Kyanite- Lam Tinh Thạch
Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị Liệu, Thạch
Học Trị Liệu dịch từ chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ.
Lithotherapy phân thành Litho đến từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá,
therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ] tức là chữa trị, lithotherapy tức là
chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với đá ở ngoài da. Lithotherapy là một
môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận huyền học và thần bí học. Mặc dù
có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả năng của nó, đã được ứng dụng từ lâu
trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại, nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức màn
bí mật của những điều thần kỳ giống như nền Đông Y của người Trung Quốc hay Nam
Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc biệt trình bày về những lý luận
căn bản trong Thạch Lý Học đối với Kyanite, nằm trong chuỗi khảo cứu, viết
riêng cho tuần báo UNESCO.
Giới thiệu về đá Kyanite
Giới thiệu về các thuyết: Giá trị thạch lý học của Kyanite được trình bày thành
các thuyết cơ bản: thuyết Bản mệnh (Natal Stones), thuyết Quang Lý Học
(Chromotherapy), thuyết Linh Khí (Reiki), thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng
Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ (Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of
Octaves), thuyết Thái Lặc Mã (Thelema), thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết
Hoa Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié).
Thuyết Bản Mệnh Phương Đông người ta căn cứ vào địa chi của tháng
sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần, tháng 2 là Mão, cùng phối hợp với ngũ
hành của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng dùng đá có
tông màu lục, lam, dương). Và theo đó, Thuyết Bản Mệnh phương đông xếp loại đá
này vào năm Ất Mão, thuộc Mộc Cục, về Âm Phần. Thích hợp cho người nữ/nam, sinh
năm Ất Mão sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu xanh lam, thuộc về hành Mộc, ứng
về tháng Dần và Mão, tức tháng giêng và 2.
Thuyết
Bản Mệnh Phương Tây được định nghĩa theo tháng như sau: tháng
ba màu xanh lam. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo hoàng đạo như
sau: Thiên Yết màu lam. Đá này màu xanh lam được xếp vào loại đá bản mệnh của
tháng ba, mùa xuân và xếp vào đá bản mệnh của cung Thiên Yết, thuộc hệ Nước. Vì
vậy, những ai sinh vào giữa 24 tháng 10 đến 21 tháng 11 hằng năm, hoặc vào
tháng 11 thì được xem là có lợi khi đeo loại đá này.
Theo Thuyết Quang Lý Học thì đá Kyanite có màu xanh lam. Ý
nghĩa của màu sắc này được biểu hiện ở các nên văn hóa khác nhau. Là một trong 3 màu chính của bảng
màu sắc truyền thống, cùng với đỏ và lục. Nó nằm giũa màu tím và màu lục trong
ánh sáng quang phổ.Ở Ai Cập màu xanh đã được kết nối với bầu trời và thần
linh. Thần Amun của Ai Cập có thể làm cho da của mình màu xanh để ông có thể
bay, vô hình, trên bầu trời. Xanh lam cũng có thể bảo vệ chống lại cái ác;
nhiều người ở vùng Địa Trung Hải vẫn mặc một bộ áo giáp màu xanh, tượng trưng
cho con mắt của Thiên Chúa, để bảo vệ họ khỏi những tai hoạ. Ở Trung Quốc, màu xanh lam thường
có liên quan đến sự hành hạ, ma quỷ, và cái chết. Khảo sát tại Hoa Kỳ và Châu
Âu cho thấy màu xanh là màu phổ biến nhất liên quan đến sự hài hòa, trung
thành, tự tin, khoảng cách, vô hạn, trí tưởng tượng, lạnh, và đôi khi là nỗi
buồn. Trong các cuộc thăm dò ý kiến công chúng ở hai nơi này, màu sắc phổ biến
nhất được lựa chọn bởi gần một nửa số nam giới và phụ nữ, xanh lam là màu ưa
thích của họ. Các cuộc khảo sát tương tự cũng chỉ ra rằng màu xanh là màu có
liên quan nhiều nhất với nam giới, trước màu đen và cũng là màu sắc gắn liền
với trí tuệ, kiến thức, bình tĩnh và tập trung. Ý nghĩa của màu xanh lam chính là
thiết lập sự điềm tĩnh, thanh bình. Nó là màu của bầu trời và đại dương, do đó,
tạo cảm giác rộng lớn, mênh mông. Màu xanh dương đi liển với cảm giác sâu thẵm,
vững vàng và yên bình. Bên cạnh đó, nó còn là màu của sự trung thành, tin
tưởng, thông thái, tự tin và mang lại sự ý nghĩa trong sáng, tinh khiết. Màu
xanh dương có liên hệ mật thiết đối với trí tuệ và sự thông minh. Tuy nhiên,
nên tránh màu xanh dương trong các trường hợp bị trầm cảm.
Thuyết Thelema cho rằng Kyanite thuộc Path Gimel động
từ (gamal) có nghĩa là để giải quyết hoặc khen thưởng theo nghĩa của lợi ích
từ. Dẫn xuất (gamal) có nghĩa là lạc đà. Nhiều đề nghị cho rằng nó là cổ lạc
đà. Ý nghĩa truyền thống: "giải thưởng"; "phần thưởng";
"quỹ". Về mặt bí truyền, đây là một biểu tượng cho lòng tử tế và hoàn
thiện, đứng vững cho sự hưởng thụ tràn ngập và vĩnh cửu của Đấng Tạo Hóa hay
Chesed (Mercy). Sau khi Beith thiết lập sự tồn tại của hai sự đối lập,
Ghimel là nguyên tắc thứ 3 phát sinh để giải quyết và hài hòa những đối lập
này. Ghimel liên kết và cân bằng giữa Aleph và Beith. Đó là một sự cân bằng
năng động giữa các thế lực đối lập, do đó Ghimel là một lá thư liên tục biến đổi,
thay đổi và chuyển động, và dịch theo nghĩa đen là con lạc đà, một con vật
chúng ta kết hợp với chuyển động và đi du lịch giữa những nơi xa xôi. Ghimel
bao gồm các sự đối lập của cả việc cho và nhận, khen thưởng và trừng phạt, tạo
ra sự cân bằng và chuyển động giữa những đối lập này. Ghimel giải quyết
người cho và người nhận (Aleph và Beith), vì vậy nó đại diện cho việc cho và
nhận. Nó đại diện cho lòng tốt và sự tu luyện, sự nuôi dưỡng hữu cơ làm cho mọi
thứ phát triển (Hebrew Gamol גמול có nghĩa là nuôi dưỡng cho đến khi trưởng
thành, גמילה - cai sữa, trái chín). גמול cũng có nghĩa là cho và chân của
Ghimel được cho là đại diện cho một người đàn ông giàu có đang chạy để làm từ
thiện cho người nghèo (đại diện bởi ký tự thứ 4 דלת). Nó biểu thị sự từ bi vĩnh
hằng của Đấng Tạo Hóa cho tất cả tạo vật, được biểu hiện bằng cuộc sống và sự
thịnh vượng.
Thuyết Chakra cho rằng loại đá này thuộc Chakra Ajna (tiếng
Phạn: आज्ञा,
IAST: Ājñā, tiếng Anh: "mệnh lệnh"), hoặc chakra mắt thứ ba, là
chakra nguyên thủy thứ sáu trong cơ thể theo truyền thống đạo Hindu. Nó là một
phần của bộ não mà có thể được làm mạnh mẽ hơn thông qua thiền định, yoga và
các thực hành tâm linh khác giống như là tập luyện cơ bắp. Nó biểu thị tiềm thức,
liên kết trực tiếp với người Bà La Môn. Trong khi đôi mắt của một người nhìn thấy
thế giới vật chất, thì con mắt thứ ba được cho là tiết lộ những hiểu biết sâu sắc
về tương lai. Trong một số hệ thống, vị thần Ardhanarishvara, vị thần lưỡng tính
con của Shiva-Shakti (Parvati), tọa lạc
bên trong biểu tượng (dương vật) và biểu tượng tượng trưng cho tính hai mặt của
chủ thể và đối tượng. Chakra thứ sáu của năng lượng cơ thể của chúng ta được
cho là liên kết với tầng hào quang thứ sáu còn được gọi là tầng trời của
hào quang khoa học . Phần âm tiết của Ajna là Om, hay "Pranava Om",
được cho là âm thanh cơ bản của thế giới và chứa tất cả các âm thanh khác. Nó
được coi là âm thanh tối cao của vạn vật. Các thần chú Bīja là những âm thanh
đơn âm, khi chúng được nói to, kích hoạt năng lượng của các chakra để thanh lọc
và cân bằng tâm trí và cơ thể. Năng lượng cộng hưởng trong chakra liên quan đến
thần chú, giúp người nói nhận ra nhu cầu của cơ thể. Ajna dịch là "mệnh lệnh" hoặc
"lĩnh hội " và được coi là con mắt của trực giác và trí tuệ. Cơ quan
giác quan có liên quan đến nó là não. Khi cái gì đó được nhìn thấy trong mắt của
tâm trí, hoặc trong một giấc mơ, nó đang được nhìn thấy bởi Ajna. Đó là một cầu
nối giữa các lãnh tụ tinh thần cùa người Hindu với các môn đồ trong lúc trí não
được sự cho phép giao tiếp giữa hai người. Trong Phật giáo Tây Tạng, chakra này
nằm ở cuối đường dẫn năng lượng trung tâm, chạy lên cơ thể lên đỉnh đầu, rồi
qua và xuống, chấm dứt ở trán. Hai bên đường dẫn tiếp tục hướng về phía hai lỗ
mũi và kết thúc ở đó. Điểm trung tâm này thường được mô tả như là mắt thứ ba
trong tác phẩm nghệ thuật và được sử dụng trong các thiền định khác. Ngoài ra
còn có một điểm giữa trán trên mắt thứ ba, tương ứng với vị trí của Manas, một
trong mười chakras trong truyền thống Mật tông Mahayoga. Trong khí công,
Dantian (đan điền) cao nhất nằm ở vị trí bề mặt của chakra này. Đây là một
trong ba lò luyện chuyển đổi các loại năng lượng khác nhau trong cơ thể. Trong
đan điền này, năng lượng thiêng liêng được biến thành khítrong khoảng trống của
không gian vô tận. Trong hệ thống Lataif-e-sitta, có một Lataif được gọi là
Khafi, hay sự bí ẩn huyền ảo, ở cùng một vị trí. Điều này được cho là liên quan
đến trực giác thần bí. Theo Kabbalah, có hai sephirot nằm ở cấp độ thứ sáu, gắn
liền với phần trái và phải của khuôn mặt. Chúng được gọi là Chokmah (trí tuệ)
và Binah (hiểu biết); chính tại hai điểm này hai cột trụ của lòng nhân từ và dữ
dội kết thúc, trong khi cột trụ ở trung tâm sẽ tiến lên kether ở đỉnh đầu.
Đá Kyanite có màu
xanh lam, Theo Thuyết Phật Giáo Mật Tông
là bổn sắc của A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya). Ngài là sự chuyển hóa của sân hận
thành từ bi. Màu lam và đen đại diện cho phẫn nộ tướng ứng với tai. Đeo Kyanite sẽ được A Súc Bệ Như Lai Phật hộ trì, hỗ trợ
về tai và sự điềm tĩnh. Vì đây cũng là màu của cõi người, đá Kyanite được coi là bùa hộ về thính dục, giúp thoát
khỏi các nguy hiểm về thính dục thông qua vị phật phẫn nộ. Tử Thư cho rằng màu
này cũng được hộ lãnh bởi Phật Tỳ Lô Giá Na và Phật Kim Cương Tát Đỏa. Tử Thư
nói về màu lam như sau: bầu trời hiện ra màu lam và chíng giữa có đức Phật Tỳ
Lô Giá na, tượng trưng cho sự thật tuyệt đối hay sự trong sạch vô biên, xuất
hiện. Từ tim của đức Phật Kim Cương Tát Đỏa, trên tấm vải màu lam quang minh
của Đại viên cảnh trí, sẽ xuất hiện một cái dĩa lam giống như một cái chén màu
lam ngọc, hướng mặt xuống, được trang hoàng bằng những cái dĩa và những cái dĩa
nhỏ hơn. Màu của hư không là màu lam và linh ảnh xuất hiện lúc này là
Phật Tỳ Lô Giá Na (Vairocana). Những người cần sự điềm tĩnh hay sự thanh lọc
những ý niệm bất hảo có thể dùng loại đá màu lam để giải trừ.
Theo Thuyết Reki (Linh Khí) đá Kyanite trong hành Mộc và thuộc vào Kinh Túc Quyết Âm Can, Kinh Túc Thiếu Dương Đởm. Kinh
Túc Quyết Âm Can liên quan đến bệnh đầu
đau, đầu váng, mắt hoa, nhìn không rõ, tai ù, sốt cao, có thể co giật, tiểu dầm,
tiểu không lợi, ngực tức, nôn nấc, bụng trên đau, da vàng, tiêu lỏng, họng như
bị tắc, thoát vị, bụng dưới đau, ở hệ sinh dục, bàng quang, ruột, ngực, sườn, mắt. Ví dụ như huyệt Lãi Câu (Huyệt Lạc nối với
kinh thiếu dương Đởm) có tác dụng đến đau cẳng chân, đai khó, đau tinh hoàn,
kinh nguyệt không đều, khí hư, băng huyết; huyệt Trung Đô (Huyệt Khích) có tác
dụng đến đau bụng dưới, sưng tinh hoàn, băng huyết,
viêm bàng quang cấp, tiểu khó, tiểu buốt; huyệt Tất Quan có tác dụng đau mặt
trong khớp gối, mặt trong cẳng chân; huyệt Khúc Tuyền (Huyệt Hợp thuộc
Thủy) có tác dụng đau mặt trong khớp gối, mặt trong đùi, đau sưng tinh hoàn,
đau dương vật hoặc âm hộ, đau bụng dưới, tiểu khó, hoa mắt, đau mắt; huyệt Âm Bao có tác dụng liên quan đến đau thắt lưng,
đau bụng dưới, kinh nguyệt không đều, tiểu tiện khó. Kinh Túc Thiếu Dương Đởm
liên quan đến bệnh Sốt rét, điếc, đau đầu, hàm
đau, mắt đau, hố trên đòn sưng đau, nách sưng, lao hạch, khớp háng và mặt ngoài
chi dưới đau, phía ngoài bàn chân nóng, ngón chân thứ tư vận động khó, Cạnh sườn
đau, ngực đau, mồm đắng, nôn, Ở đầu, mặt, tai, mũi, họng, ngực, sườn, sốt. Ví dụ như huyệt Bản Thần (Hội của kinh Thiếu dương ở chân và mạch
Dương duy) có tác dụng liên quan đến đau đầu, Hoa mắt, điên, kinh phong; huyệt Dương Bạch (Hội của kinh Thiếu
dương ở chân với kinh Dương minh ở chân, tay và mạch Dương duy) có tác dụng
liên quan đến đau đầu, đau mắt, mắt nhiều dử, mắt
mờ, sụp mi, mắt không nhắm được, quáng gà, loạn thị; huyệt Lâm Khấp (Hội của kinh Thiếu
dương, Thái dương ở chân và mạch Dương duy) có tác dụng liên quan đến đau đầu,
hoa mắt, chảy nước mắt, đau khóe mắt ngoài, kinh phong.
Theo Thuyết Tứ Trụ, đá Kyanite thuộc mệnh Mộc rất
hạp với mệnh Hỏa sinh vào mùa thu. Hỏa mùa thu phần lớn là thân yếu, cần có Mộc
sinh mới có thể thịnh vượng, chuyển nguy thành yên bình đồng thời đạt được tài
lợi, sẽ không bị khốn đốn. Nếu thân yếu không có Ấn lại gặp Thủy khắc sẽ khó
tránh nguy cơ bị tiêu trừ, cơ thể không khỏe mạnh, thậm chí mất mạng. Nếu là
Hỏa mùa thu có thân yếu lại gặp Thổ hao tiết, khó sáng và không thể phát huy
tài hoa, vất vả cả đời. Nếu thân yếu lại gặp Kim đến tiết hao phần lớn là vất
vả, nhiều thất bại, ít thành công, kinh tế khó khăn, nghèo khổ lao đao. Nếu chỉ
có Tỷ Kiếp mà không có Tài, đại diện cho vận thế thuận lợi, không có lợi ích
thực tế. Đá ngọc thuộc mệnh Mộc cũng rất hạp với mệnh Thủy sinh mùa thu. Thủy
của mùa thu, vì Kim tư lệnh đương quyền, do đó Kim Thủy tương sinh, mẹ vượng
con tướng. Mộc thịnh vượng thì sẽ tiết hao nguyên khí của Thủy, nhưng con cái
sẽ hiển vinh
Thuyết Hoa Giáp cho rằng Kyanite thuộc về Mộc (Lam)
phối Mộc (Trụ và Dài), tức Mộc Cục. Do đó, Kyanite giúp khắc chế các bản
mệnh Thủy – Hỏa như Nhâm Ngọ, Quý Tỵ, Bính Tý, Đinh Hợi, vì vậy, những bản mệnh
trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Kyanite cũng phù trợ cho các bản mệnh
thuộc Hỏa (Mộc sinh Hỏa), gồm mệnh thuộc Hỏa Mộc và thuần Hỏa: Bính Dần, Đinh
Mão, Giáp Ngọ, Ất Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Tỵ, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc
với loại ngọc này.
Thuyết Ngũ Hành Khí
Tiết
nói, người có mệnh cục Hỏa (sinh vào ngày Bính-Đinh, Tỵ-Ngọ) gặp vào những ngày
thuộc hành Thủy (như các ngày Nhâm-Quý, Tý-Hợi) thì bởi Thủy khắc Hỏa, sinh ra
bệnh ở Ruột Tim, biểu hiện ở tiểu tràng và tâm kinh: câm đau miệng, co giật
ngưng mủ, đậu mùa, ung nhọt, ghẻ lở, mặt đỏ, nóng nảy. Sách mệnh lý nói: mắt mờ,
do Hỏa bị Thủy khắc chế, phải lấy Mộc giải độc, Kyanite thuộc Mộc, có tác dụng
tốt cho thể trạng người Hỏa Cục (Mộc sinh Hỏa), nhất là vào những ngày Thủy thịnh
(Nhâm-Quý, Tý-Hợi) và các tháng hành Thủy như tháng mười và mười một. Người đeo
đá Kyanite, có thể dùng Mộc khắc chế được Thủy hại.
Dựa Trên Thuyết Orthotherabi và công thức cấu tạo của đá Kyanite (Al 2 (SiO 4 ) O) gồm: Nguyên tố Oxygen (O) có số nguyên tử là 8, chiếm tỉ trọng
trong cơ thể người là 0.65. Thành phần của nguyên tố này trong cơ thể trung
bình là 43kg chiếm tỷ lệ là 24%. Tác động đến sức khỏe và sự sống của hầu hết
các loài động thực vật trên thế giới. Nguyên tố Silicon (Si) có số nguyên tử là 14, chiếm tỉ
trọng trong cơ thể là 20x10-4 và có khối lượng trung bình
0.001kg đạt tỷ lệ nguyên tố là 0.0058%. Nguyên tố Aluminum (Al) số hiệu nguyên
tử là 13, tỉ trọng của nguyên tố Nhôm trong cơ thể chúng ta là 870×10-7
đạt khối lượng trung bình 0.00006kg chiếm tỷ lệ so với các nguyên tố khác là
0.000015%.
Dựa trên công thức hóa học của đá Kyanite, Theo Thuyết Hài Hòa Bộ Tám loại đá này mang yếu tố mộc tinh, vì vậy
có tác động lên vùng bụng, gan, tuyến yên, lớp mỡ quanh eo, đùi. Có tác dụng hỗ
trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến sự nghèo khó (suy dinh dưỡng) và cả
giàu có (béo phì), các chứng liên quan đến bụng, gan (đau bụng). Về mặt tinh thần,
loại đá này được cho là trấn giữ các mối quan hệ của nhà chiêm tinh thứ 2 và 9:
tài sản, tiền bạc (nhà Lucrum) và du hành, du lịch (nhà Iter). Dành hỗ trợ cho
những người có vấn đề với tiền bạc hay gặp vận rủi, những người muốn đi du lịch,
hay di cư không được xuông sẻ, thúc đẩy tiền bạc và thường xuyên du hành. tăng
cường vật chất và sở hữu, đặc biệt là sự phát triển, thịnh vượng, may mắn, tự
do, du hành, luật pháp, nhân đạo,... nhấn mạnh đến yếu tố giàu có vật chất.
Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố mộc tinh bảo trợ về địa lý và cấu
trúc nói chung (Dante Alighieri). Vì vậy, đá này dành cho những người làm trong
lĩnh vực liên quan đến các địa lý và du lịch như hướng dẫn viên du lịch, phi
công, hoa tiêu, tài xế, cục địa dư, tàu hỏa, khảo cổ, xây dựng cầu đường.
Thuyết Bát Quái Kinh
Dịch dựa
vào hình thái tinh hệ của tinh thể gồm tám loại, được phân định thành tám quái
thuộc nội quái trong kinh dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập Phương (cubic
- isometric) ứng Càn , Tứ Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam Phương (rhombohedral)
ứng Ly, Lục Phương (hexagonal - trigonal) ứng Đoài, Tam Tà (triclinic) ứng
Cấn, Đơn Tà (monoclinic) ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic) ứng Tốn, Phi Tinh
(noncrystallinic) ứng Khôn. Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng khác: Lập
Phương ứng Càn, Tam Tà ứng Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn, Tam
Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở đây
chỉ trình bày thuyết của Thông Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm tám
màu, ứng với tám quái thuộc ngoại quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính, đều
nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ nhất được trình bày trong I-ching: Binary
Numbers, Astrology, And Chakras, dựa trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng,
Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ,
Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành ứng
bát quái cho rằng: Càn ứng dương, Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn ứng
cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề xuất
dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng, Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam, Cấn
ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng, Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên
thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại quái tương ứng với hình dạng và màu sắc của
tinh thể, từ đó tính ra được quái trong 64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại
ứng một bộ phận cơ thể theo y lý trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể. Đá
Kyanite có màu xanh lam tương
ứng quẻ ngoại quái Khảm, có tinh hệ Tam Tà tương ứng quẻ nội
quái Cấn, ghép lại chính là quẻ quái số 39: quẻ Thủy Sơn
Kiển. Quái số 39 ứng với
vị trí mí mắt trên cơ thể. Vì vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh
liên quan đến mắt như dị ứng mắt, tật khúc xạ (cận
thị, viễn thị, loạn thị,…), thoái hóa điểm vàng, đau mắt đỏ, tăng nhãn áp, viêm
màng bồ đào, giác mạc hình nón,…. Quẻ Thủy Sơn Kiển có nghĩa là Kiển nghĩa là nạn, cái nạn chân không đi được-
Nó là quẻ cấn dưới Khảm trên, thấy chỗ hiểm mà đậu lại, cho nên là Kiển, Tây
Nam là chỗ bình dị, Đông Bắc là chỗ hiểm trở, đương ở trong hồi Kiển, không nên
chạy vào chỗ hiểm. Lại quẻ này tự quẻ Tiểu quá mà lại, khí Dương tiến lên thì ở
ngôi Năm mà được giữa, lui xuống thì vào thể Cấn mà không tiến được, cho nên lời
chiêm của nó là lợi Tây Nam, mà không lợi Đông Bắc. Đương thì Kiền phải thấy
người lớn, rồi mới có thể qua nạn, lại phải giữ cho chính đính, thì mới được tốt, người đeo đá này sẽ
được các lợi ích như vậy.
Nơi tìm thấy đá: Kyanite có thể được tìm thấy ở Santa Cruz (Bolivia), Western Australia (Australia), Northwest Territories
(Canada),...
Lời
cảm ơn: bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến
sĩ Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu
tập Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm
Hoàng Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments