Adamite
水砷锌矿– Thủy Thân Tân Quáng
Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị Liệu, Thạch Học Trị Liệu dịch từ
chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ. Lithotherapy phân thành Litho đến
từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá, therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ]
tức là chữa trị, lithotherapy tức là chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với
đá ở ngoài da. Lithotherapy là một môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận
huyền học và thần bí học. Mặc dù có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả
năng của nó, đã được ứng dụng từ lâu trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại,
nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức màn bí mật của những điều thần kỳ giống như nền
Đông Y của người Trung Quốc hay Nam Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu
này sẽ đặc biệt trình bày về những lý luận căn bản trong Thạch Lý Học đối với
Adamite, nằm trong chuỗi khảo cứu, viết riêng cho tuần báo UNESCO.
Giới thiệu đá: Adamite được đặt theo tên của nhà thiên văn học
người Pháp Gilbert-Joseph Adam (1795-1881). Tên Hán Việt của loại đá này
là 水砷锌矿 hoặc 羟砷锌石 – Thủy Thân Tân
Quáng hoặc Thân Tân Thạch, nghĩa là quặng tì sương hay đá tì sương, một chất độc
có hình dạng giống kẽm. Đây là một loại khoáng chất thường xảy ra trong vùng bị
oxy hoá hoặc bị phong hóa trên các lần xuất hiện quặng kẽm. Xơ tinh khiết không
màu, nhưng thông thường nó có màu vàng do phụ gia của hợp chất Fe. Các màu xanh
lá cây cũng xuất hiện và được kết nối với sự thay thế đồng trong cấu trúc
khoáng vật. Olivenite là một arsenat đồng kết hợp với Adamite và có sự thay thế
đáng kể giữa kẽm và đồng kết quả là một chất trung gian được gọi là
Cuproadamite. Đá Adamite phớt xanh có tác động tốt đến chức năng hoạt động
của phổi, tim và các tuyến nội tiết kể cả tuyến ức. Adamite phớt xanh da trời
có tác động tích cực tới họng, xoang miệng, thính giác và cả tuyến nội tiết.
Tính nhiệm màu của Adamite nằm ở chỗ nó giúp cho người ta tập trung vào mục
đích đã đặc ra và tìm ra những phương hướng mới trong hoạt động sáng tạo. Những
mãnh của Adamite có vai trò như bùa hộ mệnh, trợ giúp kinh doanh, tìm kiếm
thành công trong công việc mới và phát triển kỹ năng bản thân. Loại đá này giúp
cho chủ của nó đạt được thành công và dẫn đến phồn vinh.
Giới thiệu thuyết: Giá trị thạch lý học của Adamite được trình bày thành các thuyết cơ bản: thuyết Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học (Chromotherapy), thuyết Linh Khí (Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves), thuyết Thái Lặc Mã (Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết Hoa Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié).
Thuyết
Đông Phương Bản Mệnh có nhiều
luận thuyết khác nhau. Theo phép tính theo năm, Phương Đông dựa trên Can
Chi, lập luận dựa trên ngũ hành, phối màu tạo nên bộ hoa giáp sắc pháp. Từ Giáp
Tý là sắc đỏ ban mai, chuyển dần cho đến Quý Hợi là sắc tím trời khuya, tạo nên
hơn 60 màu khác nhau. Theo phép tính theo tháng, người ta căn cứ vào địa chi
của tháng sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần, tháng 2 là Mão, tháng 3 là
Thìn, tháng 4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi, tháng 7 là Thân, tháng 8
là Dậu, tháng 9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu, cùng
phối hợp với ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Dần Mão thuộc Mộc
(ứng dùng đá có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ thuộc Hỏa (ứng dùng đá có
tông màu cam đỏ hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có tông màu trắng, xám,
ánh bạc), Tý Hợi thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu đen, chàm, tím), Thìn Mùi
Tuất Sửu thuộc Thổ (ứng dùng đá có tông màu vàng, trong, ánh kim). Thuyết về
tháng bản mệnh này được dùng nhiều rộng rãi vì đơn giản, dễ tính ra.
Ở Việt Nam, cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh đều có nói đến thuyết này. Tuy nhiên, sự phân định màu sắc và ngũ hành không giống nhau. Ví dụ như Ts Hoàng Thế Ngữ trong cuốn Đá Quý Việt Nam đưa ra Hỏa ứng màu đỏ, Thủy ứng màu xanh, Thổ ứng màu nâu, Mộc ứng màu lục, Kim ứng màu vàng trắng đen. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định khác Hỏa ứng màu đỏ hồng tím, Thủy ứng màu đen sẫm, Thổ ứng vàng nâu, Mộc ứng lam lục, Kim ứng trắng bạc.
Thuyết Bản Mệnh phương đông xếp loại đá này vào năm Mậu Tuất, thuộc Thổ Cục, về Dương Phần. Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Mậu Tuất sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu lục, thuộc về hành Thổ, ứng về tháng Tuất Sửu, tức tháng 9,12.
Ở Việt Nam, cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh đều có nói đến thuyết này. Tuy nhiên, sự phân định màu sắc và ngũ hành không giống nhau. Ví dụ như Ts Hoàng Thế Ngữ trong cuốn Đá Quý Việt Nam đưa ra Hỏa ứng màu đỏ, Thủy ứng màu xanh, Thổ ứng màu nâu, Mộc ứng màu lục, Kim ứng màu vàng trắng đen. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định khác Hỏa ứng màu đỏ hồng tím, Thủy ứng màu đen sẫm, Thổ ứng vàng nâu, Mộc ứng lam lục, Kim ứng trắng bạc.
Thuyết Bản Mệnh phương đông xếp loại đá này vào năm Mậu Tuất, thuộc Thổ Cục, về Dương Phần. Thích hợp cho người nữ/nam, sinh năm Mậu Tuất sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu lục, thuộc về hành Thổ, ứng về tháng Tuất Sửu, tức tháng 9,12.
Thuyết Tây
Phương Bản Mệnh là thuyết rất cơ bản của Thạch Lý
Học Phương Tây, dựa trên Cung Hoàng Đạo, mười hai cung mỗi cung chủ chế một
màu, tùy vào ngày bản sinh mà màu sắc đậm nhạt khác nhau theo thời gian, từ đó
luận về đá bản sinh (Birthstones) được dùng nhiều trong văn hóa phương tây. Mặc
dù vậy, hầu hết các tài liệu đều xếp tương đối bất đồng, từ thế kỷ 16 trở đi,
hầu hết không được thống nhất. Ở đây, chỉ trích dẫn những quan điểm được công
nhận rộng rãi. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo tháng như sau:
tháng một màu đỏ cam, tháng hai màu tím tươi, tháng ba màu xanh lam, tháng tư
màu trắng trong, tháng năm màu lục đen, tháng sáu màu trắng đục, tháng bảy màu
đỏ tươi, tháng tám màu xanh chuối, tháng chín màu xanh lá, tháng mười màu đen,
tháng mười một màu vàng, tháng mười hai màu chàm. Thuyết Bản Mệnh phương tây
được định nghĩa theo hoàng đạo như sau: Bạch Dương màu xanh đen, Kim Ngưu màu
xanh dương đậm, Song Tử màu trắng trong, Cự Giải màu xanh lá mạ, Sư Tử màu đen,
Xử Nữ màu cam, Thiên Bình màu lục nhạt, Thiên Yết màu lam, Nhân Mã màu vàng, Ma
Kết màu đỏ tươi, Bảo Bình màu đỏ sậm, Song Ngư màu tím. Thuyết bản mệnh Phương
Tây được ứng dụng rộng rãi trong đời sống từ thế kỷ 18, có tương đối nhiều các
dị biệt tùy vào sách.
Ở Việt Nam, thuyết này cũng được sử dụng khá nhiều, nhưng không hiểu vì sao trong tất cả các cuốn Thạch Lý Học của Việt Nam, ngoại trừ cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc và cuốn Tất Cả Về Khoáng Vật Chữa Bệnh Mầu Nhiệm (dịch của Jasper Stones của Nga), đều không nhắc đến thuyết này.
Đá này màu lục được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng Mười, mùa Đông và xếp vào đá bản mệnh của cung Thiên Bình, thuộc hệ Khí. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 23 tháng 9 đến 23 tháng 10 hằng năm, hoặc vào tháng 10 thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này.
Ở Việt Nam, thuyết này cũng được sử dụng khá nhiều, nhưng không hiểu vì sao trong tất cả các cuốn Thạch Lý Học của Việt Nam, ngoại trừ cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc và cuốn Tất Cả Về Khoáng Vật Chữa Bệnh Mầu Nhiệm (dịch của Jasper Stones của Nga), đều không nhắc đến thuyết này.
Đá này màu lục được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng Mười, mùa Đông và xếp vào đá bản mệnh của cung Thiên Bình, thuộc hệ Khí. Vì vậy, những ai sinh vào giữa 23 tháng 9 đến 23 tháng 10 hằng năm, hoặc vào tháng 10 thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này.
Thuyết Quang Lý Học (Chromatherapy) được ra đời rất lâu từ giả kim thuật, nhưng chính thức định hình đặt tên bởi
tiến sĩ Christian Agrapart. Thạch Lý Học sử dụng lại thuật ngữ này, nhưng không
sử dụng liệu pháp ánh sáng như Agrapart mà lý luận dựa trên màu của loại đá. Nó
gồm một phần nghiên cứu về màu sắc trong y học của Agrapart và một phần nghiên
cứu về màu sắc trong tâm lý học. Màu sắc trong tâm lý học đã được nghiên cứu
lâu đời như bảng phân chia màu sắc và tâm trạng "rose of
temperaments" (Temperamenten Rose) của Goethe và Schiller (1798). Nhưng
nghệ thuật này chỉ thăng hoa nhờ nghiên cứu của Carl Jung khi ghép tính biểu tượng
của màu sắc vào tâm lý con người. Từ đó, những người nghiên cứu sau này sử dụng
sự tương ứng màu sắc đó trong viên đá và đặt nền tảng lý thuyết cho Thạch Lý Học.
Dựa vào bảng màu sắc đó, cho phép gợi ý đến tác động chữa bệnh hoặc lên tinh thần
con người.
Ở Việt Nam, thuyết Quang Lý Học này cũng được sử dụng rộng rãi. Hầu hết các sách đều có đề cập trừ cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Trong đó cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh có thể coi là chi tiết nhất về thuyết này.
Thuyết Quang Lý Học (Chromatherapy) cho rằng màu xanh lục tượng trưng cho sự sinh sản và phát triển. Đồng nghĩa với việc loại đá này giúp tăng cường khả năng sinh sản, phát triển. Nó có tác dụng phát triển dành cho những người yếu về sinh lực và sinh lý, dành cho bà mẹ đang có thai hoặc trẻ nhỏ còi cọc. Nó cũng là hòn đá dành cho người hộ sinh, hoặc cách ngành chăm sóc sức khỏe, khoa sản. Ở Ai Cập màu xanh đã được kết nối với bầu trời và thần linh. Thần Amun của Ai Cập có thể làm cho da của mình màu xanh để ông có thể bay, vô hình, trên bầu trời. Xanh lam cũng có thể bảo vệ chống lại cái ác; nhiều người ở vùng Địa Trung Hải vẫn mặc một bộ áo giáp màu xanh, tượng trưng cho con mắt của Thiên Chúa, để bảo vệ họ khỏi những tai hoạ.
Ở Việt Nam, thuyết Quang Lý Học này cũng được sử dụng rộng rãi. Hầu hết các sách đều có đề cập trừ cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Trong đó cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh có thể coi là chi tiết nhất về thuyết này.
Thuyết Quang Lý Học (Chromatherapy) cho rằng màu xanh lục tượng trưng cho sự sinh sản và phát triển. Đồng nghĩa với việc loại đá này giúp tăng cường khả năng sinh sản, phát triển. Nó có tác dụng phát triển dành cho những người yếu về sinh lực và sinh lý, dành cho bà mẹ đang có thai hoặc trẻ nhỏ còi cọc. Nó cũng là hòn đá dành cho người hộ sinh, hoặc cách ngành chăm sóc sức khỏe, khoa sản. Ở Ai Cập màu xanh đã được kết nối với bầu trời và thần linh. Thần Amun của Ai Cập có thể làm cho da của mình màu xanh để ông có thể bay, vô hình, trên bầu trời. Xanh lam cũng có thể bảo vệ chống lại cái ác; nhiều người ở vùng Địa Trung Hải vẫn mặc một bộ áo giáp màu xanh, tượng trưng cho con mắt của Thiên Chúa, để bảo vệ họ khỏi những tai hoạ.
Thuyết Luân Xa (Chakra) được
trình bày trong trào lưu Thời Đại Mới (New Age) bởi các lãnh tụ Thông Thiên Học
như Johann Georg Gichtel, hoặc Yoga như Swami Sivananda. Vẫn vận dụng chủ yếu
là màu sắc của viên đá, được dịch nghĩa theo hình ảnh các luân xa trong văn hóa
Ấn Độ trong Áo Nghĩa Thư. Từ nguyên thủy trong tiếng Sanskrit cakra mang ý
nghĩa là "bánh xe" hay "vòng tròn", các luân xa được miêu tả
như là xếp thành một cột thẳng từ gốc của cột sống lên đến đỉnh đầu, liên quan
tới một số chức năng tâm sinh lý, một khía cạnh của nhận thức, đánh dấu bởi một
màu sắc nào đó. Chúng thường được hình tượng hóa bằng các hoa sen với số cánh
khác nhau cho mỗi luân xa. Các luân xa được cho là đem lại năng lượng cho cơ thể
và có liên quan đến các phản ứng của cơ thể, tình cảm hay tâm lý của một người,
là các điểm chứa năng lượng sống (prana, cũng được gọi là shakti) lưu chuyển giữa
các điểm đó dọc theo các đường chảy (gọi là nadis). Chức năng của các chakra là
xoay tròn để thu hút vào năng lượng sống từ viên đá để giữ cân bằng cho sức khỏe
về tâm linh, tâm lý, tình cảm và sinh lý của cơ thể.
Ở Việt Nam, thuyết Luân Xa được biết đến rộng rãi nhất trong số các thuyết về thạch lý học. Tất cả các sách đều có đề cập đến thuyết này trừ cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Sự nhận định cũng ít nhiều sai khác. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định Luân xa gốc ứng màu đỏ đen, luân xa xương cùng ứng màu cam phấn hồng, luân xa thái dương ứng màu vàng, luân xa tim ứng màu xanh lá, luân xa họng ứng màu xanh lam, luân xa trán ứng màu chàm tím, luân xa vương miện ứng màu trắng và tím nhạt.
Thuyết Luân Xa (Chakra) cho rằng loại đá này màu lục ứng với luân xa tim Anahata (hoa sen mười hai cánh). Anahata hay chakra tim là chakra chính thứ tư, theo Hindu Yogic, Shakta và truyền thống Tantric Phật giáo. Trong tiếng Phạn, anahata có nghĩa là "không hề hấn gì, không làm phiền, và không bị đánh bại". Anahata Nad đề cập đến khái niệm Vedic về âm thanh không bị xáo trộn (âm thanh của vương quốc thiên thần). Anahata có liên quan đến sự cân bằng, bình tĩnh và thanh thản. Loại đá này mang đến khả năng tăng cường tình cảm, lòng nhân ái, từ bi. Đặt viên đá ngay vị trí ngực, giữa ức, nơi có luân xa. Nó có tác động lên tim, hệ miễn dịch, hệ hô hấp, phổi, lồng ngực. Vì vậy sẽ tác dụng cải thiện dành cho những người thiếu cảm thông, hoặc bị xơ cứng cảm xúc. Những người trong các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe như y tế viên, bác sĩ, y tá, dược sĩ hoặc lĩnh vực giáo dục như giáo viên, giáo sư, nhân viên cộng đồng cũng là những đối tượng của loại đá này. Những người trong vị trí khắc nghiệt (đao phủ) cũng hay sử dụng loại đá này để trị liệu tâm hồ. Theo cuốn “Tất cả vế khoáng vật chữa bệnh màu nhiệm” của Jasper Stone, ông cho rằng đá Adamite có ảnh hưởng đến luân xa: Luân xa vùng họng: kiểm soát cơ quan hô hấp, họng, hệ thống thính giác và da, hoạt tính của luân xa này giúp tự khẳng định trong hoạt động xã hội về nghề nghiệp, điều khiển cảm xúc, giúp đem đến cảm giác mãn nguyện.
Ở Việt Nam, thuyết Luân Xa được biết đến rộng rãi nhất trong số các thuyết về thạch lý học. Tất cả các sách đều có đề cập đến thuyết này trừ cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Sự nhận định cũng ít nhiều sai khác. Ths. Nguyễn Mạnh Linh trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý quy định Luân xa gốc ứng màu đỏ đen, luân xa xương cùng ứng màu cam phấn hồng, luân xa thái dương ứng màu vàng, luân xa tim ứng màu xanh lá, luân xa họng ứng màu xanh lam, luân xa trán ứng màu chàm tím, luân xa vương miện ứng màu trắng và tím nhạt.
Thuyết Luân Xa (Chakra) cho rằng loại đá này màu lục ứng với luân xa tim Anahata (hoa sen mười hai cánh). Anahata hay chakra tim là chakra chính thứ tư, theo Hindu Yogic, Shakta và truyền thống Tantric Phật giáo. Trong tiếng Phạn, anahata có nghĩa là "không hề hấn gì, không làm phiền, và không bị đánh bại". Anahata Nad đề cập đến khái niệm Vedic về âm thanh không bị xáo trộn (âm thanh của vương quốc thiên thần). Anahata có liên quan đến sự cân bằng, bình tĩnh và thanh thản. Loại đá này mang đến khả năng tăng cường tình cảm, lòng nhân ái, từ bi. Đặt viên đá ngay vị trí ngực, giữa ức, nơi có luân xa. Nó có tác động lên tim, hệ miễn dịch, hệ hô hấp, phổi, lồng ngực. Vì vậy sẽ tác dụng cải thiện dành cho những người thiếu cảm thông, hoặc bị xơ cứng cảm xúc. Những người trong các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe như y tế viên, bác sĩ, y tá, dược sĩ hoặc lĩnh vực giáo dục như giáo viên, giáo sư, nhân viên cộng đồng cũng là những đối tượng của loại đá này. Những người trong vị trí khắc nghiệt (đao phủ) cũng hay sử dụng loại đá này để trị liệu tâm hồ. Theo cuốn “Tất cả vế khoáng vật chữa bệnh màu nhiệm” của Jasper Stone, ông cho rằng đá Adamite có ảnh hưởng đến luân xa: Luân xa vùng họng: kiểm soát cơ quan hô hấp, họng, hệ thống thính giác và da, hoạt tính của luân xa này giúp tự khẳng định trong hoạt động xã hội về nghề nghiệp, điều khiển cảm xúc, giúp đem đến cảm giác mãn nguyện.
Thuyết Hoa Giáp dựa
trên lý học phương đông, canh theo can chi bản mệnh của một người theo ngày
tháng năm sinh, rồi tính sự xung khắc hay tương hợp trong ngũ hành. Từ đó đưa
ra nguyên tắc vận dụng trong thạch học, nhờ vào ngũ hành trong khoáng thạch đối
chế lại với bản mệnh, nhằm điều hòa bản thân. Thuyết Ngũ Hành quy định theo
thiên can: Giáp Ất thuộc Mộc, Bính Đinh thuộc Hỏa, Mậu Kỷ thuộc Thổ, Canh Tân
thuộc Kim, Nhâm Quý thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành quy định theo địa chi: Dần Mão
thuộc Mộc, Ngọ Mùi thuộc Hỏa, Thân Dậu thuộc Kim, Hợi Tý thuộc Thủy, Thìn Mùi
Tuất Sửu thuộc Thổ. Từ thiên can, địa chi, quy định nên phối hành của bản mệnh:
Mậu Thìn thuộc về Thổ phối Thổ… Khoáng thạch được phân theo ngũ hành dựa trên
màu sắc và hình dạng. Thuyết Ngũ Hành quy định màu sắc: Lục và Lam thuộc Mộc, Đỏ
và Cam thuộc Hỏa, Vàng và Trong thuộc Thổ, Trắng và Xám thuộc Kim, Đen và Tím
thuộc Thủy. Thuyết Ngũ Hành quy định theo thể dạng: trụ và dài thuộc Mộc, nhọn
và góc thuộc Hỏa, vuông và cân thuộc Thổ, cong và tròn thuộc Kim, uốn và lượn
thuộc Thủy. Từ đó suy ra được phối hành của khoáng thạch: ví dụ Huyền Thiết Thạch
(Hematite) đen có thể dạng khối tròn (Botryoidal) được xem là Thủy phối Kim.
Thuyết Ngũ Hành quy định tương sinh như sau: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ
sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Thuyết Ngũ Hành quy định tương khắc như
sau: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc. Dựa
vào tương sinh tương khắc của Ngũ Hành để khắc chế hay phù trợ cho bản mệnh
thông qua việc đeo những khoáng thạch khác nhau trên cơ thể.
Ở Việt Nam, thuyết Hoa Giáp (Ngũ Hành Can Chi) được trình bày trong hầu hết các sách về Thạch Lý Học, nhưng hầu hết chỉ dừng lại ở lý luận về màu sắc theo ngũ hành. Cá biệt có cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm là có nhắc đến thuyết này ứng dụng lý luận lên hình dạng của tinh thể, tuy nhiên không có khai triển đầy đủ. Thuyết này các phái đạo gia phong thủy khai thác và phát triển rất hoàn chỉnh, được trình bày tóm tắt như bên trên đây.
Thuyết Hoa Giáp cho rằng Thân Tân Thạch thuộc về Mộc (xanh) phối Hỏa (nhọn). Do đó, Thân Tân Thạch giúp khắc chế các bản mệnh Thủy – Hỏa như Nhâm Ngọ, Quý Tỵ, Bính Tý, Đinh Hợi, vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Thân Tân Thạch cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Hỏa (Mộc sinh Hỏa): Giáp Tý, Ất Hợi, Nhâm Dần, Quý Mão, Bính Ngọ, Đinh Tỵ, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại ngọc này.
Ở Việt Nam, thuyết Hoa Giáp (Ngũ Hành Can Chi) được trình bày trong hầu hết các sách về Thạch Lý Học, nhưng hầu hết chỉ dừng lại ở lý luận về màu sắc theo ngũ hành. Cá biệt có cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm là có nhắc đến thuyết này ứng dụng lý luận lên hình dạng của tinh thể, tuy nhiên không có khai triển đầy đủ. Thuyết này các phái đạo gia phong thủy khai thác và phát triển rất hoàn chỉnh, được trình bày tóm tắt như bên trên đây.
Thuyết Hoa Giáp cho rằng Thân Tân Thạch thuộc về Mộc (xanh) phối Hỏa (nhọn). Do đó, Thân Tân Thạch giúp khắc chế các bản mệnh Thủy – Hỏa như Nhâm Ngọ, Quý Tỵ, Bính Tý, Đinh Hợi, vì vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Thân Tân Thạch cũng phù trợ cho các bản mệnh thuộc Hỏa (Mộc sinh Hỏa): Giáp Tý, Ất Hợi, Nhâm Dần, Quý Mão, Bính Ngọ, Đinh Tỵ, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại ngọc này.
Thuyết Khí Tiết, dựa trên
Ngũ Hành và sự vận hành của Khí Tiết tác động lên con người. Khí Tiết và Bản Mệnh
không hòa hợp, tất sinh ra bệnh tật đau yếu. Bệnh tật chính là do tinh khí huyết
trong cơ thể bị tổn mà nên, trong là lục phủ ngũ tạng, ngoài là thân thể tứ
chi, đều có liên quan đến ngũ hành tương sinh tương khắc. Nếu can chi ngũ hành
quá vượng, trong khi khí tiết bất hòa, tất nhiên gây bệnh cho người. Y lý
phương đông nói về Thiên Can: Giáp chủ Gan, Ất chủ Mật, Bính chủ Ruột, Đinh chủ
Tim, Mậu chủ dạ dày, Kỷ chủ Lách, Canh chủ ruột già, Tân chủ Phổi, Nhâm chủ
Bàng Quang, Quý chủ Thận. Y Lý Phương Đông nói về Địa Chi: Tý bệnh về Sa Mang,
Sửu bệnh về Bụng, Dần bệnh về Chân, Mão bệnh về Mắt, Thìn bệnh về Lưng, Tỵ bệnh
về Mặt, Ngọ bệnh về Tim, Mùi bệnh về Ngực, Thân bệnh về Cổ, Dậu bệnh về Phổi, Hợi
bệnh về Da. Sự hương thịnh hay suy tàn của ngũ hành trong khí tiết của thiên
can địa chi đều có quan hệ. Thuyết Khí Tiết, dựa
trên Ngũ Hành và sự vận hành của Khí Tiết tác động lên con người. Thuyết này sử
dụng y lý trong kinh lạc và y thuật phương đông. Khí Tiết và Bản Mệnh không hòa
hợp, tất sinh ra bệnh tật đau yếu. Bệnh tật chính là do tinh khí huyết trong cơ
thể bị tổn mà nên, trong là lục phủ ngũ tạng, ngoài là thân thể tứ chi, đều có
liên quan đến ngũ hành tương sinh tương khắc. Nếu can chi ngũ hành quá vượng,
trong khi khí tiết bất hòa, tất nhiên gây bệnh cho người. Y lý phương đông nói
về Thiên Can: Giáp chủ Gan, Ất chủ Mật, Bính chủ Ruột, Đinh chủ Tim, Mậu chủ dạ
dày, Kỷ chủ Lách, Canh chủ ruột già, Tân chủ Phổi, Nhâm chủ Bàng Quang, Quý chủ
Thận. Y Lý Phương Đông nói về Địa Chi: Tý bệnh về Sa Mang, Sửu bệnh về Bụng, Dần
bệnh về Chân, Mão bệnh về Mắt, Thìn bệnh về Lưng, Tỵ bệnh về Mặt, Ngọ bệnh về
Tim, Mùi bệnh về Ngực, Thân bệnh về Cổ, Dậu bệnh về Phổi, Hợi bệnh về Da. Sự
hương thịnh hay suy tàn của ngũ hành trong khí tiết của thiên can địa chi đều có
quan hệ. Người sinh vào bản mệnh Mộc
quá vượng, tự khắc tỳ vị có bệnh, nếu nhằm ngay lúc ngày tháng thuộc về khắc
tinh của Mộc thì bệnh phát.
Ở Việt Nam, thuyết Khí Tiết được trình bày tương đối cụ thể trong cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Các cuốn Thạch Lý Học khác hầu như không nhắc đến thuyết này.
Thuyết Ngũ Hành Khí Tiết nói, người có mệnh cục Hỏa (sinh vào ngày Bính Đinh, Tỵ Ngọ) gặp vào những năm tháng ngày thuộc Nhâm Quý, Tý Hợi (thuộc hành Thủy) thì bởi Thủy khắc Hỏa, sinh ra bệnh ở Ruột Tim, biểu hiện ở tiểu tràng và tâm kinh: câm đau miệng, co giật ngưng mủ, đậu mùa, ung nhọt, ghẻ lở, mặt đỏ, nóng nảy. Sách mệnh lý nói: mắt mờ, do Hỏa bị Thủy khắc chế, phải lấy Mộc giải độc, Thân Tân Thạch thuộc Mộc, có tác dụng tốt cho thể trạng người Hỏa Cục, nhất là vào những ngày hay tháng Thủy thịnh (Nhâm Quý, Tý Hợi).
Ở Việt Nam, thuyết Khí Tiết được trình bày tương đối cụ thể trong cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm. Các cuốn Thạch Lý Học khác hầu như không nhắc đến thuyết này.
Thuyết Ngũ Hành Khí Tiết nói, người có mệnh cục Hỏa (sinh vào ngày Bính Đinh, Tỵ Ngọ) gặp vào những năm tháng ngày thuộc Nhâm Quý, Tý Hợi (thuộc hành Thủy) thì bởi Thủy khắc Hỏa, sinh ra bệnh ở Ruột Tim, biểu hiện ở tiểu tràng và tâm kinh: câm đau miệng, co giật ngưng mủ, đậu mùa, ung nhọt, ghẻ lở, mặt đỏ, nóng nảy. Sách mệnh lý nói: mắt mờ, do Hỏa bị Thủy khắc chế, phải lấy Mộc giải độc, Thân Tân Thạch thuộc Mộc, có tác dụng tốt cho thể trạng người Hỏa Cục, nhất là vào những ngày hay tháng Thủy thịnh (Nhâm Quý, Tý Hợi).
Thuyết Tứ Trụ có thể ứng
dụng từ Bát Tự trong Thuyết Tứ Trụ để bổ cứu, dựa vào màu của đá để tương hỗ lấy
mệnh. Chủ yếu dựa vào thiên can, lấy âm dương và ngũ hành của thiên can để tính
lấy bốn phép Kiêu Ấn, Thực Thương, Tỷ Kiếp, Quan Sát và Tài, dụng vào địa chi
mà thành Thập Thần. Từ đó luận ra được Nhật Can và Nguyệt Lệnh, dựa vào sự phối
hợp của nó trong sinh thời mà dự biết lợi yếu của bản mệnh. Biết được lợi yếu của
bản mệnh rồi, mới dùng ngũ hành trong đá ngọc mà điều hòa. Có sách viết: Nhật
Can mạnh yếu cần có sự tương trợ của Nguyệt Lệnh. Trong trường hợp không có
Nguyệt Lệnh hỗ trợ, các can chi trong trụ liền suy yếu. Có thể dùng phương pháp
đá phong thủy để bổ cứu, điều hậu cho Nhật Can.
Ở Việt Nam, thuyết Tứ Trụ được sử dụng cực kỳ nhiều, tất cả các sách Thạch Lý Học tại Việt Nam đều có dẫn xuất như cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh , cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc. Tuy nhiên, có khá nhiều sai biệt giữa các sách với nhau về cách tính, điều này cũng dễ hiểu vì đây là ứng dụng tùy thuộc vào cách luận Tứ Trụ. Ở đây chỉ giữ lại một thuyết để thống nhất là sử dụng sách của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm.
Theo thuyết Can Chi Tứ Trụ, Thủy Thân Tân Thạch thuộc mệnh Mộc rất hạp với mệnh Hỏa sinh vào mùa thu. Hỏa mùa thu phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh mới có thể thịnh vượng, chuyển nguy thành yên bình đồng thời đạt được tài lợi, sẽ không bị khốn đốn. Nếu thân yếu không có Ấn lại gặp Thủy khắc sẽ khó tránh nguy cơ bị tiêu trừ, cơ thể không khỏe mạnh, thậm chí mất mạng. Nếu là Hỏa mùa thu có thân yếu lại gặp Thổ hao tiết, khó sáng và không thể phát huy tài hoa, vất vả cả đời. Nếu thân yếu lại gặp Kim đến tiết hao phần lớn là vất vả, nhiều thất bại, ít thành công, kinh tế khó khăn, nghèo khổ lao đao. Thân Tân Thạch thuộc mệnh Mộc cũng rất hạp với Hỏa sinh mùa đông. Hỏa mùa đông phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh, nếu không Thủy vượng sẽ tiêu diệt Hỏa, mãi mãi khó có thể đứng dậy. Hỏa mùa đông thân yếu có Hỏa đến giúp thì Tỷ Kiếp khác Tài tinh, có thể nhìn thấy tiền tài phát triển thịnh vượng, nhưng duyên với vợ bạc, quan hệ không thân mật, hoặc vợ có tình trạng sức khỏe không tốt. Nếu chỉ có Tỷ Kiếp mà không có Tài, đại diện cho vận thế thuận lợi, không có lợi ích thực tế. Thân Tân Thạch cũng rất hạp với mệnh Thủy sinh mùa thu. Thủy của mùa thu, vì Kim tư lệnh đương quyền, do đó Kim Thủy tương sinh, mẹ vượng con tướng. Mộc thịnh vượng thì sẽ tiết hao nguyên khí của Thủy, nhưng con cái sẽ hiển vinh.
Ở Việt Nam, thuyết Tứ Trụ được sử dụng cực kỳ nhiều, tất cả các sách Thạch Lý Học tại Việt Nam đều có dẫn xuất như cuốn Đá Quý Việt Nam của ts. Hoàng Thế Ngữ và cuốn Sổ Tay Đá Quý Phong Thủy của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm, cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh , cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc. Tuy nhiên, có khá nhiều sai biệt giữa các sách với nhau về cách tính, điều này cũng dễ hiểu vì đây là ứng dụng tùy thuộc vào cách luận Tứ Trụ. Ở đây chỉ giữ lại một thuyết để thống nhất là sử dụng sách của ĐĐ. Thích Minh Nghiêm.
Theo thuyết Can Chi Tứ Trụ, Thủy Thân Tân Thạch thuộc mệnh Mộc rất hạp với mệnh Hỏa sinh vào mùa thu. Hỏa mùa thu phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh mới có thể thịnh vượng, chuyển nguy thành yên bình đồng thời đạt được tài lợi, sẽ không bị khốn đốn. Nếu thân yếu không có Ấn lại gặp Thủy khắc sẽ khó tránh nguy cơ bị tiêu trừ, cơ thể không khỏe mạnh, thậm chí mất mạng. Nếu là Hỏa mùa thu có thân yếu lại gặp Thổ hao tiết, khó sáng và không thể phát huy tài hoa, vất vả cả đời. Nếu thân yếu lại gặp Kim đến tiết hao phần lớn là vất vả, nhiều thất bại, ít thành công, kinh tế khó khăn, nghèo khổ lao đao. Thân Tân Thạch thuộc mệnh Mộc cũng rất hạp với Hỏa sinh mùa đông. Hỏa mùa đông phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh, nếu không Thủy vượng sẽ tiêu diệt Hỏa, mãi mãi khó có thể đứng dậy. Hỏa mùa đông thân yếu có Hỏa đến giúp thì Tỷ Kiếp khác Tài tinh, có thể nhìn thấy tiền tài phát triển thịnh vượng, nhưng duyên với vợ bạc, quan hệ không thân mật, hoặc vợ có tình trạng sức khỏe không tốt. Nếu chỉ có Tỷ Kiếp mà không có Tài, đại diện cho vận thế thuận lợi, không có lợi ích thực tế. Thân Tân Thạch cũng rất hạp với mệnh Thủy sinh mùa thu. Thủy của mùa thu, vì Kim tư lệnh đương quyền, do đó Kim Thủy tương sinh, mẹ vượng con tướng. Mộc thịnh vượng thì sẽ tiết hao nguyên khí của Thủy, nhưng con cái sẽ hiển vinh.
Thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy) đề xuất bởi bác sĩ Jacques Ménétrier và Gabriel Bertrand, vào giữa thế kỷ 20. Những người thực hành Thạch Lý Học áp dụng lý thuyết này trong việc trị liệu thông qua cơ sở giống như Thuyết Vi Lượng Đồng Căn (Homeopathy) của Samuel Hahnemann. Christian Friedrich Samuel Hahnemann (1755-1843), một nhà vật lý học, hóa học và y học người Đức, đã đưa ra một lý thuyết liên quan đến sự quan hệ yếu tố trong chứng và chất của cơ thể người, sau này phát triển thành hệ thống Vi Lượng Đồng Căn. Mỗi vi lượng trong đá được cho là sẽ tác động đến vi lượng tương ứng trong cơ thể người, và nhờ đó bộ phận chứa vi lượng đó được chữa khỏi. Mỗi viên đá, bằng vi lượng chứa trong nó, được tin là sẽ tác động lên phần sinh lý cơ thể, giúp gợi ý cho việc chữa bệnh hoặc tác động lên tinh thần.
Ở Việt Nam, thuyết Vi Lượng được nhắc đến duy nhất trong cuốn Ứng Dụng Năng Lượng Đá Quý của Ths. Nguyễn Mạnh Linh, nhưng khá sơ khai, vì cho rằng đây là thuyết phức tạp, chuyên sâu. Các cuốn khác, hầu như không hề biết gì về thuyết này.
Adamite là một khoáng chất kẽm arsenate hydroxit, Zn2AsO4OH. Zincolivenit là một khoáng chất gần đây được phát hiện là khoáng chất trung gian với công thức CuZn(AsO4)(OH). Mangan, coban và niken cũng được thay thế trong cấu trúc. Một chất tương tự kẽm phosphate, tarbuttite, được biết đến. Trong thành phần của Adamite ngoài thành phần chính Thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy) cho rằng thành phần Zn trong Adamite có tác dụng trị liệu Nguyên tố Zinc (Zn) nguyên tử khối là 30, tỉ trọng cơ thể là 32*10-4, khối lượng trung bình 0.0023kg, tỷ lệ nguyên tố là 0.00031% trong không khí. Có vai trò trong việc tạo ra nhiều loại proteins khác nhau của cơ thể, đặc biệt là các chi và ngón tay chân, Nguyên tố Oxygen (O) có số nguyên tử là 8, chiếm tỉ trọng trong cơ thể người là 0.65. Thành phần của nguyên tố này trong cơ thể trung bình là 43kg chiếm tỷ lệ là 24%. Tác động đến sức khỏe và sự sống của hầu hết các loài động thực vật trên thế giới. vì vậy nó tác động tích cực cho sức khỏe, mặc dù, tác dụng không rõ ràng ở chứng bệnh hay vị trí nào của cơ thể.
Thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves) của Newlands ứng dụng trong giả kim thuật, cho phép tính toán sự liên hệ của khoáng chất trong đá và chiêm tinh,từ đó suy dẫn đến các ứng dụng của đá lên cơ thể con người. Vào năm 1864, John Alexander Reina Newlands (1837-1898), nhà hóa học người Anh, tìm ra quy luật bát bội: Mỗi nguyên tố hóa học đều thể hiện tính chất tương tự như nguyên tố thứ 8 khi xếp các nguyên tố theo khối lượng nguyên tử tăng dần. Điều này kích thích các nhà huyền học giả kim thuật vì giả kim từ lâu không thể tạo ra bất kỳ quy luật nào tương xứng phù hợp với khoa học hiện đại. Quy luật số 8 ứng với tám hành tinh (gồm cả trái đất) mà nền tảng của nó đã có từ lâu, và còn tương ứng nhiều hình thức tâm linh huyền học khác liên đới với con số 8 như Geomancy (bói đất). Từ đó người ta (mà nổi tiếng nhất là nhà huyền học George Ivanovich Gurdjieff, người cực kỳ yêu quý thuyết Law of Octaves) xây dựng nên hệ tính để tìm ra nguyên tố chủ đạo và hành tinh chủ đạo trong một viên đá. Từ đó, dẫn suy ra những đặc tính chữa bệnh hoặc tác động lên tinh thần.
Ở Việt Nam, hầu như không có sách nào đề cập đến thuyết này. Ngay cả ở những sách nước ngoài cũng rất hiếm gặp. Thường ở các sách huyền học như các tạp bản của George Gurdjieff, và người kế thừa dưới dạng các enneagram (bát tố đồ).
Thuyết Hài Hòa Bộ Tám cho rằng loại đá này mang yếu tố kim tinh với nguyên tố chủ đạo là nguyên tố Nước, vì vậy tác động lên vùng thắt lưng, các tĩnh mạch, âm đạo, cổ họng, bả vai và thận, eo. Có tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến các bệnh liên quan sản khoa, và sự sinh sản, (sẩy thai, đẻ sớm...) các thương tích liên quan xương sống và hông, liệt nửa người. Mặt khác, nó còn làm tăng cường tình cảm và cảm xúc, đặc biệt là sự cảm nhận vẻ đẹp, cảm xúc của phụ nữ, nữ tính, hài hòa, đồng cảm, thân thiện, tình dục nữ,... nhấn mạnh yếu tố cảm xúc. Về mặt tinh thần, loại đá này được cho là trấn giữ các mối quan hệ của nhà chiêm tinh thứ 5 và 12: hậu duệ (nhà Nati) và tù đày (nhà Carcer). Dành hỗ trợ cho những người có mối quan hệ với con cái không được như ý để cải thiện tình hình của mối quan hệ. Hàn gắng các rạng vỡ của mối quan hệ. Và hỗ trợ các mối quan hệ liên quan đến luật pháp, cai trị. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố kim tinh bảo trợ về ngôn ngữ và văn chương nói chung (Dante Alighieri). Dành cho những người làm trong lĩnh vực liên quan đến các ngành ngôn ngữ và văn chương như giáo viên, nhà thơ, nhà văn, biên kịch, thư ký, nhà nghiên cứu, thủ thư...
Thuyết Thelema đề xuất bởi nhà huyền học Aleister Crowley, đầu thế kỷ 20, mặc dù bản thệ thống của nó, được thừa hưởng thừ Hội Kín Kim Bình Minh ra đời vào thế kỷ 19. Hệ thống Thelema được ứng dụng trong Thạch Lý Học thông qua mối liên hệ với Sinh Thụ (Tree of Life), một lý thuyết của người Do Thái ra đời cùng thời với Kinh Cựu Ước. Hệ thống dựa trên các sách tương ứng do sự đóng góp của nhiều nhà huyền học khác nhau: McGregors Mathers, Paul Foster Case… đặc biệt được tổng hợp trong cuốn Kinh Liber 777.
Ở Việt Nam, thuyết Thelema hầu như chưa bao giờ được nhắc đến trong tất cả các sách về Thạch Lý Học đã xuất bản. Tuy nhiên, rất nhiều tài liệu về huyền học phương tây do những du học sinh tại Hải Ngoại được đăng trên các trang mạng, sử dụng hệ thống này của Thelema. Thuyết này được các nhóm huyền học phương tây sử dụng rộng rãi ở thời kỳ Internet nở rộ khoảng năm 2012, bởi các nhóm nghiên cứu Huyền Bí Học và Ma Thuật Học, như nhóm Huyền Học Phương Tây, Hội Tarot Huyền Bí.
Thuyết này cho rằng
Adamite gắng liền với Sepheroth số 7 Netzach. Netzach (tiếng Hebrew là
"vĩnh hằng") là thứ bảy trong mười Sefirot trong hệ thống thần bí của
người Do thái ở Kabbalah. Nó nằm bên dưới Chesed ('lòng từ bi'), ở dưới
"trụ cột của tình thương" bao gồm Chochmah (sự khôn ngoan). Netzach
thường dịch sang “vĩnh cửu”, và trong bối cảnh của sự thần bí thường đề cập đến
“vĩnh cửu”, “chiến thắng” hoặc “sự bền bỉ”. Netzach (Hebrew נצח) truyền đạt ý
tưởng về sự đau khổ, sức mạnh, sự bền bỉ để hoàn thành hoặc kiên nhẫn. Chữ này
xuất hiện tám lần trong thánh thư Hebrew và các chỉ dẫn của nguồn gốc rễ נצח từ
gốc xuất hiện hơn 40 lần trong văn bản Do Thái. Trong Liber 777, nó được coi là
chữa trị cho các biểu hiện bệnh tật của phần hông và các cơ quan vị trí hông eo
phải và nó có tác dụng với các bệnh ngoài da.
Thuyết Reiki (Linh Khí), dựa trên sự kết hợp của hệ thống Kinh Lạc trong Y Thuật Trung Hoa, hệ thống Luân Xa trong Y Thuật Ấn Độ và thuyết Ngũ Hành trong thạch học, dùng trong xoa bóp, ấn huyệt, được đề xuất bởi Mikao Usui năm 1922. Nếu hệ thống luân xa thật sự ít khi được áp dụng trong Reiki thực hành, hệ thống Kinh Lạc lại được sử dụng trong ấn huyệt rất rộng rãi. Kinh lạc là đường khí huyết vận hành trong cơ thể, đường chính của nó gọi là kinh, nhánh của nó gọi là lạc, kinh với lạc liên kết đan xen ngang dọc, liên thông trên dưới trong ngoài, là cái lưới liên lạc toàn thân. Kinh lạc phân ra hai loại kinh mạch và lạc mạch.Trong kinh mạch gồm chính kinh và kỳ kinh, chính kinh có mười hai sợi, tả hữu đối xứng, tức thủ túc tam âm kinh và thủ túc tam dương kinh, gọi chung mười hai kinh mạch, mỗi kinh thuộc một tạng hoặc một phủ. Kỳ kinh có tám sợi, tức đốc mạch, nhâm mạch, xung mạch, đái mạch, âm duy mạch, dương duy mạch, âm kiểu mạch, dương kiểu mạch. Thông thường nhắc đến mười hai kinh mạch và thêm vào hai mạch nhâm đốc gọi chung mười bốn kinh mạch chính. Bệnh tật đều do sự vận hành bế tắc của khí luân chuyển trong 12 kinh mạch này, nếu được khơi thông, ắt sẽ hết bệnh tật. Y Tông Tâm Lĩnh bàn về Kinh Lạc nói, mười hai kinh lạc, có Thủ thái âm phế kinh (手太阴肺经) thuộc về hành Kim, Thủ thiếu âm tâm kinh ( 手少阴心经) thuộc về hành Hỏa, Thủ quyết âm tâm bào kinh (手厥阴心包经) thuộc về hành Hỏa, Thủ thiếu dương tam tiêu kinh (手少阳三焦经) thuộc về hành Hỏa, Thủ thái dương tiểu tràng kinh (手太阳小肠经) thuộc về hành Hỏa, Thủ dương minh đại tràng kinh (手阳明大肠经) thuộc về hành Kim), Túc thái âm tỳ kinh (足太阴脾经) thuộc về hành Thổ, Túc thiếu âm thận kinh (足少阴肾经) thuộc về hành Thủy, Túc quyết âm can kinh (足厥阴肝经) thuộc về hành Mộc, Túc thiếu dương đảm kinh (足少阳胆经) thuộc về hành Mộc, Túc thái dương bàng quang kinh (足太阳膀胱经) thuộc về hành Thủy, Túc dương minh vị kinh (足阳明胃经) thuộc về hành Thổ. Mỗi mạch lại ứng những bệnh lý khác nhau. Cách sử dụng truyền thống là dùng đá phù hợp làm thành cây ấn huyệt để trị liệu khơi thông kinh mạch, giống với châm cứu.
Ở Việt Nam, hầu như không có tài liệu về môn này hoặc tài liệu về Reiki từng được xuất bản, tuy nhiên, nhiều học giả cho biết đã từng có sách về môn này xuất bản trước 1975 mà chúng tôi chưa có dịp khảo cứu được.
Adamite màu lục trong hành Mộc và thuộc Kinh Túc Thiếu Dương Đởm, Kinh Túc Quyết Âm Can theo thuyết này. Kinh Túc Quyết Âm Can liên quan đến bệnh đầu đau, đầu váng, mắt hoa, nhìn không rõ, tai ù, sốt cao, có thể co giật, đái dầm, đái không lợi, ngực tức, nôn nấc, bụng trên đau, da vàng, ỉa lỏng, họng như bị tắc, thoát vị, bụng dưới đau, ở hệ sinh dục, bàng quang, ruột, ngực, sườn, mắt.Ví huyệt Ngũ Lý có tác dụng liên quan đến đầy bụng, tiểu tiện không thông; huyệt Âm Liêm có tác dụng liên quan đến đau mặt trong đùi, kinh nguyệt không đều, phụ nữ vô sinh; huyệt Cấp Mạch có tác dụng liên quan đến đau âm hộ, sa tử cung, sưng tinh hoàn, đau dương vật; huyệt Chương Môn (Huyệt Mộ của Tỳ, huyệt Hội của Tạng. Hội của các kinh Thiếu dương và Quyết âm ở chân) có tác dụng liên quan đến đau cạnh sườn, đau thắt lưng, đau ngực, đái đục, đau thắt lưng, đầy bụng, sôi bụng, kém ăn, ăn không tiêu, nôn; huyệt Kỳ Môn (Huyệt Mộ của Can, Hội của kinh Quyết âm ở chân với kinh Thái âm ở chân và mạch Âm duy) có tác dụng liên quan đến đau sườn ngực, đầy tức ngực, mờ mắt, hành kinh bị lạnh gây sốt cao, ợ và nôn nước chua, không ăn được. Kinh Túc Thiếu Dương Đởm liên quan đến bệnh Sốt rét, điếc, đau đầu, hàm đau, mắt đau, hố trên đòn sưng đau, nách sưng, lao hạch, khớp háng và mặt ngoài chi dưới đau, phía ngoài bàn chân nóng, ngón chân thứ tư vận động khó, Cạnh sườn đau, ngực đau, mồm đắng, nôn, Ở đầu, mặt, tai, mũi, họng, ngực, sườn, sốt. Ví dụ như huyệt Bản Thần (Hội của kinh Thiếu dương ở chân và mạch Dương duy) có tác dụng liên quan đến đau đầu, Hoa mắt, điên, kinh phong; huyệt Dương Bạch (Hội của kinh Thiếu dương ở chân với kinh Dương minh ở chân, tay và mạch Dương duy) có tác dụng liên quan đến đau đầu, đau mắt, mắt nhiều dử, mắt mờ, sụp mi, mắt không nhắm được, quáng gà, loạn thị; huyệt Lâm Khấp (Hội của kinh Thiếu dương, Thái dương ở chân và mạch Dương duy) có tác dụng liên quan đến đau đầu, hoa mắt, chảy nước mắt, đau khóe mắt ngoài, kinh phong.
Thuyết Bát Quái Kinh Dịch (Iching Therapy), mặc dù được lấy từ lý thuyết của châu Á, nhưng việc áp dụng nó vào thạch lý học thì lại do các nhà huyền học Nga, gần gũi với lý thuyết Thông Thiên Học, ra đời vào những năm 1980. Ở Việt Nam, thuyết này ít được phát triển, đại diện chỉ có Ts Hoàng Thế Ngữ, Chủ Tịch Hội Đá Quý Việt Nam, tốt nghiệp tại Nga, dùng trong cuốn Đá Quý Việt Nam, nhưng chỉ dùng cấu trúc hình thái tinh hệ để luận. Cuốn Thạch Đá Trị Liệu của Hồ Thanh Trúc, tuy có dẫn ra phép Bát Quái, nhưng lại chỉ dựa trên màu sắc của Ngũ Hành để luận. Cả hai đều rất sơ khai. Dựa vào hình thái tinh hệ của tinh thể gồm tám loại, được phân định thành tám quái thuộc nội quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập Phương (cubic) ứng Càn , Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam Phương (rhombohedral) ứng Ly, Lục Phương (hexagonal) ứng Đoài, Tam Tà (triclinic) ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic) ứng Tốn, Phi Tinh (noncrystallinic) ứng Khôn. Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng khác: Lập Phương ứng Càn, Tam Tà ứng Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn, Tam Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở đây chỉ trình bày thuyết của Thông Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm tám màu, ứng với tám quái thuộc ngoại quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính, đều nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ nhất được trình bày trong I-ching: Binary Numbers, Astrology, And Chakras, dựa trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng, Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ, Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành ứng bát quái cho rằng: Càn ứng dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn ứng cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề xuất dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam, Cấn ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại quái tương ứng với hình dạng và màu sắc của tinh thể, từ đó tính ra được quái trong 64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại ứng một bộ phận cơ thể theo y lý trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể.
Theo thuyết Bát Quái Kinh Dịch, đá Adamite có màu tím tương ứng quẻ ngoại quái Chấn, có tinh hệ Chánh Giao ứng quẻ nội quái Tốn, ghép lại chính là quẻ quái số 32: quẻ Lôi Phong Hằng. Quái số 32 ứng với vị trí miệng trong cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên quan đến miệng như viêm loét miệng, bệnh Bạch sản, lưỡi bản đồ, ung thư miệng,... Quẻ Lôi Phong Hắng có nghĩa: Hằng là thường lâu, đạo hằng có thể hanh thông, hễ thường thường theo giữ đạo ấy mà có thể hanh thông mới là không đổi. Ví như đấng quân tử thường thường theo giữ điều thiện, đó là cái đạo có thể thường thường theo giữ; Đạo hằng sở dĩ hanh được, là vì trinh chính, cho nên nói là “lợi trinh”. Cứng lên mà mềm xuống, sấm gió cùng nhau, nhún mà động, cứng mềm đều ứng nhau, là quẻ Hằng, người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy.
Thuyết Phật Giáo Mật Tông là phái phật giáo duy nhất có ứng dụng trong Thạch Lý Học. Lý thuyết dựa trên hình ảnh của Ngũ Trí Như Lai và Tử Thư. Ngũ Phật còn gọi là Ngũ Trí Như Lai, Ngũ Trí Phật, Ngũ Phương phật, hay còn được gọi Ngũ Thiền Định Phật; là tên gọi chỉ năm vị Phật trong Mật Tông, lấy Đại Nhật Như Lai làm chủ tôn, có sự khu biệt giữa Ngũ Phật giới Kim Cương và Ngũ Phật giới Thai Tạng. Năm đức Phật này đại diện cho 5 phẩm chất của con người và tạo ra sự tuyệt mỹ và hay nhất để phá bỏ những sai trái trong 5 phẩm chất đó. Mỗi đức Phật là một con đường tuyệt diệu để đi đến cảnh giới Niết Bàn và Vô sanh. Tu theo những vị đó sẽ mau chóng vào được cung điện Niết Bàn. Ngũ trí Như Lai là 5 vị Phật tối cao của Phật giáo Tây Tạng. Năm vị phật này đại diện bởi năm màu, gọi là Ngũ Sắc Trí (pancha-varna): Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairochana) đại diện bởi màu trắng và tím, A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya) đại diện bởi màu lam và đen, Bảo Sanh Như Lai (Ratnasambhava) đại diện bởi màu vàng và cam, A Di Đà Như Lai (Amitabha) đại diện bởi màu đỏ và hồng, Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi) đại diện bởi màu lục. Nitin Kumar căn cứ vào kinh điển Chandamaharosana Tantra dẫn ra những quy tắc sử dụng màu săc trong mật tông, đáng chú ý cho rằng: màu lam đại diện cho phẫn nộ tướng ứng vị trí tai, màu vàng đại diện cho sinh dưỡng tướng ứng vị trí mũi, màu đỏ đại diện cho vô úy tướng ứng miệng, màu lục đại diện cho uy đức tướng ứng vị trí đầu. Trong Tử Thư Tây Tạng cũng tuyên về màu sắc tương ứng lục đạo: ánh sáng trắng là của cõi trời, ánh sáng đỏ là của cõi Atula, ánh sáng lam là của cõi người, ánh sáng lục là của cõi súc sanh, ánh sáng vàng là của cõi quỷ đói, ánh sáng xám là của cõi địa ngục.
Ở Việt Nam, thuyết này hầu như chưa bao giờ được nhắc đến trong các sách Thạch Lý Học đã xuất bản. Tuy nhiên một số kinh sách về ngũ sắc trí đã được dịch và xuất bản những năm gần đây như Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe Trong Bardo của Guru Rinpoche, Những Giáo Pháp Bí Mật Của Tử Thư Tây Tạng của Detlef Ingo Lauf.
Đá Adamite có màu lục, là bổn sắc của Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi). Ngài là sự chuyển hóa của sự ganh tỵ thành sự kham nhẫn. Màu lục đại diện cho uy đức tướng ứng với đầu. Đeo Adamite sẽ được Bất Không Thành Tựu Như Lai Phật hộ trì, hỗ trợ về cơ thể và sự uy đức. Vì đây cũng là màu của cõi súc sanh, đá Adamite được coi là bùa hộ về xúc dục, giúp thoát khỏi các nguy hiểm về xúc dục thông qua vị phật uy đức. Tử thư nhắc đến màu lục như biểu hiện cho sự kham nhẫn, uy đức, đồng thời sự tham lam. Tử Thư Tây Tạng viết rằng: Vào ngày thứ năm, có bộ Nghiệp, tức là tính chất tinh khiết của không khí hay gió. Nó có màu xanh lá cây, màu của ganh tỵ. Từ cõi Các Hành Vi Tích Tựu (Realm of Accumulated Actions), Phật xuất hiện. Bộ Nghiệp được kết hợp với hành vi, sự thành tựu và tính hiệu quả. Nó có quyền lực mãnh liệt và không có gì chịu đựng nổi trong cung cách của nó cho nên nó được coi như có tính chất triệt phá. Phật Bất Không Thành Tựu mang ý nghĩa thành tựu mọi hành vi, mọi quyền lực. Vào ngày thứ năm, một thứ ánh sáng xanh lá cây, đó là yếu tố tinh khiết của không khí, sẽ chiếu sáng và đồng thời đức Phật Bất Không Thành Tựu, vị đứng đầu của nhóm từ cõi phương Bắc màu xanh lá cây, cõi Những Hành Động Tích Tập sẽ xuất hiện trước mặt con. Thân ngài màu xanh lá cây, ngài cầm một kim cương sử đôi trong tay và ngồi trên ngai các thần điêu Ca-lâu-la (shangshang birds) bay lượn trên bầu trời. Những người không kham nhẫn, hay hung hăn, tham lam, muốn được kiềm hãm, cần mang loại đá có màu lục để được giải trừ.
Nơi tìm ra: Lần đầu
tiên nó được mô tả vào năm 1866 cho một sự xuất hiện tại địa phương loại của
Chañarcillo, tỉnh Copiapó, vùng Atacama, Chile
Lời cảm ơn: bài viết
có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến sĩ Jean-Jacques
Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu tập Trương Quốc
Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng Giang (Cần
Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments