ kiên nhưng cần có Hỏa xuất hiện mới có thể ôn dưỡng Quan ấn.Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Thủy sinh mùa xuân. Thủy của mùa xuân vừa đúng thời điểm quá tràn trề, nếu lại gặp Thủy phù trì sợ rằng sẽ bị lỡ đê điều, tràn trề thành lũ lụt. Nếu cần dùng Hỏa điều hòa, hình thành Thủy Hỏa ký tế thì Hỏa cũng không thể quá nhiều. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Thủy sinh mùa thu. Thủy của mùa thu, vì Kim tư lệnh đương quyền, do đó Kim Thủy tương sinh, mẹ vượng con tướng. Hỏa thịnh vượng thì Thủy có thể khắc Hỏa, đại diện cho nhiều tài phú. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Thủy sinh mùa đông. Thủy của mùa đông, tư lệnh đương quyền, gặp Hỏa thì có thể giải trừ hàn lạnh, gặp Thổ sẽ bị khắc, thu hình thể.
Thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy) đề xuất bởi bác sĩ Jacques Ménétrier và Gabriel Bertrand, vào giữa thế kỷ 20. Những người thực hành Thạch Lý Học áp dụng lý thuyết này trong việc trị liệu thông qua cơ sở giống như Thuyết Vi Lượng Đồng Căn (Homeopathy) của Samuel Hahnemann. Christian Friedrich Samuel Hahnemann (1755-1843), một nhà vật lý học, hóa học và y học người Đức, đã đưa ra một lý thuyết liên quan đến sự quan hệ yếu tố trong chứng và chất của cơ thể người, sau này phát triển thành hệ thống Vi Lượng Đồng Căn. Mỗi vi lượng trong đá được cho là sẽ tác động đến vi lượng tương ứng trong cơ thể người, và nhờ đó bộ phận chứa vi lượng đó được chữa khỏi. Mỗi viên đá, bằng vi lượng chứa trong nó, được tin là sẽ tác động lên phần sinh lý cơ thể, giúp gợi ý cho việc chữa bệnh hoặc tác động lên tinh thần. Trong thành phần của thạch anh ngoài thành phần chính còn có thể chứa một số chất hơi, chất lỏng: CO2, H2O, NaCl, CaCO3,... Các khoáng vật của nhóm thạch anh có công thức rất đơn giản SiO2, là một loạt biến thể đa hình gồm 3 biến thể độc lập: thạch anh, tridimit và cristobalit và tuỳ thuộc vào nhiệt độ, chúng sẽ tồn tại ở các dạng nhất định. Biến thể nhiệt độ cao của thạch anh kết tinh trong hệ lục phương, biến thể thạch anh vững bền ở nhiệt độ dưới 573 °C kết tinh trong hệ tam phương. Dạng tinh thể thường hay gặp là dạng lưỡng tháp lục phương với các mặt lăng trụ rất ngắn hoặc không có. Thạch anh chỉ thành những tinh thể đẹp trong các hỗng hoặc các môi trường hở, có trường hợp gặp các tinh thể nặng tới một vài tấn có khi tới 40 tấn.
Ở Việt Nam, thuyết Vi Lượng được nhắc đến duy nhất trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh, nhưng khá sơ khai, vì cho rằng đây là thuyết phức tạp, chuyên sâu. Các cuốn khác, hầu như không hề biết gì về thuyết này.
Thuyết Vi Lượng Trị Liệu cho rằng thành phần Silic trong thạch anh có tác dụng trị liệu. Trong cơ thể con người, silic chiếm chỉ số năng lượng (MASS) là 0,0023, vì vậy nó tác động tích cực cho sức khỏe, mặc dù, tác dụng không rõ ràng ở chứng bệnh hay vị trí nào của cơ thể. Trong thành phần của Ametrine ngoài thành phần chính là Thạch Anh. Thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy) cho rằng thành phần Silic trong thạch anh có tác dụng trị liệu. Trong cơ thể con người, silic chiếm chỉ số năng lượng (MASS) là 0,0023, vì vậy nó tác động tích cực cho sức khỏe, mặc dù, tác dụng không rõ ràng ở chứng bệnh hay vị trí nào của cơ thể. Nguyên tố Oxygen (O) có số nguyên tử là 8, chiếm tỉ trọng trong cơ thể người là 0.65. Thành phần của nguyên tố này trong cơ thể trung bình là 43kg chiếm tỷ lệ là 24%. Tác động đến sức khỏe và sự sống của hầu hết các loài động thực vật trên thế giới.
Thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves) của Newlands ứng dụng trong giả kim thuật, cho phép tính toán sự liên hệ của khoáng chất trong đá và chiêm tinh,từ đó suy dẫn đến các ứng dụng của đá lên cơ thể con người. Vào năm 1864, John Alexander Reina Newlands (1837-1898), nhà hóa học người Anh, tìm ra quy luật bát bội: Mỗi nguyên tố hóa học đều thể hiện tính chất tương tự như nguyên tố thứ 8 khi xếp các nguyên tố theo khối lượng nguyên tử tăng dần. Điều này kích thích các nhà huyền học giả kim thuật vì giả kim từ lâu không thể tạo ra bất kỳ quy luật nào tương xứng phù hợp với khoa học hiện đại. Quy luật số 8 ứng với tám hành tinh (gồm cả trái đất) mà nền tảng của nó đã có từ lâu, và còn tương ứng nhiều hình thức tâm linh huyền học khác liên đới với con số 8 như Geomancy (bói đất). Từ đó người ta (mà nổi tiếng nhất là nhà huyền học George Ivanovich Gurdjieff, người cực kỳ yêu quý thuyết Law of Octaves) xây dựng nên hệ tính để tìm ra nguyên tố chủ đạo và hành tinh chủ đạo trong một viên đá. Từ đó, dẫn suy ra những đặc tính chữa bệnh hoặc tác động lên tinh thần.
Ở Việt Nam, hầu như không có sách nào đề cập đến thuyết này. Ngay cả ở những sách nước ngoài cũng rất hiếm gặp. Thường ở các sách huyền học như các tạp bản của George Gurdjieff, và người kế thừa dưới dạng các enneagram (bát tố đồ).
Thuyết Hài Hòa Bộ Tám cho rằng loại đá này mang yếu tố mộc tinh, vì vậy có tác động lên vùng bụng, gan, tuyến yên, lớp mỡ quanh eo, đùi. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến sự nghèo khó (suy dinh dưỡng) và cả giàu có (béo phì), các chứng liên quan đến bụng, gan (đau bụng). Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là trấn giữ các mối quan hệ của nhà chiêm tinh thứ 2 và 9: tài sản, tiền bạc (nhà Lucrum) và du hành, du lịch (nhà Iter). Dành hỗ trợ cho những người có vấn đề với tiền bạc hay gặp vận rủi, những người muốn đi du lịch, hay di cư không được xuông sẻ, thúc đẩy tiền bạc và thường xuyên du hành. tăng cường vật chất và sở hữu, đặc biệt là sự phát triển, thịnh vượng, may mắn, tự do, du hành, luật pháp, nhân đạo,... nhấn mạnh đến yếu tố giàu có vật chất. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố mộc tinh bảo trợ về địa lý và cấu trúc nói chung (Dante Alighieri). Vì vậy, đá này dành cho những người làm trong lĩnh vực liên quan đến các địa lý và du lịch như hướng dẫn viên du lịch, phi công, hoa tiêu, tài xế, cục địa dư, tàu hỏa, khảo cổ, xây dựng cầu đường...
Thuyết Thái Lặc Mã (Thelema) đề xuất bởi nhà huyền học Aleser Crowley, đầu thế kỷ 20, mặc dù bản thệ thống của nó, được thừa hưởng thừ Hội Kín Kim Bình Minh ra đời vào thế kỷ 19. Hệ thống Thelema được ứng dụng trong Thạch Lý Học thông qua mối liên hệ với Sinh Thụ (Tree of Life), một lý thuyết của người Do Thái ra đời cùng thời với Kinh Cựu Ước. Hệ thống dựa trên các sách tương ứng do sự đóng góp của nhiều nhà huyền học khác nhau: McGregors Mathers, Paul Foster Case… đặc biệt được tổng hợp trong cuốn Kinh Liber 777.
Ở Việt Nam, thuyết Thelema hầu như chưa bao giờ được nhắc đến trong tất cả các sách về Thạch Lý Học đã xuất bản. Tuy nhiên, rất nhiều tài liệu về huyền học phương tây do những du học sinh tại Hải Ngoại được đăng trên các trang mạng, sử dụng hệ thống này của Thelema. Thuyết này được các nhóm huyền học phương tây sử dụng rộng rãi ở thời kỳ Internet nở rộ khoảng năm 2012, bởi các nhóm nghiên cứu Huyền Bí Học và Ma Thuật Học, như nhóm Huyền Học Phương Tây, Hội Tarot Huyền Bí.
Thuyết Thelema cho rằng Ametrine gắng liền với Sepheroth số 9 Yesod. Yesod được dẫn dắt bởi mặt trăng, nó làm chúng ta khó nhận ra đâu là thực tại, đâu là ảo ảnh bóng đêm. Mặt trăng là một phần của thế giới chúng ta nhưng cùng lúc, lại không thuộc thế giới này. Nó là nơi của sự tưởng tượng và những giấc mơ. Trong Liber 777, nó được coi là chữa trị cho các biểu hiện bệnh tật của phần mu và cơ quan sinh dục của con người và có tác dụng chữa trị với chứng bất lực.
Thuyết Reiki (Linh Khí), dựa trên sự kết hợp của hệ thống Kinh Lạc trong Y Thuật Trung Hoa, hệ thống Luân Xa trong Y Thuật Ấn Độ và thuyết Ngũ Hành trong thạch học, dùng trong xoa bóp, ấn huyệt, được đề xuất bởi Mikao Usui năm 1922. Nếu hệ thống luân xa thật sự ít khi được áp dụng trong Reiki thực hành, hệ thống Kinh Lạc lại được sử dụng trong ấn huyệt rất rộng rãi. Kinh lạc là đường khí huyết vận hành trong cơ thể, đường chính của nó gọi là kinh, nhánh của nó gọi là lạc, kinh với lạc liên kết đan xen ngang dọc, liên thông trên dưới trong ngoài, là cái lưới liên lạc toàn thân. Kinh lạc phân ra hai loại kinh mạch và lạc mạch.Trong kinh mạch gồm chính kinh và kỳ kinh, chính kinh có mười hai sợi, tả hữu đối xứng, tức thủ túc tam âm kinh và thủ túc tam dương kinh, gọi chung mười hai kinh mạch, mỗi kinh thuộc một tạng hoặc một phủ. Kỳ kinh có tám sợi, tức đốc mạch, nhâm mạch, xung mạch, đái mạch, âm duy mạch, dương duy mạch, âm kiểu mạch, dương kiểu mạch. Thông thường nhắc đến mười hai kinh mạch và thêm vào hai mạch nhâm đốc gọi chung mười bốn kinh mạch chính. Bệnh tật đều do sự vận hành bế tắc của khí luân chuyển trong 12 kinh mạch này, nếu được khơi thông, ắt sẽ hết bệnh tật. Y Tông Tâm Lĩnh bàn về Kinh Lạc nói, mười hai kinh lạc, có Thủ thái âm phế kinh (手太阴肺经) thuộc về hành Kim, Thủ thiếu âm tâm kinh ( 手少阴心经) thuộc về hành Hỏa, Thủ quyết âm tâm bào kinh (手厥阴心包经) thuộc về hành Hỏa, Thủ thiếu dương tam tiêu kinh (手少阳三焦经) thuộc về hành Hỏa, Thủ thái dương tiểu tràng kinh (手太阳小肠经) thuộc về hành Hỏa, Thủ dương minh đại tràng kinh (手阳明大肠经) thuộc về hành Kim), Túc thái âm tỳ kinh (足太阴脾经) thuộc về hành Thổ, Túc thiếu âm thận kinh (足少阴肾经) thuộc về hành Thủy, Túc quyết âm can kinh (足厥阴肝经) thuộc về hành Mộc, Túc thiếu dương đảm kinh (足少阳胆经) thuộc về hành Mộc, Túc thái dương bàng quang kinh (足太阳膀胱经) thuộc về hành Thủy, Túc dương minh vị kinh (足阳明胃经) thuộc về hành Thổ. Mỗi mạch lại ứng những bệnh lý khác nhau. Cách sử dụng truyền thống là dùng đá phù hợp làm thành cây ấn huyệt để trị liệu khơi thông kinh mạch, giống với châm cứu.
Ở Việt Nam, hầu như không có tài liệu về môn này hoặc tài liệu về Reiki từng được xuất bản, tuy nhiên, nhiều học giả cho biết đã từng có sách về môn này xuất bản trước 1975 mà chúng tôi chưa có dịp khảo cứu được.
Ametrine có màu cam tím trong hành thủy và thuộc Túc Thái dương Bàng quang Kinh và Túc Thiếu âm Thận Kinh. Kinh Túc Thiếu âm Thận liên quan các chứng ở hệ sinh dục, tiết niệu, ruột, họng, ngực. Ví dụ như huyệt Âm cốc (huyệt hợp thuộc thủy) có tác dụng liên quan đến đau sưng mặt trong đầu gối, tiểu rắt, tiểu buốt, băng lậu, thóat vị, liệt dương; huyệt Hoành cốt (huyệt hội của kinh thiếu âm với mạch xung) có tác dụng liên quan đến đau âm hộ, di tinh, liệt dương, bí tiểu tiện; huyệt Đại hách (huyệt hội của kinh thiếu âm ở chân với mạch xung) có tác dụng liên quan đến đau âm hộ, khí hư, di tinh; huyệt Khí huyệt (huyệt hội của kinh thiếu âm ở chân với mạch xung) có tác dụng liên quan đến kinh nguyệt không đều, tiêu chảy; huyệt Tứ mãn (huyệt hội của kinh thiếu âm ở chân với mạch xung) có tác dụng liên quan đến băng huyết, kinh nguyệt không đều, sau khi đẻ đau bụng, tiêu chảy. Kinh Túc Thái Dương Bàng Quang liên quan đến bệnh ở mắt, mũi, đầu, gáy, thắt lưng, hậu môn, não, sôt, bệnh các tạng phủ (dùng các huyệt Du sau lưng). Ví dụ như huyệt Đại Trữ có tác dụng liên quan đến cứng cổ gáy, đau nhức vai, đau đầu, cảm phong hàn, ho, sốt không có mồ hôi, nhức xương; huyệt Phong Môn (Nhiệt phủ - Huyệt Hội của kinh Thái dương ở chân với mạch Đốc) có tác dụng liên quan đến đau phần trên lưng, đau cứng gáy, đau đầu, cảm mạo, ho, sốt, nóng vùng ngực, cứu có thể phòng bệnh cảm mạo; huyệt Phế Du (Huyệt Du của Phế) có tác dụng liên quan đến đau lưng, cứng gáy, vẹo cổ, lao phổi, ho, ho ra máu, hen suyễn, sốt âm, ra mồ hôi trộm; huyệt Quyết Âm Du (Huyệt Du của Tâm bào) có tác dụng liên quan đến Ho, đau tim, nôn mửa, tức ngực.
Thuyết Bát Quái Kinh Dịch (Iching Therapy), mặc dù được lấy từ lý thuyết của châu Á, nhưng việc áp dụng nó vào thạch lý học thì lại do các nhà huyền học Nga, gần gũi với lý thuyết Thông Thiên Học, ra đời vào những năm 1980. Ở Việt Nam, thuyết này ít được phát triển, đại diện chỉ có Ts Hoàng Thế Ngữ, Chủ Tịch Hội Đá Quý Việt Nam, tốt nghiệp tại Nga, dùng trong cuốn Đá Quý Việt Nam, nhưng chỉ dùng cấu trúc hình thái tinh hệ để luận. Cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, tuy có dẫn ra phép Bát Quái, nhưng lại chỉ dựa trên màu sắc của Ngũ Hành để luận. Cả hai đều rất sơ khai. Dựa vào hình thái tinh hệ của tinh thể gồm tám loại, được phân định thành tám quái thuộc nội quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập Phương (cubic - isometric) ứng Càn , Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam Phương (rhombohedral) ứng Ly, Lục Phương (hexagonal) ứng Đoài, Tam Tà (triclinic) ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic) ứng Tốn, Phi Tinh (noncrystallinic) ứng Khôn. Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng khác: Lập Phương ứng Càn, Tam Tà ứng Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn, Tam Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở đây chỉ trình bày thuyết của Thông Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm tám màu, ứng với tám quái thuộc ngoại quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính, đều nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ nhất được trình bày trong I-ching: Binary Numbers, Astrology, And Chakras, dựa trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng, Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ, Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành ứng bát quái cho rằng: Càn ứng dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn ứng cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề xuất dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam, Cấn ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại quái tương ứng với hình dạng và màu sắc của tinh thể, từ đó tính ra được quái trong 64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại ứng một bộ phận cơ thể theo y lý trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể.
Theo thuyết Bát Quái Kinh Dịch, đá Ametrine có màu tím cam tương ứng quẻ ngoại quái Cấn, có tinh hệ Lục Phương tương ứng quẻ nội quái Đoài, ghép lại chính là quẻ quái số 41: quẻ Sơn Trạch Tổn. Quái 41 ứng với vị trí chân trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên quan đến hệ vận động như mụn cóc bàn chân, ngón chân búa, u dây thần kinh,... Quẻ Sơn Trạch Tổn có nghĩa: Tốn là giảm bớt, phàm việc nén bớt sự thái quá, để tới nghĩa lý, đều là đạo “bớt” vậy. Đạo “bớt” ắt có thành tín, nghĩa là chí thành thuận lý vậy. Bớt mà thuận lý thì cả thiện mà tốt. Cái đã bớt mà không quá sai, thì có thể chính bền, thường làm mà lợi có thửa đi vậy, người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy.
Thuyết Phật Giáo Mật Tông là phái phật giáo duy nhất có ứng dụng trong Thạch Lý Học. Lý thuyết dựa trên hình ảnh của Ngũ Trí Như Lai và Tử Thư. Ngũ Phật còn gọi là Ngũ Trí Như Lai, Ngũ Trí Phật, Ngũ Phương phật, hay còn được gọi Ngũ Thiền Định Phật; là tên gọi chỉ năm vị Phật trong Mật Tông, lấy Đại Nhật Như Lai làm chủ tôn, có sự khu biệt giữa Ngũ Phật giới Kim Cương và Ngũ Phật giới Thai Tạng. Năm đức Phật này đại diện cho 5 phẩm chất của con người và tạo ra sự tuyệt mỹ và hay nhất để phá bỏ những sai trái trong 5 phẩm chất đó. Mỗi đức Phật là một con đường tuyệt diệu để đi đến cảnh giới Niết Bàn và Vô sanh. Tu theo những vị đó sẽ mau chóng vào được cung điện Niết Bàn. Ngũ trí Như Lai là 5 vị Phật tối cao của Phật giáo Tây Tạng. Năm vị phật này đại diện bởi năm màu, gọi là Ngũ Sắc Trí (pancha-varna): Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairochana) đại diện bởi màu trắng và tím, A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya) đại diện bởi màu lam và đen, Bảo Sanh Như Lai (Ratnasambhava) đại diện bởi màu vàng và cam, A Di Đà Như Lai (Amitabha) đại diện bởi màu đỏ và hồng, Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi) đại diện bởi màu lục. Nitin Kumar căn cứ vào kinh điển Chandamaharosana Tantra dẫn ra những quy tắc sử dụng màu săc trong mật tông, đáng chú ý cho rằng: màu lam đại diện cho phẫn nộ tướng ứng vị trí tai, màu vàng đại diện cho sinh dưỡng tướng ứng vị trí mũi, màu đỏ đại diện cho vô úy tướng ứng miệng, màu lục đại diện cho uy đức tướng ứng vị trí đầu. Trong Tử Thư Tây Tạng cũng tuyên về màu sắc tương ứng lục đạo: ánh sáng trắng là của cõi trời, ánh sáng đỏ là của cõi Atula, ánh sáng lam là của cõi người, ánh sáng lục là của cõi súc sanh, ánh sáng vàng là của cõi quỷ đói, ánh sáng xám là của cõi địa ngục.
Ở Việt Nam, thuyết này hầu như chưa bao giờ được nhắc đến trong các sách Thạch Lý Học đã xuất bản. Tuy nhiên một số kinh sách về ngũ sắc trí đã được dịch và xuất bản những năm gần đây như Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe Trong Bardo của Guru Rinpoche, Những Giáo Pháp Bí Mật Của Tử Thư Tây Tạng của Detlef Ingo Lauf.
Đá Ametrine có màu tím, là bổn sắc của Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairochana). Ngài là sự chuyển hóa của vô minh thành trí huệ. Màu tím và trắng đại diện cho thanh tịnh tướng ứng với mắt. Đeo Ametrine sẽ được Tỳ Lô Giá Na Như Lai Phật hộ trì, hỗ trợ về mắt và sự tinh anh. Vì đây cũng là màu của cõi trời, đá Ametrine được coi là bùa hộ về sắc dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về sắc dục thông qua vị phật phẫn nộ. Tử Thư nói về màu tím như sau: Này thiện nam (tín nữ), một vị có tên là Heruka Phật Vĩ Đại Vinh Quang (Glorious Great Buddha-Heruka) sẽ nổi lên từ trong đầu con và xuất hiện trước mặt con rất rõ nét và rất thực: thân ngài màu rượu nho với ba đầu sáu tay và bốn chân soải vươn ra, chín con mắt ngài nhìn chằm chặp vào con với một khí thế phẫn nộ, chân mày giống như một tia chớp sáng, răng ngài lóe sáng ánh màu đồng, ngài cười lớn với tiếng “a-la-la” và “ha-ha” và phát ra những tiếng huýt sáo lớn như “shoo-oo!”. Con đừng sợ ngài, đừng kinh hãi, đừng hoảng hốt. Con hãy nhận ra ngài chính là hình tướng của tự tâm con. Ngài là vị yidam (bổn tôn) của con, cho nên con đừng sợ hãi. Ngài thật sự là Phật Tỳ Lô Giá Na cùng với người phối ngẫu, cho nên con đừng sợ. Nếu con nhận ra con sẽ được giải thoát ngay tức khắc. Những người cần sử dụng tri tuệ hay gặp sự bế tắt trong cuộc sống có thể dùng loại đá màu trắng để giải trừ.
Nơi tìm thấy: Nguồn cung cấp Ametrin chính cho thị trường quốc tế là Boolivia. Khu mỏ Ametrin được biết tới lần đầu tiên từ thế kĩ thứ 17, khi đó nhà chinh phục người Tây Ban Nha Đôn Filipe de Uriola-i-Goitia lấy vợ - một công chúa bản xứ thuộc bộ lạc người da đỏ Aureiros và nhận được của hồi môn là khu mỏ Anahy. Từ khu mỏ này khai thác được những viên đá Ametrin chất lượng tuyệt hảo. Ametrin dễ cắt gọt, vì vậy thường gặp những viên đá có hình thù kì lạ.
Lời cảm ơn: bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến sĩ Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu tập Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments