Bastnaesite
Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý
Trị Liệu, Thạch Học Trị Liệu dịch từ chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp
cổ. Lithotherapy phân thành Litho đến từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá,
therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ] tức là chữa trị, lithotherapy tức là
chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với đá ở ngoài da. Lithotherapy là một
môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận huyền học và thần bí học. Mặc dù
có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả năng của nó, đã được ứng dụng từ
lâu trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại, nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức
màn bí mật của những điều thần kỳ giống như nền Đông Y của người Trung Quốc hay
Nam Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc biệt trình bày về những lý luận
căn bản trong Thạch Lý Học đối với Bastnaesite, nằm trong chuỗi khảo cứu, viết
riêng cho tuần báo UNESCO.
Giới thiệu về đá: Bastnaesite
lần đầu tiên được mô tả bởi nhà hóa học người Thụy Điển, Wilhelm Hisinger vào
năm 1838. Nó được đặt tên theo mỏ Bastnäs gần Riddarhyttan, Västmanland, Thụy
Điển. Bastnäsite cũng được hình thành dưới dạng mẫu vật có chất lượng rất cao tại
dãy núi Zagi, Pakistan. Bastnäsite hình thành trong quá trình kiềm hóa granit
và syenit trong điều kiện có các pegmatit.
Giới thiệu về các thuyết: Giá
trị thạch lý học của Bastnaesite được trình bày thành các thuyết cơ bản: thuyết
Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học (Chromotherapy), thuyết Linh Khí
(Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết
Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves), thuyết Thái Lặc Mã
(Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết Hoa Giáp (Hwangap), thuyết
Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié).
Thuyết Đông Phương Bản Mệnh (Eastern
Natal Stones) có nhiều luận thuyết khác nhau. Theo phép tính theo năm, Phương
Đông dựa trên Can Chi, lập luận dựa trên ngũ hành, phối màu tạo nên bộ hoa giáp
sắc pháp. Từ Giáp Tý là sắc đỏ ban mai, chuyển dần cho đến Quý Hợi là sắc tím
trời khuya, tạo nên hơn 60 màu khác nhau. Theo phép tính theo tháng, người ta
căn cứ vào địa chi của tháng sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần, tháng 2 là
Mão, tháng 3 là Thìn, tháng 4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi, tháng 7 là
Thân, tháng 8 là Dậu, tháng 9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý, tháng
12 là Sửu, cùng phối hợp với ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Dần
Mão thuộc Mộc (ứng dùng đá có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ thuộc Hỏa (ứng
dùng đá có tông màu cam đỏ hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có tông màu
trắng, xám, ánh bạc), Tý Hợi thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu đen, chàm,
tím), Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ (ứng dùng đá có tông màu vàng, trong, ánh
kim). Thuyết về tháng bản mệnh này được dùng nhiều rộng rãi vì đơn giản, dễ
tính ra.
Ở Việt Nam, cuốn Thạch Đá Trị
Liệu của Hồ Thanh Trúc, cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ, cuốn Ứng Dụng
Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh đều có nói đến thuyết này. Tuy
nhiên, sự phân định màu sắc và ngũ hành không giống nhau. Ví dụ như Ts Hoàng Thế
Ngữ trong cuốn Đá Quý Việt Nam đưa ra Hỏa ứng màu đỏ, Thủy ứng màu xanh, Thổ ứng
màu nâu, Mộc ứng màu lục, Kim ứng màu vàng trắng đen. Ths. Nguyễn Mạnh Linh
trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định khác Hỏa ứng màu đỏ hồng tím, Thủy
ứng màu đen sẫm, Thổ ứng vàng nâu, Mộc ứng lam lục, Kim ứng trắng bạc.
Thuyết Bản Mệnh phương đông xếp
loại đá này vào năm Giáp Tuất, thuộc Mộc Cục, về Dương Phần. Thích hợp cho người
nữ/nam, sinh năm Giáp Tuất sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu đỏ, thuộc về
hành hỏa, ứng về tháng Tỵ Ngọ, tức tháng 4, 5.
Thuyết Tây Phương Bản Mệnh (Western
Natal Stones) là thuyết rất cơ bản của Thạch Lý Học Phương Tây, dựa trên Cung
Hoàng Đạo, mười hai cung mỗi cung chủ chế một màu, tùy vào ngày bản sinh mà màu
sắc đậm nhạt khác nhau theo thời gian, từ đó luận về đá bản sinh (Birthstones)
được dùng nhiều trong văn hóa phương tây. Mặc dù vậy, hầu hết các tài liệu đều
xếp tương đối bất đồng, từ thế kỷ 16 trở đi, hầu hết không được thống nhất. Ở
đây, chỉ trích dẫn những quan điểm được công nhận rộng rãi. Thuyết Bản Mệnh
phương tây được định nghĩa theo tháng như sau: tháng một màu đỏ cam, tháng hai
màu tím tươi, tháng ba màu xanh lam, tháng tư màu trắng trong, tháng năm màu lục
đen, tháng sáu màu trắng đục, tháng bảy màu đỏ tươi, tháng tám màu xanh chuối,
tháng chín màu xanh lá, tháng mười màu đen, tháng mười một màu vàng, tháng mười
hai màu chàm. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo hoàng đạo như
sau: Bạch Dương màu xanh đen, Kim Ngưu màu xanh dương đậm, Song Tử màu trắng
trong, Cự Giải màu xanh lá mạ, Sư Tử màu đen, Xử Nữ màu cam, Thiên Bình màu lục
nhạt, Thiên Yết màu lam, Nhân Mã màu vàng, Ma Kết màu đỏ tươi, Bảo Bình màu đỏ
sậm, Song Ngư màu tím. Thuyết bản mệnh Phương Tây được ứng dụng rộng rãi trong
đời sống từ thế kỷ 18, có tương đối nhiều các dị biệt tùy vào sách.
Ở Việt Nam, thuyết này cũng được
sử dụng khá nhiều, nhưng không hiểu vì sao trong tất cả các cuốn Thạch Lý Học của
Việt Nam, ngoại trừ cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, đều không nhắc đến
thuyết này.
Đá này màu đỏ được xếp vào loại
đá bản mệnh của tháng một, mùa xuân và xếp vào đá bản mệnh của cung Xử Nữ, thuộc
hệ đất. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 23 tháng 8 đến 22 tháng 9 hằng năm, hoặc
vào tháng 9 thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này.
Thuyết Quang Lý Học (Chromatherapy)
được ra đời rất lâu từ giả kim thuật, nhưng chính thức định hình đặt tên bởi tiến
sĩ Christian Agrapart. Thạch Lý Học sử dụng lại thuật ngữ này, nhưng không sử dụng
liệu pháp ánh sáng như Agrapart mà lý luận dựa trên màu của loại đá. Nó gồm một
phần nghiên cứu về màu sắc trong y học của Agrapart và một phần nghiên cứu về
màu sắc trong tâm lý học. Màu sắc trong tâm lý học đã được nghiên cứu lâu đời
như bảng phân chia màu sắc và tâm trạng "rose of temperaments"
(Temperamenten Rose) của Goethe và Schiller (1798). Nhưng nghệ thuật này chỉ
thăng hoa nhờ nghiên cứu của Carl Jung khi ghép tính biểu tượng của màu sắc vào
tâm lý con người. Từ đó, những người nghiên cứu sau này sử dụng sự tương ứng
màu sắc đó trong viên đá và đặt nền tảng lý thuyết cho Thạch Lý Học. Dựa vào bảng
màu sắc đó, cho phép gợi ý đến tác động chữa bệnh hoặc lên tinh thần con người.
Ở Việt Nam, thuyết Quang Lý Học
này cũng được sử dụng rộng rãi. Hầu hết các sách đều có đề cập trừ cuốn Đá Quý
Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích
Minh Nghiêm. Trong đó cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh
có thể coi là chi tiết nhất về thuyết này.
Ở Ai Cập cổ đại, màu đỏ liên
quan đến cuộc sống, sức khoẻ và chiến thắng. Người Ai Cập sẽ phủ mầu đỏ lên cơ
thể họ trong các lễ kỷ niệm. Phụ nữ Ai Cập đã dùng thổ hoàng đỏ như là mỹ phẩm
để tô môi và đánh má hồng. Và họ cũng sử dụng loại cây Henna – cây móng tay có
sắc tố đỏ, để nhuộm tóc và sơn móng tay. Nhưng cũng như những màu sắc khác, nó
cũng mang nhiều ý nghĩa tiêu cực như nhiệt độ cao, sự tàn phá và điềm báo tồi tệ.
Một lời cầu nguyện với thần Isis: “Ôi nữ thần Isis, hãy bảo vệ tôi khỏi cái ác
và màu đỏ của sự hủy diệt”. Trong Rôma Cổ đại, tím Tyrian là màu của Hoàng đế,
nhưng màu đỏ có một vị trí biểu tượng tôn giáo quan trọng. Trong huyền thoại La
Mã màu đỏ có liên quan đến thần chiến tranh, Mars. Các cuộc điều tra cho thấy rằng
màu đỏ là màu sắc liên quan nhất với sự can đảm. Ở các nước phương Tây, màu đỏ
là một biểu tượng của những vị tử đạo và sự hy sinh, đặc biệt vì mối liên hệ với
máu. Chữ thập đỏ hay Trăng lưỡi liềm đỏ biểu thị các nhân viên, thiết bị,
phương tiện trong ngành y tế hay các công ước Geneva. Trái lại, màu đỏ là màu
tang tại Vatican khi Đức Giáo hoàng chết. Thời Phục hưng, Quần áo màu đỏ là dấu
hiệu của địa vị và sự giàu có. Màu đỏ là một màu của Giáng Sinh, cùng với màu
xanh lá cây, trắng hoặc cả hai. Màu đỏ cùng với màu vàng hoặc da cam được cho
là kích thích tiêu hóa, vì thế nó được sử dụng trên bảng hiệu của các nhà hàng
ăn uống. Màu đỏ gây sự chú ý của con người vì thế thông thường màu này được sử
dụng để chỉ sự nguy hiểm hay khẩn cấp. Màu đỏ là màu của nhiệt và cháy. Các vòi
nước có dẫn nước nóng thông thường được dán nhãn hoặc đánh dấu bằng màu đỏ. Đỏ
là màu phổ biến của các hộp chữa cháy, các thiết bị phòng cháy chữa cháy và nghề
chữa cháy. Màu đỏ biểu thị dấu hiệu "dừng", ví dụ, các biển hiệu dừng,
đèn tín hiệu dừng trong giao thông, đèn phanh hay đèn chớp của các xe buýt trường
học. Màu đỏ chỉ thị sự cực kỳ nguy hiểm trong thang độ mã màu các nước phương
Tây, chẳng hạn như các bảng hiệu rủi ro cháy rừng hay hệ thống tư vấn an ninh
quốc gia của Mỹ. Trong bóng đá, thẻ đỏ được rút ra để đuổi cầu thủ ra khỏi sân
vì những hành động phi thể thao nặng hoặc khi cầu thủ bị thẻ vàng thứ hai.
Trong môn đua ô tô, cờ đỏ báo hiệu cho mọi xe ngay lập tức dừng lại. Vạch đỏ
báo hiệu vận tốc cực đại mà động cơ và các bộ phận khác của ô tô được thiết kế
để chạy an toàn. Lối thoát khẩn cấp trong máy bay chở khách được chỉ dẫn bằng
biển hiệu và đèn đỏ. "Đường đỏ" là sự miêu tả của khu vực cấm (như
trên bản đồ), ở Mỹ nó thể hiện việc cấm vào hay phải tăng phí dịch vụ, trong một
số hoàn cảnh việc này là phi pháp. Màu đỏ đóng một vai trò quan trọng trong triết
học Trung Quốc. Người ta tin rằng thế giới bao gồm năm yếu tố: kim loại, gỗ, nước,
lửa và đất, và mỗi cái đều có màu sắc. Trong biểu tượng của Trung Quốc, màu đỏ
là màu của may mắn, hạnh phúc và nó được sử dụng để trang trí và là màu quần áo
trong đám cưới. Tiền trong xã hội Trung Quốc thông thường được chứa đựng trong
các túi đỏ (hong bao). Mao Trạch Đông đôi khi được nói tới như là "mặt trời
đỏ". Màu đỏ liên quan đến yếu tố lửa. Màu đỏ là màu ấm áp, vì thế được sử
dụng để chỉ các khu vực ấm áp trên bản đồ thời tiết hoặc cho các cảnh báo liên
quan tới nhiệt. Khởi đầu từ cuộc cách mạng 1848, màu đỏ "xã hội chủ
nghĩa" đã được sử dụng như là màu của các cuộc cách mạng châu Âu, thông
thường trong dạng cờ đỏ. Nó cũng được sử dụng bởi "những người áo đỏ"
(camicie rosse) của Garibaldi trong Risorgimento ở Ý và được sử dụng tiếp theo
bởi các chính trị gia cánh tả hay các nhóm cấp tiến nói chung, trong khi màu trắng
của những người ủng hộ Bourbon trở thành liên kết với các đảng bảo thủ trước Đại
chiến thế giới lần 1. Màu đỏ vẫn được cho là màu của các đảng cánh tả, với một
số ngoại lệ đáng kể (xem "đảng phái chính trị" dưới đây).
Thuyết Luân Xa (Chakra)
được trình bày trong trào lưu Thời Đại Mới (New Age) bởi các lãnh tụ Thông
Thiên Học như Johann Georg Gichtel, hoặc Yoga như Swami Sivananda. Vẫn vận dụng
chủ yếu là màu sắc của viên đá, được dịch nghĩa theo hình ảnh các luân xa trong
văn hóa Ấn Độ trong Áo Nghĩa Thư. Từ nguyên thủy trong tiếng Sanskrit cakra चक्र mang ý nghĩa là "bánh
xe" hay "vòng tròn", các luân xa được miêu tả như là xếp thành một
cột thẳng từ gốc của cột sống lên đến đỉnh đầu, liên quan tới một số chức năng
tâm sinh lý, một khía cạnh của nhận thức, đánh dấu bởi một màu sắc nào đó.
Chúng thường được hình tượng hóa bằng các hoa sen với số cánh khác nhau cho mỗi
luân xa. Các luân xa được cho là đem lại năng lượng cho cơ thể và có liên quan
đến các phản ứng của cơ thể, tình cảm hay tâm lý của một người, là các điểm chứa
năng lượng sống (prana, cũng được gọi là shakti) lưu chuyển giữa các điểm đó dọc
theo các đường chảy (gọi là nadis). Chức năng của các chakra là xoay tròn để thu
hút vào năng lượng sống từ viên đá để giữ cân bằng cho sức khỏe về tâm linh,
tâm lý, tình cảm và sinh lý của cơ thể.
Ở Việt Nam, thuyết Luân Xa được
biết đến rộng rãi nhất trong số các thuyết về thạch lý học. Tất cả các sách đều
có đề cập đến thuyết này trừ cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh
Nghiêm. Sự nhận định cũng ít nhiều sai khác. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng
Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định Luân xa gốc ứng màu đỏ đen, luân xa xương cùng ứng
màu cam phấn hồng, luân xa thái dương ứng màu vàng, luân xa tim ứng màu xanh
lá, luân xa họng ứng màu xanh lam, luân xa trán ứng màu chàm tím, luân xa vương
miện ứng màu trắng và tím nhạt.
Thuyết Luân Xa cho rằng loại
đá này màu đỏ tương ứng với luân xa Muladhara (hoa sen bốn cánh). Muladhara (tiếng
Phạn: मूलाधार, IAST: Mūlādhāra,
Hồng Kông, tiếng Anh: "root support") hoặc chakra gốc là một trong bảy
chakras chính theo hệ thống Hindu. Nó được tượng trưng bởi một hoa sen với bốn
cánh hoa và màu đỏ. Thần của mooladhar là thần Shri Ganesha. Muladhara nằm gần
xương cụt ngay tại xương mông, đôi khi ở kshetram (vị trí thiêng liêng), hoặc
điểm kích hoạt trên bề mặt, nằm giữa đáy chậu và xương cụt hoặc xương chậu. Do
vị trí và kết nối với hoạt động bài tiết, nó liên quan đến hậu môn. Muladhara
được cho là nền tảng mà từ đó ra ba kênh tâm linh chính hoặc hiện lên mạch máu:
Ida, Pingala và Sushumna. Người ta cũng tin rằng Muladhara là nơi ở tinh tế của
Thần Ganapati của Hindu. Trong lời cầu nguyện cao quý nhất đối với Ganapati,
Ganapati Atharvashirsha, người ta nói rằng "một người tôn thờ Thần
Ganapati sẽ dễ dàng nắm bắt được khái niệm và nhận ra Brahman". Chakra này
cũng có thể được kích hoạt bằng cách tụng thần chú gốc. Người ta nói rằng có thể
tụng thần chú gốc của Chakra Muladhara hơn 100.000.000 lần có thể đạt được tất
cả các Siddhis (năng lực thần bí) của Muladhara Chakra. Khi so sánh với hệ thống
Tantric quan trọng khác của Kim Cương Thừa ở Tây Tạng, chakra Muladhara không
tìm thấy sự tương đồng ở nơi giống như vậy, không giống như các chakra khác.
Thay vào đó, hệ thống Tây Tạng đặt hai chakra vào cơ quan tình dục: vòng ngọc ở
giữa, gần đầu và phần đầu của cơ quan tình dục. Những chakra này cực kỳ quan trọng
cho việc tạo ra phúc lành to lớn và đóng một vai trò quan trọng trong thực hiện
hành vi tình dục tantric cao trào nhất. Một đặc điểm duy nhất, giọt màu đỏ, còn
được gọi là bồ đề tâm đỏ, không nằm ở đây, mà nằm ở vòng tròn rốn .
Thuyết Hoa Giáp (Hwangap),
dựa trên lý học phương đông, canh theo can chi bản mệnh của một người theo ngày
tháng năm sinh, rồi tính sự xung khắc hay tương hợp trong ngũ hành. Từ đó đưa
ra nguyên tắc vận dụng trong thạch học, nhờ vào ngũ hành trong khoáng thạch đối
chế lại với bản mệnh, nhằm điều hòa bản thân. Thuyết Ngũ Hành quy định theo
thiên can: Giáp Ất thuộc Mộc, Bính Đinh thuộc Hỏa, Mậu Kỷ thuộc Thổ, Canh Tân
thuộc Kim, Nhâm Quý thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành quy định theo địa chi: Dần Mão
thuộc Mộc, Ngọ Mùi thuộc Hỏa, Thân Dậu thuộc Kim, Hợi Tý thuộc Thủy, Thìn Mùi
Tuất Sửu thuộc Thổ. Từ thiên can, địa chi, quy định nên phối hành của bản mệnh:
Mậu Thìn thuộc về Thổ phối Thổ,… Khoáng thạch được phân theo ngũ hành dựa trên
màu sắc và hình dạng. Thuyết Ngũ Hành quy định màu sắc: Lục và Lam thuộc Mộc, Đỏ
và Cam thuộc Hỏa, Vàng và Trong thuộc Thổ, Trắng và Xám thuộc Kim, Đen và Tím
thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành quy định theo thể dạng: trụ và dài thuộc Mộc, nhọn
và góc thuộc Hỏa, vuông và cân thuộc Thổ, cong và tròn thuộc Kim, uốn và lượn
thuộc Thủy. Từ đó suy ra được phối hành của khoáng thạch: ví dụ Huyền Thiết Thạch
(Hematite) đen có thể dạng khối tròn (Botryoidal) được xem là Thủy phối Kim.
Thuyết Ngũ Hành quy định tương sinh như sau: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ
sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Thuyết Ngũ Hành quy định tương khắc như
sau: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc. Dựa
vào tương sinh tương khắc của Ngũ Hành để khắc chế hay phù trợ cho bản mệnh
thông qua việc đeo những khoáng thạch khác nhau trên cơ thể.
Ở Việt Nam, thuyết Hoa Giáp
(Ngũ Hành Can Chi) được trình bày trong hầu hết các sách về Thạch Lý Học, nhưng
hầu hết chỉ dừng lại ở lý luận về màu sắc theo ngũ hành. Cá biệt có cuốn Sổ Tay
Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm là có nhắc đến thuyết này ứng dụng
lý luận lên hình dạng của tinh thể, tuy nhiên không có khai triển đầy đủ. Thuyết
này các phái đạo gia phong thủy khai thác và phát triển rất hoàn chỉnh, được
trình bày tóm tắt như bên trên đây.
Thuyết Hoa Giáp cho rằng
Bastnaesite thuộc về Hỏa (đỏ) phối Mộc (trụ và dài), tức Hỏa Cục. Do
đó,Bastnaesite giúp khắc chế các bản mệnh Mộc-Thổ như Giáp Thìn, Giáp Tuất, Ất
Mùi, Ất Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại
ngọc này. Bastnaesite cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Thổ (Hỏa sinh Thổ), gồm
có mệnh thuộc Hỏa-Thổ và thuần Thổ: Mậu Ngọ, Kỷ Tỵ, Bính Thìn, Bính Tuất, Đinh
Mùi, Đinh Sửu, Mậu Thìn, Mậu Tuất, Kỷ Mùi, Kỷ Sửu, các bản mệnh này có lợi khi
tiếp xúc với loại ngọc này.
Thuyết Khí Tiết (Qìjié),
dựa trên Ngũ Hành và sự vận hành của Khí Tiết tác động lên con người. Khí Tiết
và Bản Mệnh không hòa hợp, tất sinh ra bệnh tật đau yếu. Bệnh tật chính là do
tinh khí huyết trong cơ thể bị tổn mà nên, trong là lục phủ ngũ tạng, ngoài là
thân thể tứ chi, đều có liên quan đến ngũ hành tương sinh tương khắc. Nếu can
chi ngũ hành quá vượng, trong khi khí tiết bất hòa, tất nhiên gây bệnh cho người.
Y lý phương đông nói về Thiên Can: Giáp chủ Gan, Ất chủ Mật, Bính chủ Ruột,
Đinh chủ Tim, Mậu chủ dạ dày, Kỷ chủ Lách, Canh chủ ruột già, Tân chủ Phổi,
Nhâm chủ Bàng Quang, Quý chủ Thận. Y Lý Phương Đông nói về Địa Chi: Tý bệnh về
Sa Mang, Sửu bệnh về Bụng, Dần bệnh về Chân, Mão bệnh về Mắt, Thìn bệnh về
Lưng, Tỵ bệnh về Mặt, Ngọ bệnh về Tim, Mùi bệnh về Ngực, Thân bệnh về Cổ, Dậu bệnh
về Phổi, Hợi bệnh về Da. Sự hương thịnh hay suy tàn của ngũ hành trong khí tiết
của thiên can địa chi đều có quan hệ. Người sinh vào bản mệnh Mộc quá vượng, tự
khắc tỳ vị có bệnh, nếu nhằm ngay lúc ngày tháng thuộc về khắc tinh của Mộc thì
bệnh phát.
Ở Việt Nam, thuyết Khí Tiết được
trình bày tương đối cụ thể trong cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích
Minh Nghiêm. Các cuốn Thạch Lý Học khác hầu như không nhắc đến thuyết này.
Thuyết Khí Tiết nói, người có
mệnh cục Thổ (sinh vào ngày Mậu-Kỷ, Thìn-Mùi-Tuất-Sửu) gặp vào những ngày thuộc
hành Mộc (như ngày Giáp-Ất, Dần-Mão) thì , bởi Thổ khắc Mộc, mật và dạ dày dễ tổn
thương, biểu hiện lên cơ thể là bị nấc cục, đau dạ dày, tiêu chảy, hoàng thũng,
khó nuốt, chán ăn, buồn nôn. Bên ngoài sẽ biểu hiện ra da khô, tay phải mỏi. Trẻ
nhỏ bị suy dinh dưỡng, vàng lá lách. Đặc tính của Thổ là ẩm ướt, dễ bị chìm, sắc
mặt vàng vọt. Sách mệnh lý nói: Thổ tại Mộc vượng, lá lách tổn thương. Muốn khắc
chế, phải lấy Hỏa giải độc, Bastnaesite thuộc Hỏa, có tác dụng tốt với thể trạng
người Thổ cục (Hỏa sinh Thổ), đề phòng cho những ngày Mộc thịnh (Giáp-Ất, Dần-Mão)
hay tháng hành Mộc như tháng giêng và tháng hai. Người đeo đá Bastnaesite, có
thể dùng Hỏa khắc chế được Mộc hại.
Thuyết Tứ Trụ (Sìzhù), có
thể ứng dụng từ Bát Tự trong Thuyết Tứ Trụ để bổ cứu, dựa vào màu của đá để
tương hỗ lấy mệnh. Chủ yếu dựa vào thiên can, lấy âm dương và ngũ hành của
thiên can để tính lấy bốn phép Kiêu Ấn, Thực Thương, Tỷ Kiếp, Quan Sát và Tài,
dụng vào địa chi mà thành Thập Thần. Từ đó luận ra được Nhật Can và Nguyệt Lệnh,
dựa vào sự phối hợp của nó trong sinh thời mà dự biết lợi yếu của bản mệnh. Biết
được lợi yếu của bản mệnh rồi, mới dùng ngũ hành trong đá ngọc mà điều hòa. Có
sách viết: Nhật Can mạnh yếu cần có sự tương trợ của Nguyệt Lệnh. Trong trường
hợp không có Nguyệt Lệnh hỗ trợ, các can chi trong trụ liền suy yếu. Có thể
dùng phương pháp đá phong thủy để bổ cứu, điều hậu cho Nhật Can. Theo thuyết
Can Chi Tứ Trụ, đá ngọc thuộc mệnh Hỏa rất hạp với mệnh Mộc sinh vào ngày
xuân,được nguyệt lệnh mà phần lớn là thân mạnh,vì vừa qua mùa đông lạnh,có chút
lạnh lẽo,mượn Hỏa sưởi ấm cơ thể tự do phát triển vươn xa,có Thủy nuôi dưỡng sẽ
sinh trưởng nhanh.Tóm lại,Mộc mùa xuân tốt nhất nên có Thủy,Hỏa đến điều hòa mới
phát triển tốt. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Mộc sinh mùa
thu,thông thường không được sự trợ giúp của nguyệt lệnh,Kim nặng quay quanh,phần
lớn thuộc thân yếu. Nếu là Mộc mùa suy yếu,ưa được Hỏa tiết,Thổ dưỡng,Kim khắc
không ưa Thủy đến tương trợ.
Ở Việt Nam, thuyết Tứ Trụ được
sử dụng cực kỳ nhiều, tất cả các sách Thạch Lý Học tại Việt Nam đều dẫn xuất
như cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy
của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh
Linh, cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc. Tuy nhiên, có khá nhiều sai biệt
giữa các sách với nhau về cách tính, điều này cũng dễ hiểu vì đây là ứng dụng
tùy thuộc vào cách luận Tứ Trụ. Ở đây chỉ giữ lại một thuyết để thống nhất là sử
dụng sách của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm.
Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất
hạp với mệnh Thổ sinh mùa xuân. Mùa xuân thì Mộc tư lệnh đương quyền, Thổ ở chỗ
tử tuyệt, hư phù không có lực, ưa Hỏa đến sinh trợ, kỵ Mộc đến khắc. Đá ngọc
thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Thổ sinh mùa đông. Mùa đông, bên ngoài lạnh,
bên trong ấm. Hỏa nhiều mà thịnh vượng thì quý khí hiển vinh. Đá ngọc thuộc mệnh
Hỏa cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa xuân. Mùa xuân, do vừa qua mùa đông vẫn
còn chút khí lạnh, do đó Kim cần Hỏa sưởi ấm mới có thể loại bỏ khí lạnh mà được
phú quý. Nếu Mộc thịnh vượng, Kim sẽ chịu tổn thương. Lúc này cần Kim đến phù
trì. Nếu là thiếu Hỏa sưởi ấm thì Kim không thể phát huy tác dụng. Đá ngọc thuộc
mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa thu. Mùa thu vừa đúng là Kim tư lệnh
đương quyền, do đó Kim lúc này tốt nhất có Hỏa luyện chế mới có thể làm thành vật
quý. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa đông. Kim của
mùa đông có tính chất hàn lạnh, nếu Mộc nhiều cũng không thể điêu khắc mà tái
hiện công hiệu của Kim. Nếu Thủy quá nhiều, Kim sẽ bị chìm vào ưu phiền. Thổ có
thể khắc Thủy, làm cho Kim không chịu ảnh hưởng của hàn lạnh, mà Hỏa có thể
sinh trợ Thổ, Thổ có thể sinh trợ Kim, Thổ Kim là mẹ con tương sinh, có thể
thành công. Kim cũng ưa Tỷ kiên nhưng cần có Hỏa xuất hiện mới có thể ôn dưỡng
Quan ấn.
Thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy)
đề xuất bởi bác sĩ Jacques Ménétrier và Gabriel Bertrand, vào giữa thế kỷ 20.
Những người thực hành Thạch Lý Học áp dụng lý thuyết này trong việc trị liệu
thông qua cơ sở giống như Thuyết Vi Lượng Đồng Căn (Homeopathy) của Samuel
Hahnemann. Christian Friedrich Samuel Hahnemann (1755-1843), một nhà vật lý học,
hóa học và y học người Đức, đã đưa ra một lý thuyết liên quan đến sự quan hệ yếu
tố trong chứng và chất của cơ thể người, sau này phát triển thành hệ thống Vi
Lượng Đồng Căn. Mỗi vi lượng trong đá được cho là sẽ tác động đến vi lượng
tương ứng trong cơ thể người, và nhờ đó bộ phận chứa vi lượng đó được chữa khỏi.
Mỗi viên đá, bằng vi lượng chứa trong nó, được tin là sẽ tác động lên phần sinh
lý cơ thể, giúp gợi ý cho việc chữa bệnh hoặc tác động lên tinh thần.
Ở Việt Nam, thuyết Vi Lượng được
nhắc đến duy nhất trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh
Linh, nhưng khá sơ khai, vì cho rằng đây là thuyết phức tạp, chuyên sâu. Các cuốn
khác, hầu như không hề biết gì về thuyết này.
Công thức hóa học của
Bastnaesite là: (Ce, La)CO3. Trong đó, theo thuyết Vi Lượng thì nguyên tố
Oxygen (O) có số nguyên tử là 8, chiếm tỉ trọng trong cơ thể người là 0.65.
Thành phần của nguyên tố này trong cơ thể trung bình là 43kg chiếm tỷ lệ là
24%. Tác động đến sức khỏe và sự sống của hầu hết các loài động thực vật trên
thế giới. Nguyên tố Carbon (C) có số hiệu nguyên tử là 6, tỉ trọng cúa nó trong
cơ thể ta là 0.18, khối lượng trung bình 16kg chiếm tỷ lệ 12% trong cơ thể. Tác
động tích cực cho sức khỏe do Carbon là thành phần chính cấu tạo nên sinh vật sống.
Tuy nhiên, thuyết Oligotherapy chú trọng vào các vi chất, chứ không phải các chất
cơ bản, nên thường Carbon không được tính vào thuyết này.
Thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law
of Octaves) của Newlands ứng dụng trong giả kim thuật, cho phép tính toán sự
liên hệ của khoáng chất trong đá và chiêm tinh,từ đó suy dẫn đến các ứng dụng của
đá lên cơ thể con người. Vào năm 1864, John Alexander Reina Newlands
(1837-1898), nhà hóa học người Anh, tìm ra quy luật bát bội: Mỗi nguyên tố hóa
học đều thể hiện tính chất tương tự như nguyên tố thứ 8 khi xếp các nguyên tố
theo khối lượng nguyên tử tăng dần. Điều này kích thích các nhà huyền học giả
kim thuật vì giả kim từ lâu không thể tạo ra bất kỳ quy luật nào tương xứng phù
hợp với khoa học hiện đại. Quy luật số 8 ứng với tám hành tinh (gồm cả trái đất)
mà nền tảng của nó đã có từ lâu, và còn tương ứng nhiều hình thức tâm linh huyền
học khác liên đới với con số 8 như Geomancy (bói đất). Từ đó người ta (mà nổi
tiếng nhất là nhà huyền học George Ivanovich Gurdjieff, người cực kỳ yêu quý
thuyết Law of Octaves) xây dựng nên hệ tính để tìm ra nguyên tố chủ đạo và hành
tinh chủ đạo trong một viên đá. Từ đó, dẫn suy ra những đặc tính chữa bệnh hoặc
tác động lên tinh thần.
Ở Việt Nam, thuyết Hài Hòa Bộ
Tám hầu như chưa bao giờ được nhắc đến trong tất cả các sách về Thạch Lý Học,
nhưng có một vài trang mạng của các học giả Việt ở Hải Ngoại có hướng dẫn về
thuyết này.
Thuyết Hài Hòa Bộ Tám cho rằng
loại đá này mang yếu tố mộc tinh, vì vậy có tác động lên vùng bụng, gan, tuyến
yên, lớp mỡ quanh eo, đùi. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến
sự nghèo khó (suy dinh dưỡng) và cả giàu có (béo phì), các chứng liên quan đến
bụng, gan (đau bụng). Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là trấn giữ các mối
quan hệ của nhà chiêm tinh thứ 2 và 9: tài sản, tiền bạc (nhà Lucrum) và du
hành, du lịch (nhà Iter). Dành hỗ trợ cho những người có vấn đề với tiền bạc
hay gặp vận rủi, những người muốn đi du lịch, hay di cư không được xuông sẻ,
thúc đẩy tiền bạc và thường xuyên du hành. tăng cường vật chất và sở hữu, đặc
biệt là sự phát triển, thịnh vượng, may mắn, tự do, du hành, luật pháp, nhân đạo,...
nhấn mạnh đến yếu tố giàu có vật chất. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu
tố mộc tinh bảo trợ về địa lý và cấu trúc nói chung (Dante Alighieri). Vì vậy,
đá này dành cho những người làm trong lĩnh vực liên quan đến các địa lý và du lịch
như hướng dẫn viên du lịch, phi công, hoa tiêu, tài xế, cục địa dư, tàu hỏa, khảo
cổ, xây dựng cầu đường...
Thuyết Thái Lặc Mã (Thelema)
đề xuất bởi nhà huyền học Aleser Crowley, đầu thế kỷ 20, mặc dù bản thệ thống của
nó, được thừa hưởng thừ Hội Kín Kim Bình Minh ra đời vào thế kỷ 19. Hệ thống
Thelema được ứng dụng trong Thạch Lý Học thông qua mối liên hệ với Sinh Thụ
(Tree of Life), một lý thuyết của người Do Thái ra đời cùng thời với Kinh Cựu Ước.
Hệ thống dựa trên các sách tương ứng do sự đóng góp của nhiều nhà huyền học
khác nhau: McGregors Mathers, Paul Foster Case… đặc biệt được tổng hợp trong cuốn
Kinh Liber 777.
Ở Việt Nam, thuyết Thelema hầu
như chưa bao giờ được nhắc đến trong tất cả các sách về Thạch Lý Học đã xuất bản.
Tuy nhiên, rất nhiều tài liệu về huyền học phương tây do những du học sinh tại
Hải Ngoại được đăng trên các trang mạng, sử dụng hệ thống này của Thelema.
Thuyết Thelema cho rằng
Bastnaesite thuộc Gevurah hoặc geburah (גבורה) là sephirah thứ năm trong
Cây Sự Sống, và nó là thuộc tính cảm xúc thứ hai của sephirot. Nó nằm dưới
Binah, ngang qua Chesed, và phía trên Hod. Gevurah là "bản chất của sự
phán đoán (DIN) và giới hạn, và phù hợp với sự kính sợ và là yếu tố của lửa".
Trong Bahir, nó được viết: "Và ai là Người Chỉ Huy? Chúng ta biết rằng có
ba thế lực (Gevurah). Sức Mạnh Là Chỉ huy của tất cả các Dạng Thánh ở bên trái
của Chúa Trời. Ngài ấy là Gabriel. Gevurah có liên quan đến màu đỏ Gevurah thuộc
vị trí thứ năm trong mười Sefirot, và thuộc tính cảm xúc thứ hai trong Sự Sáng
Tạo, và tương ứng với ngày sáng tạo thứ hai (Zohar 2: 127b). Theo Bahir, “Vật
thứ năm là gì? (Sự bày tỏ) Thứ năm là ngọn lửa lớn của Đức Chúa Trời, Đấy là
tay trái của Đức Chúa Trời ". Gevurah được hiểu như là phương thức của
Thiên Chúa để trừng phạt những người xấu xa và đánh giá nhân loại nói chung. Nó
là nền tảng của sự nghiêm ngặt, tuân thủ tuyệt đối với bức thư của pháp luật,
và nghiêm ngặt ra khỏi công lý. Điều này trái ngược với Chesed. Do đó, chúng ta
nói về các phương thức hành động chủ yếu của Thiên Chúa như lòng tốt và tính vô
nhiệm của Chesed, so với sự nghiêm ngặt và trách nhiệm của Gevurah. Nó được gọi
là "Might" vì sức mạnh của sự phán xét tuyệt đối của Đức Chúa Trời.
Gevurah có liên quan đến linh hồn với sức mạnh để kìm hãm sự thôi thúc bẩm sinh
của mình để ban cho nhân lành với người khác. Mặc khác, người nhận món quà đó sẽ
bị đánh giá là không xứng đáng nếu lạm dụng nó. Là công cụ đo lường và đánh giá
tính xứng đáng của Đấng Sáng Tạo, Gevurah cũng được đề cập đến trong Kabbalah
như 'Midat Hadin' ("thuộc tính của phán quyết"). Khả năng hạn chế của
Gevurah, là cho phép người ta vượt qua kẻ thù của mình, có thể là từ bên ngoài
hoặc bên trong (khuynh hướng xấu xa). Cấp bậc thiên thần của vị trí này là
Seraphim, được cai trị bởi Thượng Đẳng Thiên Sứ Kamael. Đối lập với Qliphah, được
đại diện bởi quỷ dữ Golachab, được cai trị bởi Thượng Đẳng Ác Quỷ
Asmodeus. Gevurah xuất hiện trong cấu trúc của Sefirot dọc theo trục trái,
trực tiếp dưới Binah, và tương ứng trong tzelem Elokim với "cánh tay
trái". Giá trị số của Gevurah, 216, là 6 lần 6 lần 6. Các bảng giao ước mà
Moses nhận được tại Sinai dài “6 by 6 by 6” gan tay. Torah được trao cho Moses
và Israel từ "Miệng của Gevurah". Điều quan trọng nhất là các vị hiền
nhân của chúng ta sử dụng tên của Sefirah khác để nói về chính Thiên Chúa, khác
với Gevurah (Trong Kinh thánh, Thiên Chúa được gọi là "Netzach [vĩnh cửu]
của Israel" (Samuel 1 15:29) , nhưng không phải là Netzach đơn độc). Ở
đây, Gevurah ám chỉ quyền năng thiết yếu của Thiên Chúa để thuần thục và tập
trung ánh sáng và sức mạnh vô tận của Ngài vào những chữ Torah hữu hạn (đặc biệt
là những chữ khắc trên bảng giao ước, Mười Điều Răn).
Thuyết Reiki (Linh Khí),
dựa trên sự kết hợp của hệ thống Kinh Lạc trong Y Thuật Trung Hoa, hệ thống
Luân Xa trong Y Thuật Ấn Độ và thuyết Ngũ Hành trong thạch học, dùng trong xoa
bóp, ấn huyệt, được đề xuất bởi Mikao Usui năm 1922. Nếu hệ thống luân xa thật
sự ít khi được áp dụng trong Reiki thực hành, hệ thống Kinh Lạc lại được sử dụng
trong ấn huyệt rất rộng rãi. Kinh lạc là đường khí huyết vận hành trong cơ thể,
đường chính của nó gọi là kinh, nhánh của nó gọi là lạc, kinh với lạc liên kết
đan xen ngang dọc, liên thông trên dưới trong ngoài, là cái lưới liên lạc toàn
thân. Kinh lạc phân ra hai loại kinh mạch và lạc mạch.Trong kinh mạch gồm chính
kinh và kỳ kinh, chính kinh có mười hai sợi, tả hữu đối xứng, tức thủ túc tam
âm kinh và thủ túc tam dương kinh, gọi chung mười hai kinh mạch, mỗi kinh thuộc
một tạng hoặc một phủ. Kỳ kinh có tám sợi, tức đốc mạch, nhâm mạch, xung mạch,
đái mạch, âm duy mạch, dương duy mạch, âm kiểu mạch, dương kiểu mạch. Thông thường
nhắc đến mười hai kinh mạch và thêm vào hai mạch nhâm đốc gọi chung mười bốn
kinh mạch chính. Bệnh tật đều do sự vận hành bế tắc của khí luân chuyển trong
12 kinh mạch này, nếu được khơi thông, ắt sẽ hết bệnh tật. Y Tông Tâm Lĩnh bàn
về Kinh Lạc nói, mười hai kinh lạc, có Thủ thái âm phế kinh (手太阴肺经)
thuộc về hành Kim, Thủ thiếu âm tâm kinh ( 手少阴心经) thuộc về hành Hỏa, Thủ quyết
âm tâm bào kinh (手厥阴心包经) thuộc về hành Hỏa, Thủ thiếu
dương tam tiêu kinh (手少阳三焦经) thuộc về hành Hỏa, Thủ thái
dương tiểu tràng kinh (手太阳小肠经) thuộc về hành Hỏa, Thủ dương
minh đại tràng kinh (手阳明大肠经) thuộc về hành Kim), Túc
thái âm tỳ kinh (足太阴脾经) thuộc về hành Thổ, Túc thiếu
âm thận kinh (足少阴肾经)
thuộc về hành Thủy, Túc quyết âm can kinh (足厥阴肝经) thuộc về hành Mộc, Túc thiếu
dương đảm kinh (足少阳胆经)
thuộc về hành Mộc, Túc thái dương bàng quang kinh (足太阳膀胱经)
thuộc về hành Thủy, Túc dương minh vị kinh (足阳明胃经) thuộc về hành Thổ. Mỗi mạch
lại ứng những bệnh lý khác nhau. Cách sử dụng truyền thống là dùng đá phù hợp làm
thành cây ấn huyệt để trị liệu khơi thông kinh mạch, giống với châm cứu. Cụ thể:
Lục và Lam thuộc Mộc, Đỏ và Cam thuộc Hỏa, Vàng và Trong thuộc Thổ, Trắng và
Xám thuộc Kim, Đen và Tím thuộc Thủy.
Ở Việt Nam, hầu như không có
tài liệu về môn này hoặc tài liệu về Reiki từng được xuất bản, tuy nhiên, nhiều
học giả cho biết đã từng có sách về môn này xuất bản trước 1975 mà chúng tôi
chưa có dịp khảo cứu được.
Đá Bastnaesite trong hành Hỏa
và thuộc vào Kinh Túc Thiếu Âm Tâm, Kinh Thủ Quyết Âm Tâm Bào. Kinh Túc Thiếu
Âm Tâm liên quan đến bệnh vai, mặt trong chi trên đau, gan tay nóng hoặc lạnh,
mồm khô, khát muốn uống nước, đau mắt, đau vùng tim, nấc khan, sườn ngực đau tức,
chứng thực thì phát cuồng, chứng hư thì bi ai, khiếp sợ, ở tim, ngực, tâm thần. Ví
dụ như huyệt Thông Lý (Huyệt Lạc với kinh Tiểu trường) có tác dụng liên quan đến
đau cổ tay, đau cẳng tay, đau khuỷu tay, tim đập mạnh, hồi hộp, sốt, trong ngực
bồn chồn, sốt không có mồ hôi, đau đầu, hoa mắt, cứng lưỡi, không nói được; huyệt
Âm Khích (Huyệt Khích) có tác dụng liên quan đến ngực đầy tức, đau vùng tim,
tim đập mạnh, hồi hộp, ra mồ hôi trộm, chảy máu mũi, nôn ra máu; huyệt Thần Môn
(Huyệt Du thuộc Thổ, huyệt Nguyên) có tác dụng liên quan đến lòng bàn tay nóng,
đau vùng tim, tim đập mạnh, hồi hộp, mất ngủ, hay quên, ngớ ngẩn, động kinh;
huyệt Thiếu Phủ (Huyệt Huỳnh thuộc Hỏa) có tác dụng liên quan đến ngón tay út
co quắp, lòng bàn tay nóng, đau khó chịu trong ngực, tim đập hồi hộp, sốt rét lâu
ngày, tiểu dầm; huyệt Thiếu Xung (Huyệt Tỉnh thuộc Mộc) có tác dụng liên quan đến
đau vùng tim, đau cạnh sườn, tim đập mạnh, hồi hộp, cấp cứu trúng phong, sốt
cao, vui giận thất thường. Kinh Thủ Quyết Âm Tâm Bào liên quan đến các chứng mặt
đỏ, nách sưng, cánh tay, khuỷu tay co quắp, gan tay nóng, đau vùng tim, bồn chồn,
tức ngực sườn, tim đập thình thịch, cuồng, nói lảm nhảm, hôn mê, ở ngực, tim, dạ
dày, bệnh tâm thần, sốt. Ví dụ như huyệt Thiên Trì (Hội của kinh Quyết âm ở
tay, chân và Thiếu dương ở chân) có tác dụng liên quan đến Tức ngực, bồn chồn,
đau sườn, nách sưng đau, tràng nhạc; huyệt Thiên Tuyền có tác dụng liên quan đến
đau mặt trong cánh tay, Đau vùng trước tim, Đau ngực; huyệt Khúc Trạch (Huyệt Hợp
thuộc Thủy) có tác dụng liên quan đến Đau sưng khuỷu tay, Đau cẳng tay, cánh
tay, đau vùng tim, Mồm khô, phiền táo, chỉ ra mồ hôi ở đầu, nôn do cảm hàn hay
thai nghén, thổ tả; huyệt Khích Môn (Huyệt Khích) có tác dụng liên quan đến Đau
vùng trước tim có nôn mữa, tim đập hồi hộp, Ngũ tâm phiền nhiệt, tinh thần uể oải.
Thuyết Bát Quái Kinh Dịch (Iching
Therapy), mặc dù được lấy từ lý thuyết của châu Á, nhưng việc áp dụng nó vào thạch
lý học thì lại do các nhà huyền học Nga, gần gũi với lý thuyết Thông Thiên Học,
ra đời vào những năm 1980. Ở Việt Nam, thuyết này ít được phát triển, đại diện
chỉ có Ts Hoàng Thế Ngữ, Chủ Tịch Hội Đá Quý Việt Nam, tốt nghiệp tại Nga, dùng
trong cuốn Đá Quý Việt Nam, nhưng chỉ dùng cấu trúc hình thái tinh hệ để luận.
Cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, tuy có dẫn ra phép Bát Quái, nhưng lại
chỉ dựa trên màu sắc của Ngũ Hành để luận. Cả hai đều rất sơ khai. Dựa vào hình
thái tinh hệ của tinh thể gồm tám loại, được phân định thành tám quái thuộc nội
quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập Phương (cubic) ứng Càn ,
Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam Phương (rhombohedral) ứng Ly, Lục Phương
(hexagonal) ứng Đoài, Tam Tà (triclinic) ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm,
Chánh Giao (orthorhombic) ứng Tốn, Phi Tinh (noncrystallinic) ứng Khôn. Ts
Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng khác: Lập Phương ứng Càn, Tam Tà ứng
Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn, Tam Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng
Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở đây chỉ trình bày thuyết của Thông
Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm tám màu, ứng với tám quái thuộc ngoại
quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính, đều nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ
nhất được trình bày trong I-ching: Binary Numbers, Astrology, And Chakras, dựa
trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng, đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng
lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ, Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do
D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành ứng bát quái cho rằng: Càn ứng
dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn ứng cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng
lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề xuất dựa trên nghĩa của
quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam, Cấn ứng lục, Đoài ứng
cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên thuyết thứ nhất.
Từ nội quái và ngoại quái tương ứng với hình dạng và màu sắc của tinh thể, từ
đó tính ra được quái trong 64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại ứng một bộ
phận cơ thể theo y lý trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể.
Ở Việt Nam, thuyết này ít được
phát triển, đại diện chỉ có Ts Hoàng Thế Ngữ, Chủ Tịch Hội Đá Quý Việt Nam, tốt
nghiệp tại Nga, dùng trong cuốn Đá Quý Việt Nam, nhưng chỉ dùng cấu trúc hình
thái tinh hệ để luận. Cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, tuy có dẫn ra
phép Bát Quái, nhưng lại chỉ dựa trên màu sắc của Ngũ Hành để luận. Cả hai đều
rất sơ khai.
Theo thuyết Bát Quái Kinh Dịch,
đá Bastnaesite có màu đỏ tương ứng quẻ ngoại quái Ly, có tinh hệ Lục giác tương
ứng quẻ nội quái Đoài, ghép lại chính là quẻ quái số 38: quẻ Hỏa Trạch Khuê.
Quái số 38 ứng với vị trí đường thở trong cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho
là có lợi cho các bệnh liên quan đến hô hấp như viêm phế quảng, viêm phổi, lao,
hen xuyễn, ho, viêm phổi cộng đồng,.... Quẻ Hỏa Trạch Khuê có nghĩa:
"Khuê là trái khác. Là quẻ trên lửa dưới chằm, tính trái khác nhau; con
gái giữa, con gái út, chí không cùng về với nhau, cho nên là lìa. Nhưng lấy quẻ
mà nói, thì trong đẹp lòng mà ngoài sáng sủa; lấy sự biển đối của quẻ mà nói,
thì: ở quẻ Ly lại, là hào mềm tiến lên ở ngôi Ba; ở quẻ Trung Phu lại, là hào mềm
tiến lên ở ngôi Năm, ở quẻ Gia Nhân lại, thì gồm cả hai kiểu đó; lấy thể quẻ mà
nói thì hào Sáu Nam được chỗ giữa mà phía dưới ứng với hào Chín Hai là hào cứng,
cho nên lời Chiêm của nó không thể làm việc lớn mà nhỏ còn có cách tốt", người
đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy.
Thuyết Phật Giáo Mật
Tông là phái phật giáo duy nhất có ứng dụng trong Thạch Lý Học. Lý thuyết
dựa trên hình ảnh của Ngũ Trí Như Lai và Tử Thư. Ngũ Phật còn gọi là Ngũ Trí
Như Lai, Ngũ Trí Phật, Ngũ Phương phật, hay còn được gọi Ngũ Thiền Định Phật;
là tên gọi chỉ năm vị Phật trong Mật Tông, lấy Đại Nhật Như Lai làm chủ tôn, có
sự khu biệt giữa Ngũ Phật giới Kim Cương và Ngũ Phật giới Thai Tạng. Năm đức Phật
này đại diện cho 5 phẩm chất của con người và tạo ra sự tuyệt mỹ và hay nhất để
phá bỏ những sai trái trong 5 phẩm chất đó. Mỗi đức Phật là một con đường tuyệt
diệu để đi đến cảnh giới Niết Bàn và Vô sanh. Tu theo những vị đó sẽ mau chóng
vào được cung điện Niết Bàn. Ngũ trí Như Lai là 5 vị Phật tối cao của Phật giáo
Tây Tạng. Năm vị phật này đại diện bởi năm màu, gọi là Ngũ Sắc Trí
(pancha-varna): Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairochana) đại diện bởi màu trắng và
tím, A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya) đại diện bởi màu lam và đen, Bảo Sanh Như Lai
(Ratnasambhava) đại diện bởi màu vàng và cam, A Di Đà Như Lai (Amitabha) đại diện
bởi màu đỏ và hồng, Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi) đại diện bởi màu
lục. Nitin Kumar căn cứ vào kinh điển Chandamaharosana Tantra dẫn ra những quy
tắc sử dụng màu săc trong mật tông, đáng chú ý cho rằng: màu lam đại diện cho
phẫn nộ tướng ứng vị trí tai, màu vàng đại diện cho sinh dưỡng tướng ứng vị trí
mũi, màu đỏ đại diện cho vô úy tướng ứng miệng, màu lục đại diện cho uy đức tướng
ứng vị trí đầu. Trong Tử Thư Tây Tạng cũng tuyên về màu sắc tương ứng lục đạo:
ánh sáng trắng là của cõi trời, ánh sáng đỏ là của cõi Atula, ánh sáng lam là của
cõi người, ánh sáng lục là của cõi súc sanh, ánh sáng vàng là của cõi quỷ đói,
ánh sáng xám là của cõi địa ngục.
Ở Việt Nam, thuyết này hầu như
chưa bao giờ được nhắc đến trong các sách Thạch Lý Học đã xuất bản. Tuy nhiên một
số kinh sách về ngũ sắc trí đã được dịch và xuất bản những năm gần đây như Đại
Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe Trong Bardo của Guru Rinpoche, Những Giáo Pháp Bí
Mật Của Tử Thư Tây Tạng của Detlef Ingo Lauf.
Đá Bastnaesite có màu đỏ, là bổn
sắc của A Di Đà Như Lai (Amitabha) . Ngài là sự chuyển hóa của sự hỗn độn thành
sự phân minh. Màu đỏ đại diện cho vô úy tướng ứng với miệng. Đeo Bastnaesite sẽ
được A Di Đà Như Lai Phật hộ trì, hỗ trợ về miệng và sự phân minh. Vì đây cũng
là màu của cõi atula, đá Bastnaesite được coi là bùa hộ về vị dục, giúp thoát
khỏi các nguy hiểm về vị dục thông qua vị phật phân minh. Tử thư nhắc đến màu đỏ
như biểu hiện cho sự phân minh, trí huệ, đồng thời sự tỵ nạnh ganh ghét. Tử Thư
Tây Tạng viết rằng: Vào ngày thứ tư, một ánh sáng đỏ – đó là yếu tố tinh khiết
của lửa, sẽ chiếu sáng và đồng thời đức Phật A Di Đà từ cõi phương Tây màu đỏ,
Cõi Cực Lạc (The Blissful) sẽ xuất hiện trước mặt con. Thân ngài màu đỏ, ngài cầm
hoa sen trong tay, ngài ngự trên ngai con chim công, ngài đang ôm người phối ngẫu
là Phật Mẫu Pandaravasini. Ánh sáng đỏ của tưởng uẩn trong tánh thanh tịnh căn
bản của nó là Diệu Quan Sát Trí (wisdom of discrimination), màu đỏ rực rỡ, được
trang hoàng bởi những dĩa ánh sáng quang minh, rõ rệt, sắc bén, óng ánh từ tim
của đức Phật A Di Đà. Vào ngày thứ tư, có các tia sáng của hỏa đại màu đỏ xuất
phát từ phương tây. Chính giữa luồng ánh sáng đó có đức Phật A Di Đà, đứng trên
tòa sen đang rộng hai tay tiếp dẫn. Luồng ánh sáng này chiếu soi khắp mười
phương thế giới không chỗ nào không soi đến. Gần đó có một lớp ánh sáng màu nâu
đục, tượng trưng cho cảnh giới của ngạ quỷ cũng đồng thời xuất hiện.
Nơi tìm ra đá: Bastnaesite
có thể tìm thấy ở Na Uy, Mông Cổ, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Mỹ, Canada,…
Lời cảm ơn: bài viết có sự
đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến sĩ Jean-Jacques
Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu tập Trương Quốc
Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng Giang (Cần
Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments