Aventurine

Aventurine
东陵玉 - Ngọc Đông Lăng


Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị Liệu, Thạch Học Trị Liệu dịch từ chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ. Lithotherapy phân thành Litho đến từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá, therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ] tức là chữa trị, lithotherapy tức là chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với đá ở ngoài da. Lithotherapy là một môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận huyền học và thần bí học. Mặc dù có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả năng của nó, đã được ứng dụng từ lâu trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại, nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức màn bí mật của những điều thần kỳ giống như nền Đông Y của người Trung Quốc hay Nam Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc biệt trình bày về những lý luận căn bản trong Thạch Lý Học đối với Đông Lăng Ngọc (Aventurine), nằm trong chuỗi khảo cứu, viết riêng cho tuần báo UNESCO.

Giới thiệu đá: Aventurine có tên trong tiếng Trung Hoa là Sa Kim Thạch, do sự lấp lánh đặc biệt của loại đá này, gây ra bởi thành phần mica mà hình thành tên. Tên gốc Aventurine, có nguồn gốc từ tiếng Ý, là “a ventura” có nghĩa là “may mắn”, vì vậy được coi là một loại đá mang lại vận may cho người tìm thấy hay đeo chúng. Truyền thuyết cho rằng, loại đá này là vỡ ra từ những quả của cây hạnh phúc ở nơi Thượng Giới. Ở Việt Nam, loại đá này được gọi là 东陵玉 (Ngọc Đông Lăng nghĩa là ngọc khảm trên lăng phía đông của Vua), có lẽ xuất xứ từ nguồn gốc Nhật Bản của nó. Vào thời trung cổ, loại ngọc này được nhập vào Trung Hoa từ Nhật Bản. Loại đá này từ lâu, được xếp vào nhóm đá ngọc, do màu sắc và tính chất tương tự như ngọc bích. Aventurine chống lại bệnh viêm da dị ứng, phát ban, viêm da thần kinh và rụng tóc. Những sản phẩm làm từ Aventurine giúp làm giảm áp lực, chữa bệnh viêm phế quảng và cảm lạnh. Massage bằng quả cầu Aventurine rất có ích. Đặc biệt, chuỗi hạt aventurine màu xanh lá cây xẫm có tác dụng trị liệu rất tốt. Nhiều người tin rằng Aventurine là lá bùa giữa gìn tâm trạng vui sướng. Nó giúp người ta tìm thấy tinh thần sảng khoái và trí óc sáng suốt, tăng cường sự lạc quan và tự tin. Loại đá này được cho là có khả năng làm nảy sinh thiện cảm, gia tăng cảm xúc và tình cảm. Thiền định với khối tháp bằng Aventurine mang lại cảm giác sâu lắng và ấm áp.

Giới thiệu các thuyết: Giá trị thạch lý học của Aventurine được trình bày thành các thuyết cơ bản: thuyết Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học (Chromotherapy), thuyết Linh Khí (Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves), thuyết Thái Lặc Mã (Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết Hoa Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié).

Thuyết Đông Phương Bản Mệnh có nhiều luận thuyết khác nhau. Theo phép tính theo năm, Phương Đông dựa trên Can Chi, lập luận dựa trên ngũ hành, phối màu tạo nên bộ hoa giáp sắc pháp. Từ Giáp Tý là sắc đỏ ban mai, chuyển dần cho đến Quý Hợi là sắc tím trời khuya, tạo nên hơn 60 màu khác nhau. Theo phép tính theo tháng, người ta căn cứ vào địa chi của tháng sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần, tháng 2 là Mão, tháng 3 là Thìn, tháng 4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi, tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu, tháng 9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu, cùng phối hợp với ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng dùng đá có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ thuộc Hỏa (ứng dùng đá có tông màu cam đỏ hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có tông màu trắng, xám, ánh bạc), Tý Hợi thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu đen, chàm, tím), Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ (ứng dùng đá có tông màu vàng, trong, ánh kim). Thuyết về tháng bản mệnh này được dùng nhiều rộng rãi vì đơn giản, dễ tính ra. Ở Việt Nam, cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh đều có nói đến thuyết này. Tuy nhiên, sự phân định màu sắc và ngũ hành không giống nhau. Ví dụ như Ts Hoàng Thế Ngữ trong cuốn Đá Quý Việt Nam đưa ra Hỏa ứng màu đỏ, Thủy ứng màu xanh, Thổ ứng màu nâu, Mộc ứng màu lục, Kim ứng màu vàng trắng đen. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định khác Hỏa ứng màu đỏ hồng tím, Thủy ứng màu đen sẫm, Thổ ứng vàng nâu, Mộc ứng lam lục, Kim ứng trắng bạc.

Thuyết Bản Mệnh phương đông xếp loại đá này vào năm Canh Tý, thuộc Kim Cục, về Dương Phần. Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Canh Tý sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu xanh lục, thuộc về hành Mộc, ứng về tháng Dần Mão, tức tháng 1, 2.

Thuyết Tây Phương Bản Mệnh là thuyết rất cơ bản của Thạch Lý Học Phương Tây, dựa trên Cung Hoàng Đạo, mười hai cung mỗi cung chủ chế một màu, tùy vào ngày bản sinh mà màu sắc đậm nhạt khác nhau theo thời gian, từ đó luận về đá bản sinh (Birthstones) được dùng nhiều trong văn hóa phương tây. Mặc dù vậy, hầu hết các tài liệu đều xếp tương đối bất đồng, từ thế kỷ 16 trở đi, hầu hết không được thống nhất. Ở đây, chỉ trích dẫn những quan điểm được công nhận rộng rãi. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo tháng như sau: tháng một màu đỏ cam, tháng hai màu tím tươi, tháng ba màu xanh lam, tháng tư màu trắng trong, tháng năm màu lục đen, tháng sáu màu trắng đục, tháng bảy màu đỏ tươi, tháng tám màu xanh chuối, tháng chín màu xanh lá, tháng mười màu đen, tháng mười một màu vàng, tháng mười hai màu chàm. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo hoàng đạo như sau: Bạch Dương màu xanh đen, Kim Ngưu màu xanh dương đậm, Song Tử màu trắng trong, Cự Giải màu xanh lá mạ, Sư Tử màu đen, Xử Nữ màu cam, Thiên Bình màu lục nhạt, Thiên Yết màu lam, Nhân Mã màu vàng, Ma Kết màu đỏ tươi, Bảo Bình màu đỏ sậm, Song Ngư màu tím. Thuyết bản mệnh Phương Tây được ứng dụng rộng rãi trong đời sống từ thế kỷ 18, có tương đối nhiều các dị biệt tùy vào sách. Ở Việt Nam, thuyết này cũng được sử dụng khá nhiều, nhưng không hiểu vì sao trong tất cả các cuốn Thạch Lý Học của Việt Nam, ngoại trừ cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc và cuốn Tất Cả Về Khoáng Vật Chữa Bệnh Mầu Nhiệm (dịch của Jasper Stones của Nga), đều không nhắc đến thuyết này.

Đá này màu xanh lục được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng chín, mùa thu và xếp vào đá bản mệnh của cung Cự Giải, thuộc hệ nước. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 22 tháng 6 đến 22 tháng 7 hằng năm, hoặc vào tháng 7 thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này.

Thuyết Quang Lý Học (Chromatherapy) được ra đời rất lâu từ giả kim thuật, nhưng chính thức định hình đặt tên bởi tiến sĩ Christian Agrapart. Thạch Lý Học sử dụng lại thuật ngữ này, nhưng không sử dụng liệu pháp ánh sáng như Agrapart mà lý luận dựa trên màu của loại đá. Nó gồm một phần nghiên cứu về màu sắc trong y học của Agrapart và một phần nghiên cứu về màu sắc trong tâm lý học. Màu sắc trong tâm lý học đã được nghiên cứu lâu đời như bảng phân chia màu sắc và tâm trạng "rose of temperaments" (Temperamenten Rose) của Goethe và Schiller (1798). Nhưng nghệ thuật này chỉ thăng hoa nhờ nghiên cứu của Carl Jung khi ghép tính biểu tượng của màu sắc vào tâm lý con người. Từ đó, những người nghiên cứu sau này sử dụng sự tương ứng màu sắc đó trong viên đá và đặt nền tảng lý thuyết cho Thạch Lý Học. Dựa vào bảng màu sắc đó, cho phép gợi ý đến tác động chữa bệnh hoặc lên tinh thần con người.

Ở Việt Nam, thuyết Quang Lý Học này cũng được sử dụng rộng rãi. Hầu hết các sách đều có đề cập trừ cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Trong đó cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh có thể coi là chi tiết nhất về thuyết này.

Thuyết Quang Lý Học cho rằng màu xanh lục tượng trưng cho sinh sản và phát triển. Người La Mã đã đánh giá cao màu xanh lá cây. Nó là màu sắc của Venus – vị thần của những khu vườn, hoa màu và vườn nho. Đối với người Ai Cập cổ, màu xanh lá cây có mối liên kết rất tích cực. Chữ tượng hình có màu xanh lá cây biểu hiện cho sự phát triển tốt của cây Papyrus – cây cói, cho thấy sự liên kết chặc chẽ giữa cây xanh, hoa màu, sức sống và sự phát triển. Trên những bức tranh tường, Osiris – Vị thần cai trị cõi âm, thường được vẽ với khuôn mặt màu lục, vì màu này tượng trưng cho sức khỏe và sự tái sinh. Các bảng màu xanh dùng để trang điểm khuôn mặt được làm từ Malachite được tìm thấy trong các ngôi mộ, chúng được sử dụng cho cả người chết và người sống, đặc biệt là vùng mắt, để bảo vệ họ khỏi cái ác và những điều xấu. Những lăng mộ thường có những chiếc bùa màu lục hình con bọ cánh cứng nhỏ làm bằng Malachite, chúng sẽ bảo về và cung cấp sức mạnh cho những người quá cố. Loại đá này tăng cường khả năng sinh sản, phát triển, chúng có tác dụng phát triển dành cho những người yếu về sinh lực và sinh lý, dành cho bà mẹ đang có thai hoặc trẻ nhỏ còi cọc. Nó cũng là hòn đá dành cho người hộ sinh, hoặc cách ngành chăm sóc sức khỏe, khoa sản.

Thuyết Luân Xa (Chakra) được trình bày trong trào lưu Thời Đại Mới (New Age) bởi các lãnh tụ Thông Thiên Học như Johann Georg Gichtel, hoặc Yoga như Swami Sivananda. Vẫn vận dụng chủ yếu là màu sắc của viên đá, được dịch nghĩa theo hình ảnh các luân xa trong văn hóa Ấn Độ trong Áo Nghĩa Thư. Từ nguyên thủy trong tiếng Sanskrit cakra mang ý nghĩa là "bánh xe" hay "vòng tròn", các luân xa được miêu tả như là xếp thành một cột thẳng từ gốc của cột sống lên đến đỉnh đầu, liên quan tới một số chức năng tâm sinh lý, một khía cạnh của nhận thức, đánh dấu bởi một màu sắc nào đó. Chúng thường được hình tượng hóa bằng các hoa sen với số cánh khác nhau cho mỗi luân xa. Các luân xa được cho là đem lại năng lượng cho cơ thể và có liên quan đến các phản ứng của cơ thể, tình cảm hay tâm lý của một người, là các điểm chứa năng lượng sống (prana, cũng được gọi là shakti) lưu chuyển giữa các điểm đó dọc theo các đường chảy (gọi là nadis). Chức năng của các chakra là xoay tròn để thu hút vào năng lượng sống từ viên đá để giữ cân bằng cho sức khỏe về tâm linh, tâm lý, tình cảm và sinh lý của cơ thể.

Ở Việt Nam, thuyết Luân Xa được biết đến rộng rãi nhất trong số các thuyết về thạch lý học. Tất cả các sách đều có đề cập đến thuyết này trừ cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Sự nhận định cũng ít nhiều sai khác. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định Luân xa gốc ứng màu đỏ đen, luân xa xương cùng ứng màu cam phấn hồng, luân xa thái dương ứng màu vàng, luân xa tim ứng màu xanh lá, luân xa họng ứng màu xanh lam, luân xa trán ứng màu chàm tím, luân xa vương miện ứng màu trắng và tím nhạt.

Thuyết Luân Xa cho rằng loại đá này màu lục tương ứng với luân xa tim Anahata (Hoa Sen Mười Hai Cánh). Anahata, chakra tim là chakra chính thứ tư, theo Hindu Yogic, Shakta và truyền thống Tantric Phật giáo. Trong tiếng Phạn, anahata có nghĩa là "không hề hấn gì, không làm phiền, và không bị đánh bại". Loại đá này tăng cường tình cảm, lòng nhân ái, từ bi. Đặt viên đá ngay vị trí ngực, giữa ức, nơi có luân xa. Trong truyền thống Bindu, phía trên âm tiết là vị thần Isha. Isha có màu trắng sáng hoặc màu xanh lam. Ông có một hoặc năm khuôn mặt, với ba mắt trên mỗi mặt. Ông ta có thể có hai, bốn hoặc mười cánh tay. Ông ta được mặc đồ da hổ, giữ một cái đinh ba và trống, ban phép lành, và xua tan nỗi sợ hãi. Shakti của anh ấy là nữ thần Kakini, người màu vàng sáng hoặc màu hồng. Cô có một số biến thể: một, ba hoặc sáu khuôn mặt; hai hoặc bốn cánh tay; và giữ một loạt các dụng cụ (đôi khi là một thanh kiếm, lá chắn, hộp sọ hoặc tam giác). Cô ngồi trên hoa sen đỏ. Mười hai cánh hoa đỏ được khắc với âm tiết kam, kham, gam, gham, ngam, cham, chham, jam, jham, nyam, tam và tham trong tiếng Phạn. Chúng ứng với sự tò mò của dục vọng, gian lận, bấp bênh, ăn năn, hy vọng, lo lắng, khao khát, vô tư, kiêu căng, năng lực, phân biệt và thách thức. Nó còn tác động tim, hệ miễn dịch, hệ hô hấp, phổi, lồng ngực, tác dụng cải thiện dành cho những người thiếu cảm thông, hoặc bị xơ cứng cảm xúc. Những người trong các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe như y tế viên, bác sĩ, y tá, dược sĩ hoặc lĩnh vực giáo dục như giáo viên, giáo sư, nhân viên cộng đồng cũng là những đối tượng của loại đá này. Những người trong vị trí khắc nghiệt (đao phủ) cũng hay sử dụng loại đá này để trị liệu tâm hồn. Theo cuốn “Tất cả về khoáng vật chữa bệnh màu nhiệm” của Jasper Stone, ông cho rằng Aventurine có ảnh hưởng đến luân xa: Luân xa vùng tim: tác động đến hệ thống tim mạch, tế bào tuyết vú, cột sống và hai tay; giúp khởi sinh lòng nhân ái, tính chân thành cởi mở, sự nhạy cảm; củng cố ý chí biến đổi thế giới. Năng lượng chiếu xạ của Dương.

Thuyết Hoa Giáp (Hwangap) dựa trên lý học phương đông, canh theo can chi bản mệnh của một người theo ngày tháng năm sinh, rồi tính sự xung khắc hay tương hợp trong ngũ hành. Từ đó đưa ra nguyên tắc vận dụng trong thạch học, nhờ vào ngũ hành trong khoáng thạch đối chế lại với bản mệnh, nhằm điều hòa bản thân. Thuyết Ngũ Hành quy định theo thiên can: Giáp Ất thuộc Mộc, Bính Đinh thuộc Hỏa, Mậu Kỷ thuộc Thổ, Canh Tân thuộc Kim, Nhâm Quý thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành quy định theo địa chi: Dần Mão thuộc Mộc, Ngọ Mùi thuộc Hỏa, Thân Dậu thuộc Kim, Hợi Tý thuộc Thủy, Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ. Từ thiên can, địa chi, quy định nên phối hành của bản mệnh: Mậu Thìn thuộc về Thổ phối Thổ,… Khoáng thạch được phân theo ngũ hành dựa trên màu sắc và hình dạng. Thuyết Ngũ Hành quy định màu sắc: Lục và Lam thuộc Mộc, Đỏ và Cam thuộc Hỏa, Vàng và Trong thuộc Thổ, Trắng và Xám thuộc Kim, Đen và Tím thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành quy định theo thể dạng: trụ và dài thuộc Mộc, nhọn và góc thuộc Hỏa, vuông và cân thuộc Thổ, cong và tròn thuộc Kim, uốn và lượn thuộc Thủy. Từ đó suy ra được phối hành của khoáng thạch: ví dụ Huyền Thiết Thạch (Hematite) đen có thể dạng khối tròn (Botryoidal) được xem là Thủy phối Kim. Thuyết Ngũ Hành quy định tương sinh như sau: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Thuyết Ngũ Hành quy định tương khắc như sau: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc. Dựa vào tương sinh tương khắc của Ngũ Hành để khắc chế hay phù trợ cho bản mệnh thông qua việc đeo những khoáng thạch khác nhau trên cơ thể.

Ở Việt Nam, thuyết Hoa Giáp (Ngũ Hành Can Chi) được trình bày trong hầu hết các sách về Thạch Lý Học, nhưng hầu hết chỉ dừng lại ở lý luận về màu sắc theo ngũ hành. Cá biệt có cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm là có nhắc đến thuyết này ứng dụng lý luận lên hình dạng của tinh thể, tuy nhiên không có khai triển đầy đủ. Thuyết này các phái đạo gia phong thủy khai thác và phát triển rất hoàn chỉnh, được trình bày tóm tắt như bên trên đây.

Thuyết Hoa Giáp cho rằng Đông Lăng Ngọc thuộc về Mộc (xanh) phối Hỏa (nhọn). Do đó, Đông Lăng Ngọc giúp khắc chế các bản mệnh Thủy – Hỏa như Nhâm Ngọ, Quý Tỵ, Bính Tý, Đinh Hợi, vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Đông Lăng Ngọc cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Hỏa (Mộc sinh Hỏa): Giáp Tý, Ất Hợi, Nhâm Dần, Quý Mão, Bính Ngọ, Đinh Tỵ, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại ngọc này.

Thuyết Khí Tiết (Qìjié), dựa trên Ngũ Hành và sự vận hành của Khí Tiết tác động lên con người. Khí Tiết và Bản Mệnh không hòa hợp, tất sinh ra bệnh tật đau yếu. Bệnh tật chính là do tinh khí huyết trong cơ thể bị tổn mà nên, trong là lục phủ ngũ tạng, ngoài là thân thể tứ chi, đều có liên quan đến ngũ hành tương sinh tương khắc. Nếu can chi ngũ hành quá vượng, trong khi khí tiết bất hòa, tất nhiên gây bệnh cho người. Y lý phương đông nói về Thiên Can: Giáp chủ Gan, Ất chủ Mật, Bính chủ Ruột, Đinh chủ Tim, Mậu chủ dạ dày, Kỷ chủ Lách, Canh chủ ruột già, Tân chủ Phổi, Nhâm chủ Bàng Quang, Quý chủ Thận. Y Lý Phương Đông nói về Địa Chi: Tý bệnh về Sa Mang, Sửu bệnh về Bụng, Dần bệnh về Chân, Mão bệnh về Mắt, Thìn bệnh về Lưng, Tỵ bệnh về Mặt, Ngọ bệnh về Tim, Mùi bệnh về Ngực, Thân bệnh về Cổ, Dậu bệnh về Phổi, Hợi bệnh về Da. Sự hương thịnh hay suy tàn của ngũ hành trong khí tiết của thiên can địa chi đều có quan hệ. Người sinh vào bản mệnh Mộc quá vượng, tự khắc tỳ vị có bệnh, nếu nhằm ngay lúc ngày tháng thuộc về khắc tinh của Mộc thì bệnh phát.

Ở Việt Nam, thuyết Khí Tiết được trình bày tương đối cụ thể trong cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Các cuốn Thạch Lý Học khác hầu như không nhắc đến thuyết này.

Thuyết Khí Tiết nói, người có mệnh cục Hỏa (sinh vào ngày Bính Đinh, Tỵ Ngọ) gặp vào những năm tháng ngày thuộc Nhâm Quý, Tý Hợi (thuộc hành Thủy) thì bởi Thủy khắc Hỏa, sinh ra bệnh ở Ruột Tim, biểu hiện ở tiểu tràng và tâm kinh: câm đau miệng, co giật ngưng mủ, đậu mùa, ung nhọt, ghẻ lở, mặt đỏ, nóng nảy. Sách mệnh lý nói: mắt mờ, do Hỏa bị Thủy khắc chế, phải lấy Mộc giải độc, Đông Lăng Ngọc thuộc Mộc, có tác dụng tốt cho thể trạng người Hỏa Cục, nhất là vào những ngày hay tháng Thủy thịnh (Nhâm Quý, Tý Hợi).

Thuyết Tứ Trụ (Sìzhù) có thể ứng dụng từ Bát Tự trong Thuyết Tứ Trụ để bổ cứu, dựa vào màu của đá để tương hỗ lấy mệnh. Chủ yếu dựa vào thiên can, lấy âm dương và ngũ hành của thiên can để tính lấy bốn phép Kiêu Ấn, Thực Thương, Tỷ Kiếp, Quan Sát và Tài, dụng vào địa chi mà thành Thập Thần. Từ đó luận ra được Nhật Can và Nguyệt Lệnh, dựa vào sự phối hợp của nó trong sinh thời mà dự biết lợi yếu của bản mệnh. Biết được lợi yếu của bản mệnh rồi, mới dùng ngũ hành trong đá ngọc mà điều hòa. Có sách viết: Nhật Can mạnh yếu cần có sự tương trợ của Nguyệt Lệnh. Trong trường hợp không có Nguyệt Lệnh hỗ trợ, các can chi trong trụ liền suy yếu. Có thể dùng phương pháp đá phong thủy để bổ cứu, điều hậu cho Nhật Can.


Ở Việt Nam, thuyết Tứ Trụ được sử dụng cực kỳ nhiều, tất cả các sách Thạch Lý Học tại Việt Nam đều có dẫn xuất như cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh , cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc. Tuy nhiên, có khá nhiều sai biệt giữa các sách với nhau về cách tính, điều này cũng dễ hiểu vì đây là ứng dụng tùy thuộc vào cách luận Tứ Trụ. Ở đây chỉ giữ lại một thuyết để thống nhất là sử dụng sách của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm.



Theo thuyết Can Chi Tứ Trụ, đá ngọc thuộc mệnh Mộc rất hạp với mệnh Hỏa sinh vào mùa thu. Hỏa mùa thu phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh mới có thể thịnh vượng, chuyển nguy thành yên bình đồng thời đạt được tài lợi, sẽ không bị khốn đốn. Nếu thân yếu không có Ấn lại gặp Thủy khắc sẽ khó tránh nguy cơ bị tiêu trừ, cơ thể không khỏe mạnh, thậm chí mất mạng. Nếu là Hỏa mùa thu có thân yếu lại gặp Thổ hao tiết, khó sáng và không thể phát huy tài hoa, vất vả cả đời. Nếu thân yếu lại gặp Kim đến tiết hao phần lớn là vất vả, nhiều thất bại, ít thành công, kinh tế khó khăn, nghèo khổ lao đao. Đá ngọc thuộc mệnh Mộc cũng rất hạp với Hỏa sinh mùa đông. Hỏa mùa đông phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh, nếu không Thủy vượng sẽ tiêu diệt Hỏa, mãi mãi khó có thể đứng dậy. Hỏa mùa đông thân yếu có Hỏa đến giúp thì Tỷ Kiếp khác Tài tinh, có thể nhìn thấy tiền tài phát triển thịnh vượng, nhưng duyên với vợ bạc, quan hệ không thân mật, hoặc vợ có tình trạng sức khỏe không tốt. Nếu chỉ có Tỷ Kiếp mà không có Tài, đại diện cho vận thế thuận lợi, không có lợi ích thực tế. Đông Lăng Ngọc thuộc mệnh Mộc cũng rất hạp với mệnh Thủy sinh mùa thu. Thủy của mùa thu, vì Kim tư lệnh đương quyền, do đó Kim Thủy tương sinh, mẹ vượng con tướng. Mộc thịnh vượng thì sẽ tiết hao nguyên khí của Thủy, nhưng con cái sẽ hiển vinh.


Thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy) đề xuất bởi bác sĩ Jacques Ménétrier và Gabriel Bertrand, vào giữa thế kỷ 20. Những người thực hành Thạch Lý Học áp dụng lý thuyết này trong việc trị liệu thông qua cơ sở giống như Thuyết Vi Lượng Đồng Căn (Homeopathy) của Samuel Hahnemann. Christian Friedrich Samuel Hahnemann (1755-1843), một nhà vật lý học, hóa học và y học người Đức, đã đưa ra một lý thuyết liên quan đến sự quan hệ yếu tố trong chứng và chất của cơ thể người, sau này phát triển thành hệ thống Vi Lượng Đồng Căn. Mỗi vi lượng trong đá được cho là sẽ tác động đến vi lượng tương ứng trong cơ thể người, và nhờ đó bộ phận chứa vi lượng đó được chữa khỏi. Mỗi viên đá, bằng vi lượng chứa trong nó, được tin là sẽ tác động lên phần sinh lý cơ thể, giúp gợi ý cho việc chữa bệnh hoặc tác động lên tinh thần.

Ở Việt Nam, thuyết Vi Lượng được nhắc đến duy nhất trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh, nhưng khá sơ khai, vì cho rằng đây là thuyết phức tạp, chuyên sâu. Các cuốn khác, hầu như không hề biết gì về thuyết này.

Thành phần hóa học của aventurine là SiO2, một biến thể của thạch anh.Độ cứng khoảng 6 đến 6,5; tỉ trọng 2.65. Ngoài màu xanh, Ngọc Đông Linh còn có màu đỏ, cam, hay xanh nhẹ, do thành phần Hematite và Goethite gây ra. Ngoài ra, ngọc còn có hiệu ứng lấp lánh đặc trưng do mica fushite tạo thành. Trong thành phần của Ngọc Đông Linh (Aventurine) ngoài thành phần chính Thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy) cho rằng thành phần Silic trong thạch anh có tác dụng trị liệu. Trong cơ thể con người, silic chiếm chỉ số năng lượng (MASS) là 0,0023, vì vậy nó tác động tích cực cho sức khỏe, mặc dù, tác dụng không rõ ràng ở chứng bệnh hay vị trí nào của cơ thể. Nguyên tố Oxygen (O) có số nguyên tử là 8, chiếm tỉ trọng trong cơ thể người là 0.65. Thành phần của nguyên tố này trong cơ thể trung bình là 43kg chiếm tỷ lệ là 24%. Tác động đến sức khỏe và sự sống của hầu hết các loài động thực vật trên thế giới.

Thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves) của Newlands ứng dụng trong giả kim thuật, cho phép tính toán sự liên hệ của khoáng chất trong đá và chiêm tinh,từ đó suy dẫn đến các ứng dụng của đá lên cơ thể con người. Vào năm 1864, John Alexander Reina Newlands (1837-1898), nhà hóa học người Anh, tìm ra quy luật bát bội: Mỗi nguyên tố hóa học đều thể hiện tính chất tương tự như nguyên tố thứ 8 khi xếp các nguyên tố theo khối lượng nguyên tử tăng dần. Điều này kích thích các nhà huyền học giả kim thuật vì giả kim từ lâu không thể tạo ra bất kỳ quy luật nào tương xứng phù hợp với khoa học hiện đại. Quy luật số 8 ứng với tám hành tinh (gồm cả trái đất) mà nền tảng của nó đã có từ lâu, và còn tương ứng nhiều hình thức tâm linh huyền học khác liên đới với con số 8 như Geomancy (bói đất). Từ đó người ta (mà nổi tiếng nhất là nhà huyền học George Ivanovich Gurdjieff, người cực kỳ yêu quý thuyết Law of Octaves) xây dựng nên hệ tính để tìm ra nguyên tố chủ đạo và hành tinh chủ đạo trong một viên đá. Từ đó, dẫn suy ra những đặc tính chữa bệnh hoặc tác động lên tinh thần.

Ở Việt Nam, hầu như không có sách nào đề cập đến thuyết này. Ngay cả ở những sách nước ngoài cũng rất hiếm gặp. Thường ở các sách huyền học như các tạp bản của George Gurdjieff, và người kế thừa dưới dạng các enneagram (bát tố đồ).

Thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves) cho rằng loại đá này mang yếu tố mộc tinh (Jupiter), vì vậy có tác động lên vùng bụng, gan, tuyến yên, lớp mỡ quanh eo, đùi. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến sự nghèo khó (suy dinh dưỡng) và cả giàu có (béo phì), các chứng liên quan đến bụng, gan (đau bụng). Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là trấn giữ các mối quan hệ của nhà chiêm tinh thứ 2 và 9: tài sản, tiền bạc (nhà Lucrum) và du hành, du lịch (nhà Iter). Dành hỗ trợ cho những người có vấn đề với tiền bạc hay gặp vận rủi, những người muốn đi du lịch, hay di cư không được xuông sẻ, thúc đẩy tiền bạc và thường xuyên du hành. tăng cường vật chất và sở hữu, đặc biệt là sự phát triển, thịnh vượng, may mắn, tự do, du hành, luật pháp, nhân đạo, ... nhấn mạnh đến yếu tố giàu có vật chất. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố mộc tinh bảo trợ về địa lý và cấu trúc nói chung (Dante Alighieri). Vì vậy, đá này dành cho những người làm trong lĩnh vực liên quan đến các địa lý và du lịch như hướng dẫn viên du lịch, phi công, hoa tiêu, tài xế, cục địa dư, tàu hỏa, khảo cổ, xây dựng cầu đường...

Thuyết Thái Lặc Mã (Thelema) đề xuất bởi nhà huyền học Aleser Crowley, đầu thế kỷ 20, mặc dù bản thệ thống của nó, được thừa hưởng thừ Hội Kín Kim Bình Minh ra đời vào thế kỷ 19. Hệ thống Thelema được ứng dụng trong Thạch Lý Học thông qua mối liên hệ với Sinh Thụ (Tree of Life), một lý thuyết của người Do Thái ra đời cùng thời với Kinh Cựu Ước. Hệ thống dựa trên các sách tương ứng do sự đóng góp của nhiều nhà huyền học khác nhau: McGregors Mathers, Paul Foster Case… đặc biệt được tổng hợp trong cuốn Kinh Liber 777.


Ở Việt Nam, thuyết Thelema hầu như chưa bao giờ được nhắc đến trong tất cả các sách về Thạch Lý Học đã xuất bản. Tuy nhiên, rất nhiều tài liệu về huyền học phương tây do những du học sinh tại Hải Ngoại được đăng trên các trang mạng, sử dụng hệ thống này của Thelema. Thuyết này được các nhóm huyền học phương tây sử dụng rộng rãi ở thời kỳ Internet nở rộ khoảng năm 2012, bởi các nhóm nghiên cứu Huyền Bí Học và Ma Thuật Học, như nhóm Huyền Học Phương Tây, Hội Tarot Huyền Bí...



Thuyết Thelema cho rằng aventurine gắn liền với Sephiroth yếu tố số 7. Trong Liber 777, nó được coi là chữa trị cho các biểu hiện bệnh tật của phần hông và các cơ quan vị trí hông eo phải. Nó còn có tác dụng chữa trị với các bệnh ngoài da.


Thuyết Reiki (Linh Khí), dựa trên sự kết hợp của hệ thống Kinh Lạc trong Y Thuật Trung Hoa, hệ thống Luân Xa trong Y Thuật Ấn Độ và thuyết Ngũ Hành trong thạch học, dùng trong xoa bóp, ấn huyệt, được đề xuất bởi Mikao Usui năm 1922. Nếu hệ thống luân xa thật sự ít khi được áp dụng trong Reiki thực hành, hệ thống Kinh Lạc lại được sử dụng trong ấn huyệt rất rộng rãi. Kinh lạc là đường khí huyết vận hành trong cơ thể, đường chính của nó gọi là kinh, nhánh của nó gọi là lạc, kinh với lạc liên kết đan xen ngang dọc, liên thông trên dưới trong ngoài, là cái lưới liên lạc toàn thân. Kinh lạc phân ra hai loại kinh mạch và lạc mạch.Trong kinh mạch gồm chính kinh và kỳ kinh, chính kinh có mười hai sợi, tả hữu đối xứng, tức thủ túc tam âm kinh và thủ túc tam dương kinh, gọi chung mười hai kinh mạch, mỗi kinh thuộc một tạng hoặc một phủ. Kỳ kinh có tám sợi, tức đốc mạch, nhâm mạch, xung mạch, đái mạch, âm duy mạch, dương duy mạch, âm kiểu mạch, dương kiểu mạch. Thông thường nhắc đến mười hai kinh mạch và thêm vào hai mạch nhâm đốc gọi chung mười bốn kinh mạch chính. Bệnh tật đều do sự vận hành bế tắc của khí luân chuyển trong 12 kinh mạch này, nếu được khơi thông, ắt sẽ hết bệnh tật. Y Tông Tâm Lĩnh bàn về Kinh Lạc nói, mười hai kinh lạc, có Thủ thái âm phế kinh (手太阴肺经) thuộc về hành Kim, Thủ thiếu âm tâm kinh ( 手少阴心经) thuộc về hành Hỏa, Thủ quyết âm tâm bào kinh (手厥阴心包经) thuộc về hành Hỏa, Thủ thiếu dương tam tiêu kinh (手少阳三焦经) thuộc về hành Hỏa, Thủ thái dương tiểu tràng kinh (手太阳小肠经) thuộc về hành Hỏa, Thủ dương minh đại tràng kinh (手阳明大肠经) thuộc về hành Kim), Túc thái âm tỳ kinh (足太阴脾经) thuộc về hành Thổ, Túc thiếu âm thận kinh (足少阴肾经) thuộc về hành Thủy, Túc quyết âm can kinh (足厥阴肝经) thuộc về hành Mộc, Túc thiếu dương đảm kinh (足少阳胆经) thuộc về hành Mộc, Túc thái dương bàng quang kinh (足太阳膀胱经) thuộc về hành Thủy, Túc dương minh vị kinh (足阳明胃经) thuộc về hành Thổ. Mỗi mạch lại ứng những bệnh lý khác nhau. Cách sử dụng truyền thống là dùng đá phù hợp làm thành cây ấn huyệt để trị liệu khơi thông kinh mạch, giống với châm cứu.

Ở Việt Nam, hầu như không có tài liệu về môn này hoặc tài liệu về Reiki từng được xuất bản, tuy nhiên, nhiều học giả cho biết đã từng có sách về môn này xuất bản trước 1975 mà chúng tôi chưa có dịp khảo cứu được.


Đá Aventurine trong hành Mộc và thuộc vào Kinh Túc Quyết Âm Can, Kinh Túc Thiếu Dương Đởm. Kinh Túc Quyết Âm Can liên quan đến bệnh đầu đau, đầu váng, mắt hoa, nhìn không rõ, tai ù, sốt cao, có thể co giật, tiểu dầm, tiểu không lợi, ngực tức, nôn nấc, bụng trên đau, da vàng, tiêu lỏng, họng như bị tắc, thoát vị, bụng dưới đau, ở hệ sinh dục, bàng quang, ruột, ngực, sườn, mắt. Ví dụ như huyệt Lãi Câu (Huyệt Lạc nối với kinh thiếu dương Đởm) có tác dụng đến đau cẳng chân, đai khó, đau tinh hoàn, kinh nguyệt không đều, khí hư, băng huyết; huyệt Trung Đô (Huyệt Khích) có tác dụng đến đau bụng dưới, sưng tinh hoàn, băng huyết, viêm bàng quang cấp, tiểu khó, tiểu buốt; huyệt Tất Quan có tác dụng đau mặt trong khớp gối, mặt trong cẳng chân; huyệt Khúc Tuyền (Huyệt Hợp thuộc Thủy) có tác dụng đau mặt trong khớp gối, mặt trong đùi, đau sưng tinh hoàn, đau dương vật hoặc âm hộ, đau bụng dưới, tiểu khó, hoa mắt, đau mắt; huyệt Âm Bao có tác dụng liên quan đến đau thắt lưng, đau bụng dưới, kinh nguyệt không đều, tiểu tiện khó. Kinh Túc Thiếu Dương Đởm liên quan đến bệnh sốt rét, điếc, đau đầu, hàm đau, mắt đau, hố trên đòn sưng đau, nách sưng, lao hạch, khớp háng và mặt ngoài chi dưới đau, phía ngoài bàn chân nóng, ngón chân thứ tư vận động khó, Cạnh sườn đau, ngực đau, mồm đắng, nôn, Ở đầu, mặt, tai, mũi, họng, ngực, sườn, sốt. Ví dụ như huyệt Thiên Xung (Hội của kinh Thiếu dương và kinh Thái dương ở chân) có tác dụng liên quan đến đau đầu, sưng lợi răng; huyệt Phù Bạch (Hội của kinh Thiếu dương và Thái dương ở chân) có tác dụng liên quan đến đau đầu, ù tai, điếc tai; huyệt Khiếu Âm (Hội của kinh Thiếu dương ở tay, chân và kinh Thái dương ở chân) có tác dụng liên quan đến đau đầu và gáy, nhức tai, ù tai, điếc tai; huyệt Hoàn Cốt (Hội của kinh Thiếu dương và Thái dương ở chân) có tác dụng liên quan đến đau đầu, đau cứng cổ gáy, sưng má, đau răng, liệt mặt, đau họng.



Thuyết Bát Quái Kinh Dịch (Iching Therapy), mặc dù được lấy từ lý thuyết của châu Á, nhưng việc áp dụng nó vào thạch lý học thì lại do các nhà huyền học Nga, gần gũi với lý thuyết Thông Thiên Học, ra đời vào những năm 1980. Ở Việt Nam, thuyết này ít được phát triển, đại diện chỉ có Ts Hoàng Thế Ngữ, Chủ Tịch Hội Đá Quý Việt Nam, tốt nghiệp tại Nga, dùng trong cuốn Đá Quý Việt Nam, nhưng chỉ dùng cấu trúc hình thái tinh hệ để luận. Cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, tuy có dẫn ra phép Bát Quái, nhưng lại chỉ dựa trên màu sắc của Ngũ Hành để luận. Cả hai đều rất sơ khai. Dựa vào hình thái tinh hệ của tinh thể gồm tám loại, được phân định thành tám quái thuộc nội quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập Phương (cubic - isometric) ứng Càn , Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam Phương (rhombohedral) ứng Ly, Lục Phương (hexagonal) ứng Đoài, Tam Tà (triclinic) ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic) ứng Tốn, Phi Tinh (noncrystallinic) ứng Khôn. Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng khác: Lập Phương ứng Càn, Tam Tà ứng Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn, Tam Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở đây chỉ trình bày thuyết của Thông Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm tám màu, ứng với tám quái thuộc ngoại quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính, đều nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ nhất được trình bày trong I-ching: Binary Numbers, Astrology, And Chakras, dựa trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng, Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ, Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành ứng bát quái cho rằng: Càn ứng dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn ứng cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề xuất dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam, Cấn ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại quái tương ứng với hình dạng và màu sắc của tinh thể, từ đó tính ra được quái trong 64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại ứng một bộ phận cơ thể theo y lý trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể.


Theo thuyết Bát Quái Kinh Dịch, đá Avanturine có màu xanh lục tương ứng quẻ ngoại quái Chấn, có tinh hệ Lục Phương tương ứng quẻ nội quái Đoài, ghép lại chính là quẻ quái số 54: quẻ Lôi Trạch Quy Muội. Quái 54 ứng với vị trí vòm họng trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên quan đến hệ tiêu hóa như táo bón, són phân, trĩ, viêm đại tràng mạn tính, sỏi mật,…. Quẻ Lôi Trạch Quy Muội có nghĩa: “Qui Muội tức là con gái về nhà chồng, chữ “muội” là tiếng để gọi những người thiếu nữ. Đoái lấy tư cách gái trẻ theo Chấn là trai lớn, mà tình của nó lại là lấy sự đẹp lòng mà động, không phải chính đạo. Cho nên quẻ là “em gái lấy chồng” mà các hào trong quẻ, từ hào Hai đến hào Năm đều không được chính, hào Ba hào Năm lại lấy chất mềm cưỡi chất cứng, cho nên lời chiêm của nó là đi thì hung mà không lợi về sự gì”, người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy.


Thuyết Phật Giáo Mật Tông là phái phật giáo duy nhất có ứng dụng trong Thạch Lý Học. Lý thuyết dựa trên hình ảnh của Ngũ Trí Như Lai và Tử Thư. Ngũ Phật còn gọi là Ngũ Trí Như Lai, Ngũ Trí Phật, Ngũ Phương phật, hay còn được gọi Ngũ Thiền Định Phật; là tên gọi chỉ năm vị Phật trong Mật Tông, lấy Đại Nhật Như Lai làm chủ tôn, có sự khu biệt giữa Ngũ Phật giới Kim Cương và Ngũ Phật giới Thai Tạng. Năm đức Phật này đại diện cho 5 phẩm chất của con người và tạo ra sự tuyệt mỹ và hay nhất để phá bỏ những sai trái trong 5 phẩm chất đó. Mỗi đức Phật là một con đường tuyệt diệu để đi đến cảnh giới Niết Bàn và Vô sanh. Tu theo những vị đó sẽ mau chóng vào được cung điện Niết Bàn. Ngũ trí Như Lai là 5 vị Phật tối cao của Phật giáo Tây Tạng. Năm vị phật này đại diện bởi năm màu, gọi là Ngũ Sắc Trí (pancha-varna): Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairochana) đại diện bởi màu trắng và tím, A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya) đại diện bởi màu lam và đen, Bảo Sanh Như Lai (Ratnasambhava) đại diện bởi màu vàng và cam, A Di Đà Như Lai (Amitabha) đại diện bởi màu đỏ và hồng, Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi) đại diện bởi màu lục. Nitin Kumar căn cứ vào kinh điển Chandamaharosana Tantra dẫn ra những quy tắc sử dụng màu săc trong mật tông, đáng chú ý cho rằng: màu lam đại diện cho phẫn nộ tướng ứng vị trí tai, màu vàng đại diện cho sinh dưỡng tướng ứng vị trí mũi, màu đỏ đại diện cho vô úy tướng ứng miệng, màu lục đại diện cho uy đức tướng ứng vị trí đầu. Trong Tử Thư Tây Tạng cũng tuyên về màu sắc tương ứng lục đạo: ánh sáng trắng là của cõi trời, ánh sáng đỏ là của cõi Atula, ánh sáng lam là của cõi người, ánh sáng lục là của cõi súc sanh, ánh sáng vàng là của cõi quỷ đói, ánh sáng xám là của cõi địa ngục. 

Ở Việt Nam, thuyết này hầu như chưa bao giờ được nhắc đến trong các sách Thạch Lý Học đã xuất bản. Tuy nhiên một số kinh sách về ngũ sắc trí đã được dịch và xuất bản những năm gần đây như Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe Trong Bardo của Guru Rinpoche, Những Giáo Pháp Bí Mật Của Tử Thư Tây Tạng của Detlef Ingo Lauf.

Đá Aventurine có màu lục, là bổn sắc của Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi). Ngài là sự chuyển hóa của sự ganh tỵ thành sự kham nhẫn. Màu lục đại diện cho uy đức tướng ứng với đầu. Đeo Aventurine sẽ được Bất Không Thành Tựu Như Lai Phật hộ trì, hỗ trợ về cơ thể và sự uy đức. Vì đây cũng là màu của cõi súc sanh, đá Aventurine được coi là bùa hộ về xúc dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về xúc dục thông qua vị phật uy đức. Tử thư nhắc đến màu lục như biểu hiện cho sự kham nhẫn, uy đức, đồng thời sự tham lam. Tử Thư Tây Tạng viết rằng: Vào ngày thứ năm, có bộ Nghiệp, tức là tính chất tinh khiết của không khí hay gió. Nó có màu xanh lá cây, màu của ganh tỵ. Từ cõi Các Hành Vi Tích Tựu (Realm of Accumulated Actions), Phật xuất hiện. Bộ Nghiệp được kết hợp với hành vi, sự thành tựu và tính hiệu quả. Nó có quyền lực mãnh liệt và không có gì chịu đựng nổi trong cung cách của nó cho nên nó được coi như có tính chất triệt phá. Phật Bất Không Thành Tựu mang ý nghĩa thành tựu mọi hành vi, mọi quyền lực. Vào ngày thứ năm, một thứ ánh sáng xanh lá cây, đó là yếu tố tinh khiết của không khí, sẽ chiếu sáng và đồng thời đức Phật Bất Không Thành Tựu, vị đứng đầu của nhóm từ cõi phương Bắc màu xanh lá cây, cõi Những Hành Động Tích Tập sẽ xuất hiện trước mặt con. Thân ngài màu xanh lá cây, ngài cầm một kim cương sử đôi trong tay và ngồi trên ngai các thần điêu Ca-lâu-la (shangshang birds) bay lượn trên bầu trời. Những người không kham nhẫn, hay hung hăn, tham lam, muốn được kiềm hãm, cần mang loại đá có màu lục để được giải trừ.



Nơi tìm thấy: Đông Lăng Ngọc (Aventurine) được tìm thấy vài nơi trên thế giới như Mỹ, Nam Phi, Ý, Ấn Độ hay Nhật Bản. Loại đẹp nhất được tìm thấy ở Nhật Bản, Ý và Ấn Độ. Đông Linh Ngọc thường được chế tác thành trang sức, từ loại nhỏ như mặt dây chuyền, mặt nhẫn cho đến những tác phẩm cầu kỳ. Đông Lăng Ngọc được ưa chuộng do giá thành thấp hơn so với Ngọc Phỉ Thúy (Jadeite), nhưng chất màu tương tự, không tối như Nhuyễn Ngọc (Nephrite), thậm chí có nhiều hiệu ứng riêng, đặc sắc hơn nhiều loại Mã Não (Agate) hay Ngọc Bích (Jasper).


Lời cảm ơn: bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến sĩ Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu tập Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).













Reactions

Post a Comment

0 Comments