Abelsonite
Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc
Thạch Lý Trị Liệu, Thạch Học Trị Liệu dịch từ chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng
Hi Lạp cổ. Lithotherapy phân thành Litho đến từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa
là đá, therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ] tức là chữa trị, lithotherapy
tức là chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với đá ở ngoài da. Lithotherapy là
một môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận huyền học và thần bí học. Mặc
dù có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả năng của nó, đã được ứng dụng từ
lâu trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại, nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức
màn bí mật của những điều thần kỳ giống như nền Đông Y của người Trung Quốc hay
Nam Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc biệt trình bày về những lý luận
căn bản trong Thạch Lý Học đối với Dương Khởi Thạch, nằm trong chuỗi khảo cứu,
viết riêng cho tuần báo UNESCO.
Giới thiệu đá: Aelson có nguồn gốc từ Thụy Điển và cả Yiddish, và bắt nguồn từ tên Abel, là một trong các họ của người Hoa Kì. Khoáng vật được đặt
tên để tưởng nhớ nhà vật lý Hoa Kỳ Philip Hauge Abelson (1913-2004). Ông là người
đồng phát hiện ra nguyên tố 93 (neptunium), là biên tập viên của Khoa học định kỳ
(1962-1984), và giám đốc Viện Carnegie của Phòng thí nghiệm Địa vật lý của
Washington (1953-1971).
Giới thiệu các thuyết: Giá
trị thạch lý học của Actinolite được trình bày thành các thuyết cơ bản: thuyết
Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học (Chromotherapy), thuyết Linh Khí
(Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết
Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves), thuyết Thái Lặc Mã
(Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết Hoa Giáp (Hwangap), thuyết
Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié).
Thuyết
bản mệnh Phương Đông người ta căn cứ vào địa chi của tháng sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần,
tháng 2 là Mão, tháng 3 là Thìn, tháng 4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi,
tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu, tháng 9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là
Tý, tháng 12 là Sửu, cùng phối hợp với ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá,
như sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng dùng đá có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ
thuộc Hỏa (ứng dùng đá có tông màu cam đỏ hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng
đá có tông màu trắng, xám, ánh bạc), Tý Hợi thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu
đen, chàm, tím), Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ (ứng dùng đá có tông màu vàng,
trong, ánh kim). Và theo đó, Thuyết Bản Mệnh phương đông xếp loại đá này vào
năm Quý Dậu, thuộc Thủy Cục, về Âm Phần. Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Quý
Dậu sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu đỏ, thuộc về hành hỏa, ứng về tháng Tị,
Ngọ tức tháng 4 và 5.
Thuyết Bản Mệnh phương tây được định
nghĩa theo tháng như sau: tháng một màu đỏ cam, tháng hai màu tím tươi, tháng
ba màu xanh lam, tháng tư màu trắng trong, tháng năm màu lục đen, tháng sáu màu
trắng đục, tháng bảy màu đỏ tươi, tháng tám màu xanh chuối, tháng chín màu xanh
lá, tháng mười màu đen, tháng mười một màu vàng, tháng mười hai màu chàm. Thuyết
Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo hoàng đạo như sau: Bạch Dương màu xanh
đen, Kim Ngưu màu xanh dương đậm, Song Tử màu trắng trong, Cự Giải màu xanh lá
mạ, Sư Tử màu đen, Xử Nữ màu cam, Thiên Bình màu lục nhạt, Thiên Yết màu lam,
Nhân Mã màu vàng, Ma Kết màu đỏ tươi, Bảo Bình màu đỏ sậm, Song Ngư màu tím. Đá
này màu đỏ được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng bảy, mùa thu và xếp vào đá bản
mệnh của cung Ma Kết, thuộc hệ đất. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 22 tháng 12
đến 19 tháng 1 hằng năm, hoặc vào tháng 1 thì được xem là có lợi khi đeo loại
đá này.
Theo thuyết Quang Lý học thì đá Abelsonite có màu đỏ.
Ý nghĩa của màu sắc này được biểu hiện ở các nên văn hóa khác nhau. Ở
Ai Cập cổ đại, màu đỏ liên quan đến cuộc sống, sức khoẻ và chiến thắng. Người
Ai Cập sẽ phủ mầu đỏ lên cơ thể họ trong các lễ kỷ niệm. Phụ nữ Ai Cập đã dùng
thổ hoàng đỏ như là mỹ phẩm để tô môi và đánh má hồng. Và họ cũng sử dụng loại
cây Henna – cây móng tay có sắc tố đỏ, để nhuộm tóc và sơn móng tay. Nhưng cũng
như những màu sắc khác, nó cũng mang nhiều ý nghĩa tiêu cực như nhiệt độ cao,
sự tàn phá và điềm báo tồi tệ. Một lời cầu nguyện với thần Isis: “Ôi nữ thần
Isis, hãy bảo vệ tôi khỏi cái ác và màu đỏ của sự hủy diệt”. Trong Rôma
Cổ đại, tím Tyrian là màu của Hoàng đế, nhưng màu đỏ có một vị trí biểu tượng
tôn giáo quan trọng. Trong huyền thoại La Mã màu đỏ có liên quan đến thần chiến
tranh, Mars. Các cuộc điều tra cho thấy rằng màu đỏ là màu sắc liên quan nhất
với sự can đảm. Ở các nước phương Tây, màu đỏ là một biểu tượng của những vị tử
đạo và sự hy sinh, đặc biệt vì mối liên hệ với máu. Chữ thập đỏ hay Trăng lưỡi
liềm đỏ biểu thị các nhân viên, thiết bị, phương tiện trong ngành y tế hay các
công ước Geneva. Trái lại, màu đỏ là màu tang tại Vatican khi Đức Giáo hoàng
chết. Thời Phục hưng, Quần áo màu đỏ là dấu hiệu của địa vị và sự giàu có. Màu
đỏ là một màu của Giáng Sinh, cùng với màu xanh lá cây, trắng hoặc cả hai. Màu
đỏ cùng với màu vàng hoặc da cam được cho là kích thích tiêu hóa, vì thế nó
được sử dụng trên bảng hiệu của các nhà hàng ăn uống. Màu đỏ chỉ thị sự cực kỳ nguy hiểm trong
thang độ mã màu các nước phương Tây, chẳng hạn như các bảng hiệu rủi ro cháy
rừng hay hệ thống tư vấn an ninh quốc gia của Mỹ. Trong bóng đá, thẻ đỏ được
rút ra để đuổi cầu thủ ra khỏi sân vì những hành động phi thể thao nặng hoặc
khi cầu thủ bị thẻ vàng thứ hai. Trong môn đua ô tô, cờ đỏ báo hiệu cho mọi xe
ngay lập tức dừng lại. Vạch đỏ báo hiệu vận tốc cực đại mà động cơ và các bộ
phận khác của ô tô được thiết kế để chạy an toàn. Lối thoát khẩn cấp trong máy bay
chở khách được chỉ dẫn bằng biển hiệu và đèn đỏ. "Đường đỏ" là sự
miêu tả của khu vực cấm (như trên bản đồ), ở Mỹ nó thể hiện việc cấm vào hay
phải tăng phí dịch vụ, trong một số hoàn cảnh việc này là phi pháp. Màu đỏ liên
quan đến yếu tố lửa. Màu đỏ là màu ấm áp, vì thế được sử dụng để chỉ các khu
vực ấm áp trên bản đồ thời tiết hoặc cho các cảnh báo liên quan tới nhiệt. Khởi
đầu từ cuộc cách mạng 1848, màu đỏ "xã hội chủ nghĩa" đã được sử dụng
như là màu của các cuộc cách mạng châu Âu, thông thường trong dạng cờ đỏ. Nó
cũng được sử dụng bởi "những người áo đỏ" (camicie rosse) của
Garibaldi trong Risorgimento ở Ý và được sử dụng tiếp theo bởi các chính trị
gia cánh tả hay các nhóm cấp tiến nói chung, trong khi màu trắng của những
người ủng hộ Bourbon trở thành liên kết với các đảng bảo thủ trước Đại chiến
thế giới lần 1. Màu đỏ vẫn được cho là màu của các đảng cánh tả, với một số
ngoại lệ đáng kể (xem "đảng phái chính trị" dưới đây).
Thuyết Thelema cho rằng đá Abelsonite thuộc Sepherot Gevurah
hoặc geburah (גבורה) là sephirah thứ năm trong Cây Sự Sống, và nó là thuộc tính
cảm xúc thứ hai của sephirot. Nó nằm dưới Binah, ngang qua Chesed, và phía trên
Hod. Gevurah là "bản chất của sự phán đoán (DIN) và giới hạn, và phù hợp
với sự kính sợ và là yếu tố của lửa". Trong Bahir, nó được viết: "Và
ai là Người Chỉ Huy? Chúng ta biết rằng có ba thế lực (Gevurah). Sức Mạnh Là
Chỉ huy của tất cả các Dạng Thánh ở bên trái của Chúa Trời. Ngài ấy là Gabriel.
Gevurah có liên quan đến màu đỏ. Gevurah thuộc vị trí thứ
năm trong mười Sefirot, và thuộc tính cảm xúc thứ hai trong Sự Sáng Tạo, và
tương ứng với ngày sáng tạo thứ hai (Zohar 2: 127b). Theo Bahir, “Vật thứ năm
là gì? (Sự bày tỏ) Thứ năm là ngọn lửa lớn của Đức Chúa Trời, Đấy là tay trái
của Đức Chúa Trời ". Gevurah được hiểu như là phương thức của Thiên Chúa để
trừng phạt những người xấu xa và đánh giá nhân loại nói chung. Nó là nền tảng
của sự nghiêm ngặt, tuân thủ tuyệt đối với bức thư của pháp luật, và nghiêm
ngặt ra khỏi công lý. Điều này trái ngược với Chesed. Chesed và Gevurah cùng nhau tạo ra một sự cân bằng bên
trong, như cách tiếp cận của tâm hồn với thế giới bên ngoài. Cánh tay phải
Chesed hoạt động để thu hút những người khác gần, cánh tay trái Gevurah có
quyền lựa chọn để đẩy lùi những người được coi là không xứng đáng. (Ngay cả đối
với những người mà mối quan hệ ban đầu của họ là "cánh tay trái đẩy
đi"thì trước đó người ta phải áp dụng nguyên tắc bổ sung của "tay
phải kéo lại gần"). Cuối cùng, quyền năng của Gevurah trở thành sức mạnh,
và sức mạnh này dùng để hiện thực hóa mong muốn bẩm sinh của Chesed. Chỉ với
sức mạnh của Gevurah, Chesed mới có thể xâm nhập vào bề mặt của sự thật. Baal
Shem Tov thảo luận về khả năng của Gevurah để thực hiện việc rút lui của Divine
(Tzimtzum), từ đó tạo ra tiềm năng cho Chesed xuất hiện trong quá trình sáng
tạo. (bình luận cho Parshat Toldot).
Thuyết
Chakra cho rằng loại đá này thuộc Chakra Muladhara
(tiếng Phạn: मूलाधार, IAST: Mūlādhāra, Hồng Kông, tiếng Anh: "root support")
hoặc chakra gốc là một trong bảy chakras chính theo hệ thống Hindu. Nó được tượng
trưng bởi một hoa sen với bốn cánh hoa và màu đỏ. Thần của mooladhar là thần
Shri Ganesha. Muladhara nằm gần xương cụt ngay tại xương mông, đôi khi ở
kshetram (vị trí thiêng liêng), hoặc điểm kích hoạt trên bề mặt, nằm giữa đáy
chậu và xương cụt hoặc xương chậu. Do vị trí và kết nối với hoạt động bài tiết,
nó liên quan đến hậu môn. Muladhara
được cho là nền tảng mà từ đó ra ba kênh tâm linh chính hoặc hiện lên mạch
máu: Ida, Pingala và Sushumna. Người ta cũng tin rằng Muladhara là nơi ở tinh tế của Thần Ganapati của Hindu. Trong lời cầu nguyện cao quý nhất đối với
Ganapati, Ganapati Atharvashirsha, người ta nói rằng "một người tôn thờ Thần
Ganapati sẽ dễ dàng nắm bắt được khái niệm và nhận ra Brahman". Thần Indra
gắn liền với Muladhara. Trong miêu tả, ông ta màu vàng, có bốn trang bị , và giữ
một vajra hay búa thiên lôi và một hoa sen màu xanh trong tay ông ta. Ông ngồi
trên con voi trắng Airavata, nó có bảy cái vòi biểu thị số bảy yếu tố cần thiết
trong cuộc sống. Thỉnh thoảng, Ganesha cũng được liên kết với Muladhara. Trong
những miêu tả này, ông ta có da màu cam, mặc dhoti hay trang phục truyeeng thống
ấn độ màu vàng, và chiếc khăn quàng bằng vải lụa màu xanh phủ trên vai. Trong
ba tay, ông giữ một laddu (kẹo hình cầu của ấn độ), một bông hoa sen, và một
rìu nhỏ, và cái thứ tư là mọc lên trong mudra hay thủ ấn xua tan sự sợ hãi.Nguồn
gốc thần chú là âm tiết लं laṃ. Trong bindu, những điểm đó tạo thành một phần của kí tự, là
Brahma hay thần sáng tạo. Ông ấy có màu đỏ đậm, với bốn khuôn mặt và bốn cánh
tay, giữ một cây gậy, một bình rượu thần, và một japa mala hay chuỗi hạt cầu
nguyện, và thực hiện cử chỉ để xua tan nỗi sợ hãi. Thay vào đó, thay vì giữ một
cây gậy và một bình rượu thần, ông ta có thể giữ hoa sen và thánh thư. Ông ta
ngồi trên một con thiên nga. Shakti của ông là nữ thần Dakini được miêu tả cùng
với anh ta. Cô ấy xinh đẹp, với ba mắt và bốn cánh tay. Dakini thường được miêu
có làn da màu đỏ hoặc trắng, giữ một cây đinh ba, một cây gậy hình sọ người, một
con thiên nga và một bình nước uống, và ngồi trên một con thiên nga. Đôi khi,
thay vì một con thiên nga và bình nước uống, bà cầm thanh kiếm và lá chắn.Ở giữa
ô vuông, dưới nguồn gốc âm tiết, là một tam giác ngược màu đỏ đậm. Shakti
Kundalini được cho là ngủ ở đây, chờ đợi để được đánh thức và mang đến cho
Brahman, đây là nơi nguồn gốc bắt đầu. Nó được đại diện bởi biểu tượng Lingam
được bao bọc bởi ba con rắn có một nửa màu xám khói. Trong kundalini yoga (bài tập,
tập trung vào thở) có các phương pháp yoga khác nhau được tổ chức để tác
động năng lượng ở Muladhara: asanas hay tư thế đứng bằng vai (như Garudasana,
Shashankasana và Siddhasana); nhìn chằm chằm đầu mũi, hoặc Nasikagra Drishti;
riêng pranayamas; là quan trọng nhất trong thực hành Mula Bandha, liên quan đến
sự co lại của đáy chậu, đánh thức kundalini, và rất quan trọng cho việc giữ lại
tinh dịch.
Đá Abelsonite có màu đỏ, theo thuyết Phật giáo Mật tông là bổn sắc của A Di Đà
Như Lai (Amitabha) . Ngài là sự chuyển hóa của sự hỗn độn thành sự phân minh.
Màu đỏ đại diện cho vô úy tướng ứng với miệng. Đeo Abelsonite sẽ được A Di Đà Như Lai Phật hộ trì, hỗ trợ về miệng và sự
phân minh. Vì đây cũng là màu của cõi atula, đá Abelsonite được coi là bùa hộ về vị dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về vị
dục thông qua vị phật phân minh. Tử thư nhắc đến màu đỏ như biểu hiện cho sự
phân minh, trí huệ, đồng thời sự tỵ nạnh ganh ghét. Tử Thư Tây Tạng viết rằng:
Vào ngày thứ tư, một ánh sáng đỏ – đó là yếu tố tinh khiết của lửa, sẽ chiếu
sáng và đồng thời đức Phật A Di Đà từ cõi phương Tây màu đỏ, Cõi Cực Lạc (The
Blissful) sẽ xuất hiện trước mặt con. Thân ngài màu đỏ, ngài cầm hoa sen trong
tay, ngài ngự trên ngai con chim công, ngài đang ôm người phối ngẫu là Phật Mẫu
Pandaravasini. Ánh sáng đỏ của tưởng uẩn trong tánh thanh tịnh căn bản của nó
là Diệu Quan Sát Trí (wisdom of discrimination), màu đỏ rực rỡ, được trang
hoàng bởi những dĩa ánh sáng quang minh, rõ rệt, sắc bén, óng ánh từ tim của
đức Phật A Di Đà. Vào ngày thứ tư, có các tia sáng của hỏa đại màu đỏ xuất phát
từ phương tây. Chính giữa luồng ánh sáng đó có đức Phật A Di Đà, đứng trên tòa
sen đang rộng hai tay tiếp dẫn. Luồng ánh sáng này chiếu soi khắp mười phương
thế giới không chỗ nào không soi đến. Gần đó có một lớp ánh sáng màu nâu đục,
tượng trưng cho cảnh giới của ngạ quỷ cũng đồng thời xuất hiện.
Đá Abelsonite trong hành Hỏa và thuộc vào Kinh Túc Thiếu
Âm Tâm, Kinh Thủ Quyết Âm Tâm Bào. Kinh Túc Thiếu Âm Tâm liên quan đến bệnh vai,
mặt trong chi trên đau, gan tay nóng hoặc lạnh, mồm khô, khát muốn uống nước,
đau mắt, đau vùng tim, nấc khan, sườn ngực đau tức, chứng thực thì phát cuồng,
chứng hư thì bi ai, khiếp sợ, ở tim, ngực, tâm thần. Ví dụ như huyệt Cực Tuyền có tác dụng
liên quan đến đau ngực sườn, đau tim, tay lạnh đau, cánh tay không giơ được,
lao hạch; huyệt Thanh Linh có
tác dụng liên quan đến đau vai và cánh tay, đau
sườn ngực, mắt vàng; huyệt Thiếu Hải (Huyệt Hợp thuộc Thủy) có tác dụng liên
quan đến Khuỷu tay co rút, tay tê dại, bàn tay run, đau vùng tim, đầu váng, mắt
hoa, hay quên, cuồng, tràng nhạc; huyệt Linh Đạo (Huyệt Kinh thuộc
Kim) có tác dụng liên quan đến đau cẳng tay, đau và co khuỷu tay, đau vùng tim,
kinh sợ, mất tiếng đột ngột. Ví dụ như huyệt Thông Lý
(Huyệt Lạc với kinh Tiểu trường) có tác dụng liên quan đến đau cổ tay, đau cẳng
tay, đau khuỷu tay, tim đập mạnh, hồi hộp, sốt, trong ngực bồn chồn, sốt không
có mồ hôi, đau đầu, hoa mắt, cứng lưỡi, không nói được; huyệt Âm Khích
(Huyệt Khích) có tác dụng liên quan đến ngực đầy tức, đau vùng tim, tim đập mạnh,
hồi hộp, ra mồ hôi trộm, chảy máu mũi, nôn ra máu; huyệt Thần Môn
(Huyệt Du thuộc Thổ, huyệt Nguyên) có tác dụng liên quan đến lòng bàn tay nóng,
đau vùng tim, tim đập mạnh, hồi hộp, mất ngủ, hay quên, ngớ ngẩn, động kinh; huyệt Thiếu Phủ
(Huyệt Huỳnh thuộc Hỏa) có tác dụng liên quan đến ngón tay út co quắp, lòng bàn
tay nóng, đau khó chịu trong ngực, tim đập hồi hộp, sốt rét lâu ngày, tiểu dầm;
huyệt Thiếu
Xung (Huyệt Tỉnh thuộc
Mộc) có tác dụng liên quan đến đau vùng tim, đau cạnh sườn, tim đập mạnh, hồi hộp,
cấp cứu trúng phong, sốt cao, vui giận thất thường. Kinh Thủ Quyết Âm Tâm Bào liên quan
đến các chứng mặt đỏ, nách sưng, cánh tay, khuỷu tay
co quắp, gan tay nóng, đau vùng tim, bồn chồn, tức ngực sườn, tim đập thình thịch,
cuồng, nói lảm nhảm, hôn mê, ở ngực, tim, dạ dày, bệnh tâm thần, sốt. Ví dụ như huyệt Thiên Trì (Hội của
kinh Quyết âm ở tay, chân và Thiếu dương ở chân) có tác dụng liên quan đến Tức ngực, bồn chồn, đau sườn, nách sưng đau, tràng nhạc;
huyệt Thiên
Tuyền có tác dụng liên quan đến đau mặt trong cánh tay,
Đau vùng trước tim, Đau ngực; huyệt Khúc Trạch (Huyệt Hợp thuộc Thủy)
có tác dụng liên quan đến Đau sưng khuỷu tay, Đau cẳng tay, cánh tay, đau vùng
tim, Mồm khô, phiền táo, chỉ ra mồ hôi ở đầu, nôn do cảm hàn hay thai nghén, thổ
tả; huyệt
Khích Môn (Huyệt Khích) có tác dụng liên quan đến Đau vùng trước
tim có nôn mữa, tim đập hồi hộp, Ngũ tâm phiền nhiệt, tinh thần uể oải.
Thuyết Khí Tiết
nói, người có mệnh cục Thổ (sinh vào ngày Mậu-Kỷ, Thìn-Mùi-Tuất-Sửu) gặp vào những
ngày thuộc hành Mộc (như ngày Giáp-Ất, Dần-Mão) thì , bởi Thổ khắc Mộc, mật và
dạ dày dễ tổn thương, biểu hiện lên cơ thể là bị nấc cục, đau dạ dày, tiêu chảy,
hoàng thũng, khó nuốt, chán ăn, buồn nôn. Bên ngoài sẽ biểu hiện ra da khô, tay
phải mỏi. Trẻ nhỏ bị suy dinh dưỡng, vàng lá lách. Đặc tính của Thổ là ẩm ướt,
dễ bị chìm, sắc mặt vàng vọt. Sách mệnh lý nói: Thổ tại Mộc vượng, lá lách tổn
thương. Muốn khắc chế, phải lấy Hỏa giải độc, Abelsonite thuộc Hỏa, có tác dụng
tốt với thể trạng người Thổ cục (Hỏa sinh Thổ), đề phòng cho những ngày Mộc thịnh
(Giáp-Ất, Dần-Mão) hay tháng hành Mộc như tháng giêng và tháng hai. Người đeo
đá Abelsonite,
có thể dùng Hỏa khắc chế được Mộc hại.
Theo thuyết Tứ
Trụ, đá Abelsonite thuộc mệnh Hỏa rất hạp với mệnh Mộc sinh vào ngày xuân,được
nguyệt lệnh mà phần lớn là thân mạnh,vì vừa qua mùa đông lạnh,có chút lạnh lẽo,mượn
Hỏa sưởi ấm cơ thể tự do phát triển vươn xa,có Thủy nuôi dưỡng sẽ sinh trưởng
nhanh.Tóm lại,Mộc mùa xuân tốt nhất nên có Thủy,Hỏa đến điều hòa mới phát triển
tốt. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Mộc sinh mùa thu,thông
thường không được sự trợ giúp của nguyệt lệnh,Kim nặng quay quanh,phần lớn thuộc
thân yếu. Nếu là Mộc mùa suy yếu,ưa được Hỏa tiết,Thổ dưỡng,Kim khắc không ưa
Thủy đến tương trợ. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Hỏa sinh mùa
thu. Hỏa mùa thu phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh mới có thể thịnh vượng,
chuyển nguy thành yên bình đồng thời đạt được tài lợi, sẽ không bị khốn đốn. Nếu
gặp Hỏa đến phù trì, có thể phát huy tài cáng, dựa vào nổ lực của bản thân có
thể được thù lao xứng đáng. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Hỏa
sinh mùa đông. Hỏa mùa đông phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh, nếu không Thủy
vượng sẽ tiêu diệt Hỏa, mãi mãi khó có thể đứng dậy. Hỏa mùa đông thân yếu có Hỏa
đến giúp thì Tỷ Kiếp khác Tài tinh, có thể nhìn thấy tiền tài phát triển thịnh
vượng, nhưng duyên với vợ bạc, quan hệ không thân mật, hoặc vợ có tình trạng sức
khỏe không tốt. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Kim sinh mùa đông.
Kim của mùa đông có tính chất hàn lạnh, nếu Mộc nhiều cũng không thể điêu khắc
mà tái hiện công hiệu của Kim. Nếu Thủy quá nhiều, Kim sẽ bị chìm vào ưu phiền.
Thổ có thể khắc Thủy, làm cho Kim không chịu ảnh hưởng của hàn lạnh, mà Hỏa có
thể sinh trợ Thổ, Thổ có thể sinh trợ Kim, Thổ Kim là mẹ con tương sinh, có thể
thành công. Kim cũng ưa Tỷ kiên nhưng cần có Hỏa xuất hiện mới có thể ôn dưỡng
Quan ấn.
Thuyết
Hoa Giáp cho rằng Abelsonite
thuộc về Hỏa (đỏ) phối Mộc (trụ dài), tức Hỏa Cục. Do đó, Abelsonite giúp khắc chế các bản mệnh Mộc-Thổ như
Giáp Thìn, Giáp Tuất, Ất Mùi, Ất Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, vì vậy, những bản mệnh
trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Abelsonite
cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Thổ (Hỏa sinh Thổ), gồm có mệnh thuộc
Hỏa-Thổ và thuần Thổ: Mậu Ngọ, Kỷ Tỵ, Bính Thìn, Bính Tuất, Đinh Mùi, Đinh Sửu,
Mậu Thìn, Mậu Tuất, Kỷ Mùi, Kỷ Sửu, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với
loại ngọc này.
Dựa
trên thuyết Orthotherabi và công thức cấu tạo của đá Abelsonite (Ni(C31H32N4)) gồm: Nguyên tố
Nickel (Ni) số hiệu nguyên tử là 28, tỉ trọng cơ thể là 140×10-7, khối lượng
trung bình 0.000015kg, tỷ lệ nguyên tố là 0.0000015% trong không khí. Nguyên tố
Carbon (C) có số hiệu nguyên tử là 6, tỉ trọng cúa nó trong cơ thể ta là 0.18,
khối lượng trung bình 16kg chiếm tỷ lệ 12% trong cơ thể. Tác động tích cực cho
sức khỏe do Carbon là thành phần chính cấu tạo nên sinh vật sống. Tuy nhiên,
thuyết Oligotherapy chú trọng vào các vi chất, chứ không phải các chất cơ bản,
nên thường Carbon không được tính vào thuyết này. Nguyên tố Nitrogen (N) có số
hiệu nguyên tử là 7, tỉ trọng trong cơ thể người là 0.03, khối lượng trung bình
1.8kg đạt tỷ lệ 1.1% trong cơ thể. Tác động tích cực cho sức khỏe do Nitro là
thành phần chủ yếu của cơ bắp của sinh vật, cấu tạo nên ADN và các amino axit.
Tác dụng lên cơ bắp, hỗ trợ khả năng vận động, cử động. Được cho là có tác dụng
hỗ trợ điều trị thương tích ở cơ và phục hồi cơ.
Dựa
trên công thức hóa học của đá Abelsonite,
theo thuyết Hài Hòa Bộ Tám loại đá này mang yếu tố kim tinh với nguyên tố chủ đạo
là nguyên tố Nước, vì vậy tác động lên vùng thắt lưng, các tĩnh mạch, âm đạo, cổ
họng, bả vai và thận, eo. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến
các bệnh liên quan sản khoa, và sự sinh sản, (sẩy thai, đẻ sớm...) các thương
tích liên quan xương sống và hông, liệt nửa người. Mặt khác, nó còn làm tăng cường
tình cảm và cảm xúc, đặc biệt là sự cảm nhận vẻ đẹp, cảm xúc của phụ nữ, nữ
tính, hài hòa, đồng cảm, thân thiện, tình dục nữ,... Nhấn mạnh yếu tố cảm xúc.
Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là trấn giữ các mối quan hệ của nhà
chiêm tinh thứ 5 và 12: hậu duệ (nhà Nati) và tù đày (nhà Carcer). Dành hỗ trợ
cho những người có mối quan hệ với con cái không được như ý để cải thiện tình
hình của mối quan hệ. Hàn gắng các rạng vỡ của mối quan hệ. Và hỗ trợ các mối
quan hệ liên quan đến luật pháp, cai trị. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng
yếu tố kim tinh bảo trợ về ngôn ngữ và văn chương nói chung (Dante Alighieri).
Dành cho những người làm trong lĩnh vực liên quan đến các ngành ngôn ngữ và văn
chương như giáo viên, nhà thơ, nhà văn, biên kịch, thư ký, nhà nghiên cứu, thủ
thư...
Thuyết Bát
Quái Kinh Dịch dựa vào hình thái tinh hệ của tinh thể gồm tám loại, được phân định
thành tám quái thuộc nội quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập
Phương (cubic - isometric) ứng Càn, Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam Phương
(rhombohedral) ứng Ly, Lục Phương (hexagonal - trigonal) ứng Đoài, Tam Tà
(triclinic) ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic) ứng
Tốn, Phi Tinh (noncrystallinic) ứng Khôn. Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng
khác: Lập Phương ứng Càn, Tam Tà ứng Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn,
Tam Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở
đây chỉ trình bày thuyết của Thông Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm
tám màu, ứng với tám quái thuộc ngoại quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính,
đều nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ nhất được trình bày trong I-ching: Binary
Numbers, Astrology, And Chakras, dựa trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng,
Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ,
Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành ứng
bát quái cho rằng: Càn ứng dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn ứng
cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề xuất
dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam, Cấn
ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại
quái tương ứng với hình dạng và màu sắc của tinh thể, từ đó tính ra được quái
trong 64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại ứng một bộ phận cơ thể theo y
lý trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể. Đá Abelsonite có màu đỏ tương ứng
quẻ ngoại quái Cấn, có tinh hệ Tam tà tương ứng quẻ nội quái Cấn, ghép lại
chính là quẻ quái số 52: quẻ Thuần Cấn. Quái số 52 ứng với vị trí mu bàn chân
trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên quan đến xương
và chân như chai cứng chân, đau gót chân, mụn cóc bàn chân, ngón chân búa, u dây
thần kinh,…. Quẻ Thuần Cấn có nghĩa Cấn là đậu, không nói đậu mà nói cấn, là vì
quẻ Cấn là tượng núi, có ý yên nặng rắn đặc, nghĩa chữ “đậu” không thể hết được.
Kiền Khôn giao nhau, ba lần tìm mà thành quẻ Cấn, một khí Dương ở trên hai khí
Âm, Dương là vật động mà tiến lên, đã đến bậc trên thì phải đậu lại. Âm là im lặng,
trên đậu mà dưới im lặng, cho nên là Cấn. Thế thì với nghĩa “chứa đậu” khác
nhau thế nào? Đáp rằng: Chứa đậu là nghĩa ngăn chế mà chứa lại, lấy sức mà làm
cho đậu; cấn đậu là nghĩa yên ổn mà đậu, người đeo đá này sẽ được các lợi ích
như vậy.
Nơi tìm ra: loại khoáng vật này
hiện tại chỉ có thể thấy ở Ban Utah – Hoa Kỳ.
Lời cảm
ơn: bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến
sĩ Jean-Jacques Rousselle (Pháp),
nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu tập Trương Quốc Tùng (Hà Nội),
nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập
Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments