Moonstone

Moonstone
月光石 Nguyệt Quang Thạch

Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị Liệu, Thạch Học Trị Liệu dịch từ chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ. Lithotherapy phân thành Litho đến từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá, therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ] tức là chữa trị, lithotherapy tức là chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với đá ở ngoài da. Lithotherapy là một môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận huyền học và thần bí học. Mặc dù có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả năng của nó, đã được ứng dụng từ lâu trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại, nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức màn bí mật của những điều thần kỳ giống như nền Đông Y của người Trung Quốc hay Nam Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc biệt trình bày về những lý luận căn bản trong Thạch Lý Học đối với Moonstone, nằm trong chuỗi khảo cứu, viết riêng cho tuần báo UNESCO.

Giới thiệu về đá Moonstone
Đá mặt trăng là lọa đá được nhắc đến trong tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Wilki Kolliz tên là Kim Cương Phớt Vàng. Tên gọi đá mặt trăng thường được dùng để gọi Fenspat ánh bạc phớt xanh da trời trong mờ. Chúng được gọi theo tên như vậy là do chúng có ánh lấp lánh xanh da trời hoặc trắng bạc phát sinh do cấu trúc lớp mỏng của loại khoáng vật này. Tại Ấn Độ đá mặt trăng được coi là loại đá tôn quý nhất đối với nhứng người tôn thờ Mặt Trăng. Đá mặt trăng có màu trắng sữa, tím nhạt hoặc lấp lánh ánh kim từ bên trong. Còn đá mặt trăng hiếm thì có ánh sago hoặc hiệu ứng “mắt mèo”. Trong y học Tây Tạng, đá mặt trăng được dùng trong chia bệnh động kinh và bệnh tâm thần. Những nhà thạch trị liệu học hiện đại cũng cho rằng đá mặt trăng cũng ngăn ngừa bệnh động kinh và những bệnh thần kinh khác. Người ta cho rằng đồ trang sức làm từ đá mặt trăng có tác dụng tốt đối với thận, bàng quang, niệu đạo và điều trị bệnh phù thũng. Trong yêu thuật truyền thống lại quan niệm rằng loại đá này có quan hệ mật thiết với Mặt Trăng nên sức mạnh tác động của nó sẽ tăng lên vào kì trăng tròn. Người ta cho rằng đá mặt trăng có thể làm xoa dịu những người bị ảnh hưởng không tốt trong kì trăng tròn thông qua việc hấp thụ năng lượng kích thích của Mặt Trăng. Đá mặt trăng tiếp thụ và hấp dẫn tình yêu vì vậy đeo nó sẽ đem lại tình cảm trong cuộc sống. Quan niệm của người Hindu đá mặt trăng hấp thụ năng lượng dịu mát của Mặt Trăng giúp trấn an trí não, khơi dậy con người ước mơ và sự trìu mến. Đá mặt trăng còn có khả năng làm nguôi cơn giận và loại bỏ sự căng thẳng thần kinh. Theo cuốn “Tất cả vế khoáng vật chữa bệnh màu nhiệm” của Jasper Stone, ông cho rằng Moonstone không xác định được cung hoàng đạo

Giới thiệu về các thuyết: Giá trị thạch lý học của Moonstone được trình bày thành các thuyết cơ bản: thuyết Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học (Chromotherapy), thuyết Linh Khí (Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves), thuyết Thái Lặc Mã (Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết Hoa Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié).

Thuyết bản mệnh Phương Đông người ta căn cứ vào địa chi của tháng sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần, tháng 2 là Mão, tháng 3 là Thìn, tháng 4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi, tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu, tháng 9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu, cùng phối hợp với ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng dùng đá có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ thuộc Hỏa (ứng dùng đá có tông màu cam đỏ hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có tông màu trắng, xám, ánh bạc), Tý Hợi thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu đen, chàm, tím), Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ (ứng dùng đá có tông màu vàng, trong, ánh kim). Và theo đó, Thuyết Bản Mệnh phương đông xếp loại đá này vào năm Ất Tị, thuộc Mộc Cục, về Âm Phần. Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Ất Tị sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu Lam, thuộc về hành Mộc, ứng về tháng Dần Mão, tức tháng 1 và 2.

Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo tháng như sau: tháng một màu đỏ cam, tháng hai màu tím tươi, tháng ba màu xanh lam, tháng tư màu trắng trong, tháng năm màu lục đen, tháng sáu màu trắng đục, tháng bảy màu đỏ tươi, tháng tám màu xanh chuối, tháng chín màu xanh lá, tháng mười màu đen, tháng mười một màu vàng, tháng mười hai màu chàm. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo hoàng đạo như sau: Bạch Dương màu xanh đen, Kim Ngưu màu xanh dương đậm, Song Tử màu trắng trong, Cự Giải màu xanh lá mạ, Sư Tử màu đen, Xử Nữ màu cam, Thiên Bình màu lục nhạt, Thiên Yết màu lam, Nhân Mã màu vàng, Ma Kết màu đỏ tươi, Bảo Bình màu đỏ sậm, Song Ngư màu tím. Đá này màu Lam được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng 3, mùa Xuân và xếp vào đá bản mệnh của cung Thiên Yết, thuộc hệ Nước. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 24 tháng 10 đến 21 tháng 11 hằng năm, hoặc vào tháng 3 thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này.

Theo thuyết Quang Lý học thì đá Moonstone có màu xanh lam. Ý nghĩa của màu sắc này được biểu hiện ở các nên văn hóa khác nhau. Là một trong 3 màu chính của bảng màu sắc truyền thống, cùng với đỏ và lục. Nó nằm giũa màu tím và màu lục trong ánh sáng quang phổ.Ở Ai Cập màu xanh đã được kết nối với bầu trời và thần linh. Thần Amun của Ai Cập có thể làm cho da của mình màu xanh để ông có thể bay, vô hình, trên bầu trời. Xanh lam cũng có thể bảo vệ chống lại cái ác; nhiều người ở vùng Địa Trung Hải vẫn mặc một bộ áo giáp màu xanh, tượng trưng cho con mắt của Thiên Chúa, để bảo vệ họ khỏi những tai hoạ. Ở Trung Quốc, màu xanh lam thường có liên quan đến sự hành hạ, ma quỷ, và cái chết. Khảo sát tại Hoa Kỳ và Châu Âu cho thấy màu xanh là màu phổ biến nhất liên quan đến sự hài hòa, trung thành, tự tin, khoảng cách, vô hạn, trí tưởng tượng, lạnh, và đôi khi là nỗi buồn. Trong các cuộc thăm dò ý kiến công chúng ở hai nơi này, màu sắc phổ biến nhất được lựa chọn bởi gần một nửa số nam giới và phụ nữ, xanh lam là màu ưa thích của họ. Các cuộc khảo sát tương tự cũng chỉ ra rằng màu xanh là màu có liên quan nhiều nhất với nam giới, trước màu đen và cũng là màu sắc gắn liền với trí tuệ, kiến thức, bình tĩnh và tập trung. Ý nghĩa của màu xanh lam chính là thiết lập sự điềm tĩnh, thanh bình. Nó là màu của bầu trời và đại dương, do đó, tạo cảm giác rộng lớn, mênh mông. Màu xanh dương đi liển với cảm giác sâu thẵm, vững vàng và yên bình. Bên cạnh đó, nó còn là màu của sự trung thành, tin tưởng, thông thái, tự tin và mang lại sự ý nghĩa trong sáng, tinh khiết. Màu xanh dương có liên hệ mật thiết đối với trí tuệ và sự thông minh. Tuy nhiên, nên tránh màu xanh dương trong các trường hợp bị trầm cảm.

Thuyết Thelema cho rằng Moonstone thuộc path Lamed động từ (lamad) có nghĩa là học hay dạy. Derivative (talmid) có nghĩa là học giả (Talmud), và dẫn xuất có nghĩa là con dê đực. Ký tự bị đổ vỡ được cho là giống như một dụng cụ, và khi Chúa Jêsus phán với Sau-lơ, "thật khó để bạn chống lại các động lực này" (Công-vụ 26:14) Có thể nó cho thấy Saulơ học hơn là ép buộc. Hình ảnh của ký tự bị lật là một con bò, và được coi là không có ý nghĩa gì nữa. Đối với tôi, Lamed đề cập đến kiến thức về tất cả các kinh nghiệm trên mặt phẳng vật lý. Đây là kiến thức cần thiết để đạt được sự tách rời khỏi thế giới này, làm cầu nối với thế giới khác bằng phương tiện hy sinh. Ý nghĩa của Lamed là "học", đây là dấu hiệu của Trí tuệ và Mục đích. Ký tự ở giữa của Aleph-Bet tượng trưng cho "Vua của các vị vua", "Người cai trị tối cao.". Lammed, chữ thứ 12 của bảng chữ cái tiếng Hê-bơ-rơ là biểu tượng của việc học. Nó được dịch theo nghĩa đen là từ để học và cũng là nhân viên hoặc người bạn. Nó nằm ở giữa của Aleph và Beith, đại diện cho trái tim Lev לב; trong học viện Kabbalah hầu hết được thực hiện với trái tim và linh hồn, không chỉ là tâm trí. Lammed chỉ ra rằng học tâm linh là tâm sự tồn tại của con người. Khóa học của con người trong cuộc đời là để học và diễn đạt những giáo lý tâm linh và thực hành với từng hơi thở của cuộc sống. Lammed đạt cao hơn bất kỳ chữ cái tiếng Do Thái khác, giống như một ngọn hải đăng cao trong không khí. Hình dạng của Lammed là một hành động nhấp nhô và Lammed đại diện cho chuyển động hữu cơ liên tục, thay đổi liên tục. Lammed là tia sét năng lượng hạ xuống hai bên của Cây Sự Sống. Lammed dạy chúng ta học hỏi từ mọi thứ trong cuộc sống. Sau khi đã điều chỉnh khuynh hướng của họ ở Khaf và không còn cản trở sự xâm nhập của cái tôi, họ có thể bắt đầu học sự hoàn thiện tinh thần của bản thân mình, và học hỏi pháp luật, ý chí và cách thức của Đấng Sáng Tạo. Đây là quá trình học tập để phù hợp với ý muốn của Đấng Sáng Tạo.

Thuyết Chakra cho rằng loại đá này thuộc Chakra Ajna (tiếng Phạn: आज्ञा, IAST: Ājñā, tiếng Anh: "mệnh lệnh"), hoặc chakra mắt thứ ba, là chakra nguyên thủy thứ sáu trong cơ thể theo truyền thống đạo Hindu. Nó là một phần của bộ não mà có thể được làm mạnh mẽ hơn thông qua thiền định, yoga và các thực hành tâm linh khác giống như là tập luyện cơ bắp. Nó biểu thị tiềm thức, liên kết trực tiếp với người Bà La Môn. Trong khi đôi mắt của một người nhìn thấy thế giới vật chất, thì con mắt thứ ba được cho là tiết lộ những hiểu biết sâu sắc về tương lai. Chakra mắt thứ ba kết nối mọi người với trực giác của họ, cho họ khả năng giao tiếp với thế giới, và giúp họ nhận được thông điệp từ quá khứ và tương lai. Kshetram (nơi, vị trí) của Chakra Ajna, hoặc vị trí bên ngoài, nằm giữa hai lông mày ngang sóng mũi. Các tuyến tùng ở sâu trong não cũng liên quan đến Ajna, vì cả hai đều được coi là "mắt thứ ba". Vị trí làm cho nó trở thành một nơi linh thiêng nơi mà người Hindu dùng để chấm vết son đỏ để thể hiện sự tôn kính. Ajna được miêu tả như một hoa sen trong suốt với hai cánh hoa trắng, biểu trưng cho các nadis hay mạch (theo nguồn tâm linh) Ida và Pingala, cả hai mạch gặp nhau ở trung tâm của mạch Sushumna trước khi lên tới chakra trên đỉnh đầu, Sahasrara. Chữ "ham" (हं) được viết bằng màu trắng trên cánh trái và tượng trưng cho Shiva, trong khi chữ "ksham" (क्षं) được viết bằng màu trắng trên cánh hoa phải và tượng trưng cho Shakti. Trong Phật giáo Tây Tạng, chakra này nằm ở cuối đường dẫn năng lượng trung tâm, chạy lên cơ thể lên đỉnh đầu, rồi qua và xuống, chấm dứt ở trán. Hai bên đường dẫn tiếp tục hướng về phía hai lỗ mũi và kết thúc ở đó. Điểm trung tâm này thường được mô tả như là mắt thứ ba trong tác phẩm nghệ thuật và được sử dụng trong các thiền định khác. Ngoài ra còn có một điểm giữa trán trên mắt thứ ba, tương ứng với vị trí của Manas, một trong mười chakras trong truyền thống Mật tông Mahayoga. Trong khí công, Dantian (đan điền) cao nhất nằm ở vị trí bề mặt của chakra này. Đây là một trong ba lò luyện chuyển đổi các loại năng lượng khác nhau trong cơ thể. Trong đan điền này, năng lượng thiêng liêng được biến thành khítrong khoảng trống của không gian vô tận. Trong hệ thống Lataif-e-sitta, có một Lataif được gọi là Khafi, hay sự bí ẩn huyền ảo, ở cùng một vị trí. Điều này được cho là liên quan đến trực giác thần bí. Theo Kabbalah, có hai sephirot nằm ở cấp độ thứ sáu, gắn liền với phần trái và phải của khuôn mặt. Chúng được gọi là Chokmah (trí tuệ) và Binah (hiểu biết); chính tại hai điểm này hai cột trụ của lòng nhân từ và dữ dội kết thúc, trong khi cột trụ ở trung tâm sẽ tiến lên kether ở đỉnh đầu.

Đá Moonstone có màu xanh lam, theo thuyết Phật giáo Mật tông là bổn sắc của A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya). Ngài là sự chuyển hóa của sân hận thành từ bi. Màu lam và đen đại diện cho phẫn nộ tướng ứng với tai. Đeo Moonstone sẽ được A Súc Bệ Như Lai Phật hộ trì, hỗ trợ về tai và sự điềm tĩnh. Vì đây cũng là màu của cõi người, đá Moonstone được coi là bùa hộ về thính dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về thính dục thông qua vị phật phẫn nộ. Tử Thư cho rằng màu này cũng được hộ lãnh bởi Phật Tỳ Lô Giá Na và Phật Kim Cương Tát Đỏa. Tử Thư nói về màu lam như sau: bầu trời hiện ra màu lam và chíng giữa có đức Phật Tỳ Lô Giá na, tượng trưng cho sự thật tuyệt đối hay sự trong sạch vô biên, xuất hiện. Từ tim của đức Phật Kim Cương Tát Đỏa, trên tấm vải màu lam quang minh của Đại viên cảnh trí, sẽ xuất hiện một cái dĩa lam giống như một cái chén màu lam ngọc, hướng mặt xuống, được trang hoàng bằng những cái dĩa và những cái dĩa nhỏ hơn. Màu của hư không là màu lam và linh ảnh xuất hiện lúc này là Phật Tỳ Lô Giá Na (Vairocana). Những người cần sự điềm tĩnh hay sự thanh lọc những ý niệm bất hảo có thể dùng loại đá màu lam để giải trừ.

Theo thuyết Reki (Linh Khí) đá Moonstone trong hành Mộc và thuộc vào Kinh Túc Quyết Âm Can, Kinh Túc Thiếu Dương Đởm. Kinh Túc Quyết Âm Can liên quan đến bệnh đầu đau, đầu váng, mắt hoa, nhìn không rõ, tai ù, sốt cao, có thể co giật, tiểu dầm, tiểu không lợi, ngực tức, nôn nấc, bụng trên đau, da vàng, tiêu lỏng, họng như bị tắc, thoát vị, bụng dưới đau, ở hệ sinh dục, bàng quang, ruột, ngực, sườn, mắt. Ví dụ như huyệt Lãi Câu (Huyệt Lạc nối với kinh thiếu dương Đởm) có tác dụng đến đau cẳng chân, đai khó, đau tinh hoàn, kinh nguyệt không đều, khí hư, băng huyết; huyệt Trung Đô (Huyệt Khích) có tác dụng đến đau bụng dưới, sưng tinh hoàn, băng huyết, viêm bàng quang cấp, tiểu khó, tiểu buốt; huyệt Tất Quan có tác dụng đau mặt trong khớp gối, mặt trong cẳng chân; huyệt Khúc Tuyền (Huyệt Hợp thuộc Thủy) có tác dụng đau mặt trong khớp gối, mặt trong đùi, đau sưng tinh hoàn, đau dương vật hoặc âm hộ, đau bụng dưới, tiểu khó, hoa mắt, đau mắt; huyệt Âm Bao có tác dụng liên quan đến đau thắt lưng, đau bụng dưới, kinh nguyệt không đều, tiểu tiện khó. Kinh Túc Thiếu Dương Đởm liên quan đến bệnh Sốt rét, điếc, đau đầu, hàm đau, mắt đau, hố trên đòn sưng đau, nách sưng, lao hạch, khớp háng và mặt ngoài chi dưới đau, phía ngoài bàn chân nóng, ngón chân thứ tư vận động khó, Cạnh sườn đau, ngực đau, mồm đắng, nôn, Ở đầu, mặt, tai, mũi, họng, ngực, sườn, sốt.Ví dụ như huyệt Nhật Nguyệt (Huyệt Mộ của Đởm, Hội của kinh Thiếu dương với Thái âm ở chân và mạch Dương duy) có tác dụng liên quan đến đau cạnh sườn, đau vùng gan mật, nôn; huyệt Kinh Môn (Huyệt Mộ của Thận) có tác dụng liên quan đến đau mạng mỡ, đau cạnh sườn, đầy bụng, tiêu chảy; huyệt Đới Mạch (Hội của kinh Thiếu dương ở chân và mạch Đới) có tác dụng liên quan đến đau thắt lưng và háng, đau bụng dưới, khí hư; huyệt Ngũ Khu (Hội kinh thiếu dương ở chân và mạch đới) có tác dụng liên quan đến đau thắt lưng và háng, đau bụng dưới, khí hư.

Theo thuyết Tứ Trụ, đá Moonstone thuộc mệnh Mộc rất hạp với mệnh Hỏa sinh vào mùa thu. Hỏa mùa thu phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh mới có thể thịnh vượng, chuyển nguy thành yên bình đồng thời đạt được tài lợi, sẽ không bị khốn đốn. Nếu thân yếu không có Ấn lại gặp Thủy khắc sẽ khó tránh nguy cơ bị tiêu trừ, cơ thể không khỏe mạnh, thậm chí mất mạng. Nếu là Hỏa mùa thu có thân yếu lại gặp Thổ hao tiết, khó sáng và không thể phát huy tài hoa, vất vả cả đời. Nếu thân yếu lại gặp Kim đến tiết hao phần lớn là vất vả, nhiều thất bại, ít thành công, kinh tế khó khăn, nghèo khổ lao đao. Đá ngọc thuộc mệnh Mộc cũng rất hạp với Hỏa sinh mùa đông. Hỏa mùa đông phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh, nếu không Thủy vượng sẽ tiêu diệt Hỏa, mãi mãi khó có thể đứng dậy. Hỏa mùa đông thân yếu có Hỏa đến giúp thì Tỷ Kiếp khác Tài tinh, có thể nhìn thấy tiền tài phát triển thịnh vượng, nhưng duyên với vợ bạc, quan hệ không thân mật, hoặc vợ có tình trạng sức khỏe không tốt. Nếu chỉ có Tỷ Kiếp mà không có Tài, đại diện cho vận thế thuận lợi, không có lợi ích thực tế. Đá ngọc thuộc mệnh Mộc cũng rất hạp với mệnh Thủy sinh mùa thu. Thủy của mùa thu, vì Kim tư lệnh đương quyền, do đó Kim Thủy tương sinh, mẹ vượng con tướng. Mộc thịnh vượng thì sẽ tiết hao nguyên khí của Thủy, nhưng con cái sẽ hiển vinh

Thuyết Hoa Giáp cho rằng Moonstone thuộc về Mộc (Lam) phối Mộc (Nhọn và Góc), tức Mộc Cục. Do đó, Moonstone giúp khắc chế các bản mệnh Thủy – Hỏa như Nhâm Ngọ, Quý Tỵ, Bính Tý, Đinh Hợi, vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Moonstone cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Hỏa (Mộc sinh Hỏa), gồm mệnh thuộc Hỏa Mộc và thuần Hỏa: Bính Dần, Đinh Mão, Giáp Ngọ, Ất Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Tỵ, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại ngọc này.

Thuyết Ngũ Hành Khí Tiết nói, người có mệnh cục Hỏa (sinh vào ngày Bính-Đinh, Tỵ-Ngọ) gặp vào những ngày thuộc hành Thủy (như các ngày Nhâm-Quý, Tý-Hợi) thì bởi Thủy khắc Hỏa, sinh ra bệnh ở Ruột Tim, biểu hiện ở tiểu tràng và tâm kinh: câm đau miệng, co giật ngưng mủ, đậu mùa, ung nhọt, ghẻ lở, mặt đỏ, nóng nảy. Sách mệnh lý nói: mắt mờ, do Hỏa bị Thủy khắc chế, phải lấy Mộc giải độc, Moonstone thuộc Mộc, có tác dụng tốt cho thể trạng người Hỏa Cục (Mộc sinh Hỏa), nhất là vào những ngày Thủy thịnh (Nhâm-Quý, Tý-Hợi) và các tháng hành Thủy như tháng mười và mười một. Người đeo đá Moonstone, có thể dùng Mộc khắc chế được Thủy hại.

Dựa trên thuyết Orthotherabi và công thức cấu tạo của đá Moonstone ((Na,K)AlSi3O8) gồm: Nguyên tố Sodium (Na) có số hiệu nguyên tử là 11, tỉ trọng trong cơ thể là 0.15 đạt khối lượng trung bình 0.1kg chiếm tỷ lệ nguyên tố là 0.037%. Tác động vừa tích cực do Natri là thành phần chủ chốt trong các xung thần kinh nơ ron, và các búi cơ trong cơ thể. Tác dụng lên các bệnh về cơ khớp, và các bệnh về thần kinh hoặc tâm lý. Các ion Na đóng vai trò quan trọng trong nhiều quá trình sinh lý của cơ thể. Nguyên tố Potassium (K) có nguyên tử khối là 19, tỉ trọng cơ thể là 0.25 và có khối lượng trung bình 0.14kg đạt tỷ lệ 0.033%. Tác động vừa tích cực do Kali là thành phần chủ chốt trong các dây thần kinh nơ ron, và các búi co cơ trong cơ thể. Tác dụng lên các bệnh về cơ khớp, và các bệnh về thần kinh hoặc tâm lý. Nguyên tố Oxygen (O) có số nguyên tử là 8, chiếm tỉ trọng trong cơ thể người là 0.65. Thành phần của nguyên tố này trong cơ thể trung bình là 43kg chiếm tỷ lệ là 24%. Tác động đến sức khỏe và sự sống của hầu hết các loài động thực vật trên thế giới.

Dựa trên công thức hóa học của đá Moonstone, theo thuyết Hài Hòa Bộ Tám loại đá này mang yếu tố của hỏa tinh với nguyên tố chủ đạo là nguyên tố Lửa. Vì vậy nó tác động lên hệ sinh dục, bộ phận sinh dục, tuyến thượng thận. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến tình dục như yếu sinh lý, liệt dương, khoái cảm kém nhằm tăng cường sinh lực tình dục. Nó còn giúp tăng cường ý chí và tư tưởng, đặc biệt là sự tham vọng, đầy năng lượng, đam mê, nam tính, hành động, kỷ luật, lòng nhiệt huyết, nhiệt tình trong tình dục... nhấn mạnh yếu tố ý chí. Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là trấn giữ các mối quan hệ của nhà chiêm tinh thứ 3 và 10: anh em, bà con (nhà Fratres); chức vụ, nhiệm (nhà Regnum). Dành hỗ trợ cho những người có mối quan hệ đã nêu không được suông sẻ để cải thiện tình hình. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố hỏa tinh bảo trợ về toán và suy luận nói chung (Dante Alighieri). Dành cho những người làm trong lĩnh vực liên quan đến tính toán như các ngành toán, vật lý, kỹ sư, cơ giới, thủ quỹ, thủ kho, buôn bán, kế toán...

Thuyết Bát Quái Kinh Dịch
Thuyết Bát Quái Kinh Dịch dựa vào hình thái tinh hệ của tinh thể gồm tám loại, được phân định thành tám quái thuộc nội quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập Phương (cubic - isometric) ứng Càn , Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam Phương (rhombohedral) ứng Ly, Lục Phương (hexagonal - trigonal) ứng Đoài, Tam Tà (triclinic) ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic) ứng Tốn, Phi Tinh (noncrystallinic) ứng Khôn. Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng khác: Lập Phương ứng Càn, Tam Tà ứng Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn, Tam Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở đây chỉ trình bày thuyết của Thông Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm tám màu, ứng với tám quái thuộc ngoại quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính, đều nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ nhất được trình bày trong I-ching: Binary Numbers, Astrology, And Chakras, dựa trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng, Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ, Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành ứng bát quái cho rằng: Càn ứng dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn ứng cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề xuất dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam, Cấn ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại quái tương ứng với hình dạng và màu sắc của tinh thể, từ đó tính ra được quái trong 64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại ứng một bộ phận cơ thể theo y lý trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể. Đá Moonstone có màu Lam tương ứng quẻ ngoại quái YY, có tinh hệ ZZ tương ứng quẻ nội quái AA, ghép lại chính là quẻ quái CCC. Quái CCC ứng với vị trí DDD trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên quan đến DDD như [ghi ra các bệnh đường hô hấp]. Quẻ DDD có nghĩa là [copy từ nguồn vô], người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy.

Nơi tìm thấy đá: Moonstone có thể được tìm thấy ở Tỉnh miền Nam (Sri Lanka), tỉnh Toyama (Nhật Bản), Chihuahua (Mexico), Styria (Áo), ...

Lời cảm ơn: bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến sĩ Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu tập Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).








Reactions

Post a Comment

0 Comments