Abenakiite
Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc
Thạch Lý Trị Liệu, Thạch Học Trị Liệu dịch từ chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng
Hi Lạp cổ. Lithotherapy phân thành Litho đến từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa
là đá, therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ] tức là chữa trị, lithotherapy
tức là chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với đá ở ngoài da. Lithotherapy là
một môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận huyền học và thần bí học. Mặc
dù có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả năng của nó, đã được ứng dụng từ
lâu trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại, nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức
màn bí mật của những điều thần kỳ giống như nền Đông Y của người Trung Quốc hay
Nam Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc biệt trình bày về những lý luận
căn bản trong Thạch Lý Học đối với Dương Khởi Thạch, nằm trong chuỗi khảo cứu,
viết riêng cho tuần báo UNESCO.
Giới thiệu đá: Được đặt theo tên
của Abenaki, người dân bản địa sống ở khu vực xung quanh Mont Saint-Hilaire ở
miền nam Québec, trước khi người định cư châu Âu đến.
Giới thiệu các thuyết: Giá
trị thạch lý học của Actinolite được trình bày thành các thuyết cơ bản: thuyết
Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học (Chromotherapy), thuyết Linh Khí
(Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết
Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves), thuyết Thái Lặc Mã
(Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết Hoa Giáp (Hwangap), thuyết
Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié).
Thuyết
bản mệnh Phương Đông người ta căn cứ vào địa chi của tháng sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần,
tháng 2 là Mão, tháng 3 là Thìn, tháng 4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi,
tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu, tháng 9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là
Tý, tháng 12 là Sửu, cùng phối hợp với ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá,
như sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng dùng đá có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ
thuộc Hỏa (ứng dùng đá có tông màu cam đỏ hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng
đá có tông màu trắng, xám, ánh bạc), Tý Hợi thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu
đen, chàm, tím), Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ (ứng dùng đá có tông màu vàng,
trong, ánh kim). Và theo đó, Thuyết Bản Mệnh phương đông xếp loại đá này vào năm
Quý Mùi, thuộc Thủy Cục, về Âm Phần. Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Quý
Mùi sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu trắng đục, thuộc về hành Kim, ứng về
tháng Thân và Dậu, tức tháng 7, 8.
Thuyết Bản Mệnh phương tây được định
nghĩa theo tháng như sau: tháng một màu đỏ cam, tháng hai màu tím tươi, tháng
ba màu xanh lam, tháng tư màu trắng trong, tháng năm màu lục đen, tháng sáu màu
trắng đục, tháng bảy màu đỏ tươi, tháng tám màu xanh chuối, tháng chín màu xanh
lá, tháng mười màu đen, tháng mười một màu vàng, tháng mười hai màu chàm. Thuyết
Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo hoàng đạo như sau: Bạch Dương màu xanh
đen, Kim Ngưu màu xanh dương đậm, Song Tử màu trắng, Cự Giải màu xanh lá mạ, Sư
Tử màu đen, Xử Nữ màu cam, Thiên Bình màu lục nhạt, Thiên Yết màu lam, Nhân Mã màu
vàng, Ma Kết màu đỏ tươi, Bảo Bình màu đỏ sậm, Song Ngư màu tím. Đá này màu trắng
đục được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng sáu, mùa hè và xếp vào đá bản mệnh
của cung Song Tử, thuộc hệ khí. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 21 tháng 5 đến 21
tháng 6 hằng năm, hoặc vào tháng 6 thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này.
Theo thuyết Quang Lý học thì đá Abenakiite có trắng. Ý nghĩa của màu sắc này được biểu hiện ở các
nên văn hóa khác nhau.
Là một trong những màu đầu tiên được sử dụng trong
nghệ thuật. Hang động Lascaux ở Pháp bảo tồn những bức tranh tường với hình ảnh
những chú bò đực và các động vật khác được vẽ bởi các nghệ sĩ thời kỳ đồ đá
cách đây 18000 – 17000 năm. Họ đã sử dụng Calcite và đá vôi. Đôi khi nó được
dùng làm nền, đôi khi thì làm điểm nhấn. Cùng với than củi, màu đỏ và màu vàng
trong những bức tranh làm cho chúng sinh động hơn rất nhiều. Ở
Ai Cập cổ, màu trắng được kết nối với thần Isis. Các nữ tu và thầy tế của đền
thờ Isis chỉ được mặc đồ bằng vải lanh trắng, và nó cũng được sử dụng để bọc
xác ướp. Ở Hy Lạp và các thành phố khác thì màu trắng tượng trưng cho sữa mẹ.
Trong thần thoại Hy Lạp, thần Zues đã nược nuôi nấng bằng sữa của những nữ thần
sông Amalthea. Trong Talmud, sữa là một trong 4 chất thánh cùng với rượu vang,
mật ong và hoa hồng.
Ở
Roma, các nữ tu của nữ thần Vesta mặc áo choàng lanh trắng, áo phong hoặc áo
khăn choàng trắng. Họ bảo vệ cho ngọn lửa thiên và những vị giáo sĩ của thành
Rome. Màu trắng đại diện cho sự thanh khiết, trung thành và trinh tiết của họ.
Nhà thờ Cơ Đốc giáo La Mã đã chọn màu trắng là màu của sự tinh khiết, sự hy
sinh mà đức hạnh. Con kỳ lân trắng là một chủ đề phổ biến của bản thảo lịch sử,
các bức tranh và thảm trang trí. Đó là một biểu tượng của sự thanh khiết, trinh
khiết và ân sủng, chỉ có thể bị bắt bởi một trinh nữ. Nó thường được miêu tả
trong lòng của Đức Trinh Nữ Maria. Màu Trắng đục đại diện cho
sự điều hòa và cân bằng. Loại đá này tăng cường sự trầm tĩnh, cân bằng trong
tâm hồn. Nó được tin là có tác dụng thanh lọc, thanh tẩy tinh thần. Loại đá này
dành cho những người bị trầm cảm, áp lực hoặc nhiều tâm sự. Nó cũng dành chủ
yếu cho nhũng người làm việc trí óc như nhân viên văn phòng, nhân viên kế toán
hay các ngành nghề viết lách như nhà văn hay báo chí.
Theo
thuyết Thelema, Abenakiite thuộc
Sepherot thứ nhất, Keter hay còn được gọi là Kether, là một trong những nút
Sephirot quan trọng nhất của Cây Sự Sống. Nó được hiểu như “Vương Miện”; có bậc và vị trí cao nhất các
Sephirot. Nó nằm giữa Chokmah với Binah (với Chokmah bên phải và Binah bên
trái) và nằm bên trên Tiphereth. Từ nó có 3 đường dẫn đến 3 Sephirot khác là
Chokmah, Tephereth và Binah. Keter rất tuyệt vời, nó được gọi là Zohar – “Thứ
bí ẩn nhất trong các thứ bí ẩn” và con người không thể nào hiểu được nó. Nó
thường được miêu tả là sự độ lượng vô biên. Rabbi Moshe Cordovero miêu tả nó
như là 13 thuộc tính siêu vượt của đạo đức. Theo Bahir: “Mười điều răng là gì? Điều đầu tiên là vương
miện tối cao, cái được ban phước trong tên Ngài và con dân Ngài”. Sephirah đầu
tiên được gọi là Crown – Vương miện, kể từ đó vương miện được đội trên đầu. Nó
đại diện cho Vương quyền, thứ mà vượt qua cả khả năng của sự thấu hiểu tâm trí.
Các Sephirot khác được ví như các bộ phận trên cơ thể, nó bắt đầu từ trên
đỉnh và đi xuống các nút khác thông qua đường dẫn là các hành động. Vương miện
của một vị vua nằm trên đỉnh đầu và kết nối với khái niệm “chế độ quân chủ”, nó
mang tính trừu tượng và vô hình, biểu thị cho sự hiện diện và quyền lực của nhà
vua. Sepharah đầu tiên này đại diện cho những
ý nghĩ hành động nguyên sơ trong nhận thức của Ein Soph hoặc là sự kích thích
của mong muốn đi khám phá thế giới muôn dạng. Nhưng theo nghĩa này, mặc
dù nó bao hàm tất cả các nội hàm về niềm vui
nhưng nó lại không tự mang niềm vui, nó được gọi là “Nothing – Không gì
cả”, “The Hidden Light – Ánh sáng bí ẩn”, “The air that cannot be grasped –
Không khí không thê nắm bắt”. Mong muốn mang vào thế giới hoàn hảo, Keter là sự
độ lượng vô biên. Tên của vị thần gắng kết với Keter là Ehyeh Asher Ehyeh, cái
tên mà thông qua đó Ngài tiết lộ bản thân mình với Moses trong bụi cỏ cháy. Cái
tên Ehyeh này là nguồn gốc của các loại đồ ăn, những thứ vô hạn. Thông qua thảo luận trong một dòng của Michah, 13 thuộc
tính liên kết với Keter Sephirah: “Ai là đức
Chúa trời như Ngài, là Đấng tha thứ tội lỗi, cứu rỗi cho loài người? Ngài không
giữ sự giận dữ của Người mãi mãi, Ngài mang đến sự vui vẻ, lòng thương xót cho
chúng ta. Ngài sẽ mang tội lỗi của chúng ta đổ xuống đáy biển. Hãy tỏ lòng
thành kính với Ya’akov, lòng tử tế với Avraham, điều mà Đấng đã thệ ước với tổ
phụ chúng ta từ những ngày xa xưa”. Trong Mystical Qabalah Dion Fortune mô tả
Keter như một ý thức thuần túy, vượt khỏi mọi sự phân loại, vượt thời gian, một
điểm nằm ngoài Ein Soph, và bắt đầu cho quá trình kết thúc ở Malkuth.
Thuyết
Chakra cho rằng loại đá này thuộc Chakra Sahara ( tiếng Phạn : सहस्रार , IAST : Sahasrāra , tiếng Anh:
"nghìn cánh hoa") hoặc chakra
đỉnh đầu thường được coi là chakra nguyên
thủy thứ bảy, theo hầu hết các tantric (hệ thống) yoga truyền thống. Sahasrara được mô tả như một hoa sen với 1.000 cánh hoa màu
khác nhau. Những cánh hoa này được bố trí trong 20 lớp, mỗi lớp với khoảng
50 cánh hoa. Phần vỏ quả màu vàng và bên trong vùng mặt trăng tròn là tam
giác màu sáng có thể hướng lên hoặc hướng xuống. Trong phối hợp một số các
chakra, trên thực tế có rất nhiều chakra tất cả chúng đều liên kết chặt chẽ với
nhau, ở tại đỉnh đầu. Xuất phát từ Ajna (chakra vùng trán), chúng ta có Manas
(tư lương thức) chakra trên trán nó liên kết chặt chẽ với Ajna. Trên Manas có
Bindu Visarga ở phía sau đầu; Mahanada; Nirvana
nằm ở đỉnh đầu. Guru, và Sahasrara riêng biệt nằm phía trên của đỉnh đầu. Bindu
Visarga nằm ở phía sau đầu, nơi mà nhiều người Bà la môn giữ một bó tóc ở đó. Nó
thường được mô tả như là nguồn gốc của dòng chảy thần thánh, hoặc amrita (sự bất
tử), mặc dù đôi khi nó được cho là đến từ chakra ajña hoặc chakra lalita. Dòng
chảy này đi xuống vùng bụng (samana) nơi nó bị đốt cháy. Việc bảo vệ giữ gìn
dòng chảy này được gọi là "urdhva retas" (nghĩa đen là sự đi lên của
tinh dịch). Giọt màu trắng có liên kết đến kết tinh của tinh dịch, trong khi chấm
màu đỏ có liên quan đến dịch tiết (kinh nguyệt) hàng tháng. Chakra này đôi khi được gọi là Indu,
Chandra, hoặc Soma Chakra. Trong các mô tả khác, nó nằm ở trán, với 16 cánh hoa
- tương ứng với lòng khoan dung, sự dịu dàng, kiên nhẫn, không ràng buộc, kiểm
soát, phẩm chất xuất sắc, tâm trạng hân hoan, tình yêu thiêng liêng sâu sắc,
khiêm tốn, nghiêm túc, nỗ lực, kiểm soát cảm xúc, sự hào phóng và tập trung.
Tên của chakra này có nghĩa là "Thanh âm vĩ đại", và nó có hình dạng
của cái cày. Nó đại diện cho âm thanh ban đầu từ đó phát ra tất cả sự sáng tạo. Nó gồm có một vòng tròn
như mặt trăng, trong đó là một tam giác hướng xuống có chứa một bàn thờ bằng đá
quý, với trăng lưỡi liềm phía dưới và chấm tròn ở trên. Bên trong chấm tròn là
một chổ ngồi, gần đó là gurus, ở trên đó là những bước chân guru. Vị trí này được
coi là rất quan trọng trong thực hành mật ngữ Tây Tạng của tinh thần yoga, nơi
mà vị đạo sư hay vị thần thường được hình dung như thấy được hào quang rên đầu,
ban phước lành cho bên dưới (ví dụ trong thiền Vajrasattva). Ở phương Tây, nó đã được nhiều người ghi nhận (như
Charles Ponce trong cuốn sách Kabbalah của ông) rằng Sahasrara thể hiện một ý
tưởng nguyên thủy tương tự như ý tưởng của Kether, trong Cây Sự Sống
(Kabbalistic Tree of Life), nằm ở đầu cây, và thể hiện ý thức thuần túy và hiệp
nhất với Thần linh. Trong hệ thống Sufi của Lataif-e-sitta có một Lataif gọi là
Akhfa, "bí ẩn tinh tế nhất ", cái nằm trên đỉnh đầu. Đó là điểm hiệp
nhất nơi thấy được phúc lành của Thánh A-La biểu lộ ra trực tiếp.
Theo
thuyết Mật Giáo Phật Tông, đá Abenakiite có
màu trắng, là bổn sắc của Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairochana). Ngài là sự chuyển
hóa của vô minh thành trí huệ. Màu trắng đại diện cho thanh tịnh tướng ứng với
mắt. Đeo Abenakiite sẽ được Tỳ Lô Giá Na Như Lai Phật hộ trì, hỗ
trợ về mắt và sự tinh anh. Vì đây cũng là màu của cõi trời, đá Abenakiite được
coi là bùa hộ về sắc dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về sắc dục. Tử Thư nói
về màu trắng như sau: Phật Tỳ Lô Giá Na hiện thân ở dạng có bốn mặt cùng
lúc nhận biết tất cả các phương hướng. Ngài có màu trắng bởi vì sự nhận biết đó
không cần sự pha màu nào cả, đích thị là màu chánh gốc, màu trắng. Ngài đang
cầm một bánh xe có tám nan hoa, nó thể hiện sự vượt lên trên mọi nhận thức về
phương hướng và thời gian. Toàn bộ sự biểu tượng hóa Ngài Phật Tỳ Lô Giá Na thể
hiện khái niệm của cái thấy không gian toàn cảnh cùng khắp; cả hai: trung tâm
và chu vi đều có khắp nơi. Đó là sự mở toang trọn vẹn của thức, siêu việt khỏi
thức uẩn. Vượt lên trên sắc uẩn là những tia sáng có hình như cái gương, màu
trắng, lấp lánh, rõ từng chi tiết, chiếu ra từ tim của Phật Kim Cương Tát Đỏa.
Phật Mẫu mặc áo choàng trắng – liên tưởng đến sự hình tượng hóa câu chuyện thần
thoại Ấn Độ về loại quần áo được dệt bằng sợi làm bằng đá, chỉ được tẩy sạch
bằng lửa. Phật Mẫu Pandaravasini thể hiện bản chất của lửa là tiêu hủy mọi thứ
và cũng là kết quả của quá trình tiêu hủy, sự tịnh hóa, lòng đại bi vẹn toàn.
Tiến trình trọn vẹn của trí đại bi có ánh sáng và nhịp điệu, nó có trí huệ sâu
sắc và sự hiệu quả sắc nét, và nó có bản chất tịnh hóa của vị Phật Mẫu Gita
mang áo choàng trắng cũng như bản chất soi sáng đến vô tận của Phật A Di Đà. Vị
gauri áo trắng nhảy múa quanh một tử thi, bà muốn dập tắt tiến trình các niệm,
cho nên bà ta cầm một tích trượng làm bằng thi thể một đứa bé. Thông thường,
một thi thể tượng trưng trạng thái vô ký căn bản của chúng sanh; một thi thể đã
không còn sống là một thể không còn những niệm được khởi lên nữa, chẳng có niệm
thiện, niệm ác – đó là trạng thái bất nhị của tâm. Cùng lúc, có ánh sáng trắng
êm dịu của chư thiên cũng sẽ hướng về con. Vào ngày thứ hai, một ánh sáng
trắng, thành phần tinh khiết của nước sẽ chiếu sáng. Ánh sáng trắng của sắc uẩn
trong tánh thanh tịnh căn bản của nó là Đại Viên Cảnh Trí (trí huệ giống như
cái gương), thứ ánh sáng trắng chói chang, quang minh, trong suốt, từ tim của
Phật Kim Cương Tát Đỏa. Pháp giới thể tánh trí, đó là một tấm vải đan bằng các
tia ánh sáng trắng quang minh, rực rỡ đáng kinh ngạc, từ tim của đức Phật Tỳ Lô
Giá Na. Pháp giới thể tánh trí, đó là một tấm vải đan bằng các tia ánh sáng
trắng quang minh, rực rỡ đáng kinh ngạc, từ tim của đức Phật Tỳ Lô Giá Na.
Theo thuyết
Reki, Đá Abenakiite trong hành Kim và thuộc vào Kinh Thủ Thái Âm Phế, Kinh Thủ Dương Minh Đại Tràng. Kinh Thủ Thái Âm Phế liên quan đến các
triệu chứng hố trên đòn đau, đau kịch liệt thì hai tay bắt chéo ôm ngực, mắt
tối sầm, tim loạn lên, mặt trong chi trên đau, ngực phổi đầy tức, ho, suyễn,
khó thở, khát, tiểu rắt, tiểu vàng, ngực bồn chồn, gan tay nóng, nếu cảm phong
hàn có sốt, gai rét, có hoặc không có mồ hôi, sốt, bệnh ở phổi, ngực, họng, khí
huyết ứ trệ, tiểu ít khó, có tác dụng hành khí hoạt huyết, lợi tiểu. Ví dụ như
huyệt Trung Phủ (Huyệt Mộ của Phế, Hội của kinh Thái âm ở tay và chân) liên quan đến ho suyễn, đầy tức ngực, đau ngực, đau bả
vai. Vân Môn Ho, hen suyễn, đau ngực, đầy
tức ngực, đau bả vai. Thiên Phủ liên quan
đến đau phía trước, ngoài cánh tay, hen suyễn. Hiệp Bạch liên quan đến đau phía trước ngoài cánh tay, ho tức ngực,
chảy máu mũi. Xích Trạch (Huyệt hợp thuộc
Thủy) liên quan đến đau cẳng tay, ngón tay co duỗi khó khăn, ho ra
máu, hen suyễn, sốt không ra mồ hôi, đau họng,
khàn tiếng, mất tiếng cấp. Ví dụ như huyệt Thái Uyên (Huyệt Du thuộc Thổ,
Huyệt Nguyên, Huyệt Hội của mạch) liên quan đến đau cổ tay, đau phía trước ngoài
cẳng tay, cánh tay, đau vai có kèm theo đau ngực. Ho ra máu,hen suyễn, ho
gà, đau sưng họng. Ngư Tế (Huyệt Huỳnh thuộc Hỏa) liên quan đến đau bàn tay,
nóng bàn tay, ho, ho ra máu, sốt, đau đầu, đau sưng họng. Thiếu Thương (Huyệt Tỉnh
thuộc Mộc) liên quan đến đau ngón tay, ngón tay co rút, ho, khí nghịch, trúng
phong, hôn mê, sốt cao, co giật, đau họng, sưng hàm, sưng lưỡi, chảy máu mũi.
Kinh Thủ Dương Minh Đại Tràng liên quan đến các triệu chứng cổ sưng, răng hàm dưới,
vai, cẳng tay đau; ngón trỏ, cái khó vận động. Nếu tà khí ở kinh thịnh, có thể
sưng đau. Nếu kinh khí suy, sợ lạnh ở chỗ đường kinh đi qua, mắt vàng, mồm khô, đau họng, chảy máu mũi, bụng đau,
sôi bụng. Nếu hàn: tiêu chảy. Nếu nhiệt: tiêu nhão, dính hoặc táo bón. Tà khí
thịnh, sốt cao có thể phát cuồng. Ở đầu, mặt, tai,
mắt, mũi, răng, họng, ruột và sốt. Ví dụ như huyệt Thương Dương (Huyệt Tỉnh thuộc Kim) liên quan đến ngón
tay tê hoặc co giật, đau vai kèm đau hố trên đòn, đau họng, đau răng,sưng đau
hàm, hoa mắt, điếc tai, ù tai, trúng phong hôn mê, sốt không ra mồ hôi. Nhị Gian (Huyệt
Huỳnh thuộc Thủy) liên quan đến đau bàn tay, ngón tay, đau cánh tay, đau vai,
đau họng, đau răng, sưng hàm, méo mồm, chảy máu mũi, hoa mắt, sốt nóng. Tam Gian (Huyệt Du thuộc Mộc) liên quan đến
sưng đau ngón tay, bàn tay, đau răng, đau hàm dưới, đau bụng, đau mắt cấp.
Ví dụ như các huyệt Rửu Liêu Đau liên quan đến khuỷu
tay, tay co giật, tê tay. Thủ
Ngũ Lý cánh tay đau nhức hay co giật, khuỷu tay đau nhức, lao hạch cổ. Tý Nhu
(Huyệt Hợp của kinh Dương minh ở tay với mạch Dương duy và các kinh Thái dương ở
tay và chân), đau nhức cánh tay, tay không giơ lên được, đau nhức khuỷu tay,
lao hạch cổ. Kiên Ngung (Huyệt Hội của kinh Dương minh ở tay với mạch Dương kiểu)
đau vùng vai, đau nhức, bại liệt chi trên trong liệt nửa người. Cự Cốt (Huyệt Hội
của kinh Dương minh ở tay với mạch Dương kiểu) đau vùng vai, đau cánh tay, bại
liệt chi trên, lao hạch.
Theo thuyết Tứ
Trụ, đá Abenakiite thuộc mệnh Kim rất hạp với mệnh Hỏa sinh vào mùa xuân, Mộc
là ấn tinh, càng nhiều thì Hỏa càng vượng, phối hợp Mộc đến phù trì, phần lớn
là thân mạnh; nhưng nếu Mộc Hỏa quá vượng là cách cục chuyên vượng, thần hỷ kỵ
và thân mạnh tương phản. Chỉ riêng Hỏa sinh mùa xuân có thân mạnh gặp Kim, con
đường công danh và tình duyên như ý, mọi sự hanh thông. Đá ngọc thuộc mệnh Kim
cũng rất hạp với mệnh Thổ sinh mùa xuân. Mùa xuân thì Mộc tư lệnh đương quyền,
Thổ ở chỗ tử tuyệt, hư phù không có lực, ưa Hỏa đến sinh trợ, kỵ Mộc đến khắc. Nếu
có Kim đến khắc Mộc có thể được cát tường như ý. Nhưng Kim quá vượng thịnh sẽ
là hoa tiết nguyên khí của Thổ. Đá ngọc thuộc mệnh Kim rất hạp với mệnh Thổ
sinh mùa hạ. Mùa hạ, bởi vì Hỏa khí oi nóng, Thổ khô nên cần có Thủy điều hậu để
giảm bớt khí Hỏa nóng, kỵ nhất lại gặp Hỏa thịnh vượng, Thổ sẽ bị đốt cháy,
không có sức sống. Kim nhiều mà thịnh vượng, Kim có thể sinh trợ Thủy, có thể
được cả vợ và của cải. Đá ngọc thuộc mệnh Kim rất cũng hạp với mệnh Thủy sinh
mùa hạ. Thủy mùa hạ do Hỏa khí quá oi nóng nên rất nhanh khô, vì vậy cần nhất có
Thủy, tức là Tỷ kiên phù trì, Kim cũng có thể sinh trợ Thủy.
Thuyết Hoa Giáp cho rằng Abenakiite thuộc về Kim (trắng đục) phối Hỏa (nhọn), tức Kim
Cục. Do đó, Abenakiite giúp khắc chế các
bản mệnh Thủy-Thổ như Nhâm Thìn, Nhâm Tuất, Quý Mùi, Quý Sửu, Mậu Tý, Kỷ Hợi,
vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Abenakiite cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Kim (Kim sinh
Thủy), gồm có mệnh thuộc Kim-Thủy và thuần Thủy: Canh Tý, Tân Hợi, Nhâm Thân,
Quý Dậu, Nhâm Tý, Quý Hợi, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại ngọc
này.
Dựa trên thuyết Orthotherabi và công thức cấu tạo của đá Abenakiite (Na26Ce6(Si6O18)(PO4)6(CO3)6(SO2)O) gồm: Nguyên tố
Oxygen (O) có số nguyên tử là 8, chiếm tỉ trọng trong cơ thể người là 0.65. Thành phần của nguyên tố này trong cơ thể trung bình là 43kg chiếm tỷ lệ là
24%. Tác động đến sức khỏe và sự sống của hầu hết các loài động thực vật trên
thế giới. Nguyên tố
Carbon (C) có số hiệu nguyên tử là 6, tỉ trọng cúa nó trong cơ thể ta là 0.18,
khối lượng trung bình 16kg chiếm tỷ lệ 12% trong cơ thể. Tác động tích cực cho sức khỏe do Carbon là thành phần
chính cấu tạo nên sinh vật sống. Tuy nhiên, thuyết Oligotherapy chú trọng vào
các vi chất, chứ không phải các chất cơ bản, nên thường Carbon không được tính
vào thuyết này. Nguyên tố Sodium (Na) có số hiệu nguyên tử là 11, tỉ trọng
trong cơ thể là 0.15 đạt khối lượng trung bình 0.1kg chiếm tỷ lệ nguyên tố là
0.037%. Tác động vừa tích cực do Natri là thành phần chủ chốt trong các xung thần
kinh nơ ron, và các búi cơ trong cơ thể. Tác dụng lên các bệnh về cơ khớp, và
các bệnh về thần kinh hoặc tâm lý. Các ion Na đóng vai trò quan trọng trong nhiều
quá trình sinh lý của cơ thể. Nguyên tố Phosphorus (P) có số nguyên tử là 15, tỉ
trọng trong cơ thể là 0.011, đạt khối lượng trung bình 0.78kg chiếm tỷ lệ
0.22%. Tác động tích cực cho sức khỏe do phốt pho là thành phần chủ yếu của
răng và hệ xương, đặc biệt trong quá trình phosphorylation. Tác dụng lên hệ
xương, chiều cao, sự vận động và phục hồi xương. Được coi là có tác dụng tốt
cho chứng gãy xương, hay tăng chiều cao ở trẻ em. Được sử dụng nhiều cho các vận
động viên, hoặc các ngành nghề cơ bắp. Nguyên tố Sulfur (S) có nguyên tử khối là 16, tỉ
trọng cơ thể là 0.25, khối lượng trung bình 0.14kg, tỷ lệ nguyên tố là 0.038%
trong không khí. Tác động tích cực cho sức khỏe do lưu huỳnh là thành phần chủ
yếu của cơ bắp của sinh vật. Lưu huỳnh cũng cấu thành nên nhiều chất hóc môn
trong cơ thể như Cysteine, Methionine, Biotin, Thiamine.Tác dụng lên cơ bắp, hỗ
trợ khả năng vận động, cử động. Được cho là có tác dụng hỗ trợ điều trị thương
tích ở cơ và phục hồi cơ.
Dựa trên công
thức hóa học của đá Abenakiite, theo thuyết Hài Hòa Bộ Tám loại đá này mang yếu
tố mộc tinh, vì vậy có tác động lên vùng bụng, gan, tuyến yên, lớp mỡ quanh eo,
đùi. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến sự nghèo khó (suy
dinh dưỡng) và cả giàu có (béo phì), các chứng liên quan đến bụng, gan (đau bụng).
Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là trấn giữ các mối quan hệ của nhà
chiêm tinh thứ 2 và 9: tài sản, tiền bạc (nhà Lucrum) và du hành, du lịch (nhà
Iter). Dành hỗ trợ cho những người có vấn đề với tiền bạc hay gặp vận rủi, những
người muốn đi du lịch, hay di cư không được xuông sẻ, thúc đẩy tiền bạc và thường
xuyên du hành. tăng cường vật chất và sở hữu, đặc biệt là sự phát triển, thịnh
vượng, may mắn, tự do, du hành, luật pháp, nhân đạo,... nhấn mạnh đến yếu tố
giàu có vật chất. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố mộc tinh bảo trợ
về địa lý và cấu trúc nói chung (Dante Alighieri). Vì vậy, đá này dành cho những
người làm trong lĩnh vực liên quan đến các địa lý và du lịch như hướng dẫn viên
du lịch, phi công, hoa tiêu, tài xế, cục địa dư, tàu hỏa, khảo cổ, xây dựng cầu
đường.
Thuyết Bát
Quái Kinh Dịch dựa vào hình thái tinh hệ của tinh thể gồm tám loại, được phân định
thành tám quái thuộc nội quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập
Phương (cubic - isometric) ứng Càn , Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam Phương
(rhombohedral) ứng Ly, Lục Phương (hexagonal - trigonal) ứng Đoài, Tam Tà
(triclinic) ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic) ứng
Tốn, Phi Tinh (noncrystallinic) ứng Khôn. Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng
khác: Lập Phương ứng Càn, Tam Tà ứng Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn,
Tam Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở
đây chỉ trình bày thuyết của Thông Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm
tám màu, ứng với tám quái thuộc ngoại quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính,
đều nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ nhất được trình bày trong I-ching: Binary
Numbers, Astrology, And Chakras, dựa trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng,
Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ,
Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành ứng
bát quái cho rằng: Càn ứng dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn ứng
cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề xuất
dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam, Cấn
ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên
thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại quái tương ứng với hình dạng và màu sắc của
tinh thể, từ đó tính ra được quái trong 64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại
ứng một bộ phận cơ thể theo y lý trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể. Đá
Abenakiite có màu trắng tương ứng quẻ ngoại quái Càn, có tinh hệ lục phương
tương ứng quẻ nội quái Đoài, ghép lại chính là quẻ quái số 10: quẻ Thiên Trạch
Lý. Quái số 10 ứng với vị trí sọ trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là
có lợi cho các bệnh liên quan đến tuần hoàn như cao huyết áp, hạ huyết áp, nhồi
máu cơ tim, rối loạn tuần hoàn não, suy tim, đau thắt ngực,…. Quẻ Thiên Trạch
Lý có nghĩa là Lý tức là lễ, lễ là cái mà người ta xéo lên. Nó là quẻ trời trên
chầm dưới, trời mà ở trên, chầm mà ở dưới, đó là phận trên dưới, là nghĩa tôn
ty, lẽ phải như thế. Lễ là gốc của đạo làm người và là con đường người ta thường
thường xéo lên, cho nên mới là quẻ Lý. Về tượng quẻ: Trên là dương cương, là
Càn, là trời: dưới là âm nhu, là Đoài, là chằm, vậy là trên dưới
phân minh lại hợp lẽ âm dương tức là lễ, là lý. Có tính âm nhu, vui
vẻ đi theo sau dương cương thì dù người đi trước mình dữ như cọp, cũng
tỏ ra hiền từ với mình, cho nên bảo rằng dẫm lên đuôi cọp mà cọp
không cắn. Ba chữ “lý hổ vĩ” chính nghĩa là dẫm lên đuôi cọp, chỉ
nên hiểu là đi theo sau cọp, lấy sự nhu thuận, vui vẻ mà ứng phó với
sự cương cường. Quẻ Lý là mềm xéo theo cứng. Đẹp lòng mà ứng với trời, thế
cho nên xéo đuôi cọp, không cần người, hanh. Dương cương trung chính, xéo ngôi
vua mà không mỏi mệt, sáng láng vậy, người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy.
Nơi tìm ra: Loại khoáng vật này
có thể tìm thấy ở Canada và Nga
Lời cảm
ơn: bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến
sĩ Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu
tập Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm
Hoàng Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments