Chondrodite- Lạp Khuê Mỹ Thạch
Dẫn Nhập: Thạch Lý Học, hoặc Thạch Lý Trị Liệu, Thạch Học Trị Liệu dịch từ
chữ Lithotherapy, nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ. Lithotherapy phân thành Litho đến
từ chữ ‘λίθος’ [litʰos] có nghĩa là đá, therapy đến từ chữ ‘θεραπεύω’ [tʰɛrapɛuʷɔ]
tức là chữa trị, lithotherapy tức là chữa trị bệnh bằng liệu pháp tiếp xúc với
đá ở ngoài da. Lithotherapy là một môn cận khoa học, nó xuất phát từ nền lý luận
huyền học và thần bí học. Mặc dù có nhiều chứng minh về hiệu lực cũng như khả
năng của nó, đã được ứng dụng từ lâu trong y học cổ truyền lẫn y học hiện đại,
nhưng nó vẫn bị bao quanh bởi bức màn bí mật của những điều thần kỳ giống như nền
Đông Y của người Trung Quốc hay Nam Y của người Việt Nam. Bài khảo cứu này sẽ đặc
biệt trình bày về những lý luận căn bản trong Thạch Lý Học đối với Chondrodite , nằm trong chuỗi khảo cứu, viết riêng cho tuần báo
UNESCO.
Giới thiệu về đá Chondrodite
Giới thiệu về các thuyết: Giá trị thạch lý học của Chondrodite được trình bày thành các thuyết cơ bản: thuyết Bản mệnh
(Natal Stones), thuyết Quang Lý Học (Chromotherapy), thuyết Linh Khí (Reiki),
thuyết Luân Xa (Chakra), thuyết Vi Lượng Trị Liệu (Oligotherapy), thuyết Tứ Trụ
(Sìzhù), thuyết Hài Hòa Bộ Tám (Law of Octaves), thuyết Thái Lặc Mã (Thelema),
thuyết Chiêm Tinh Học (Astrology), thuyết Hoa Giáp (Hwangap), thuyết Phật Giáo
Mật Tông, thuyết Khí Tiết (Qìjié). Thuyết bản mệnh Phương Đông người ta căn cứ vào địa chi của tháng
sinh, theo như sau: Tháng giêng là Dần, tháng 2 là Mão, tháng 3 là Thìn, tháng
4 là Tỵ, tháng 5 là Ngọ, tháng 6 là Mùi, tháng 7 là Thân, tháng 8 là Dậu, tháng
9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, tháng 11 là Tý, tháng 12 là Sửu, cùng phối hợp với
ngũ hành của tháng để chia màu sắc đá, như sau: Dần Mão thuộc Mộc (ứng dùng đá
có tông màu lục, lam, dương), Tị Ngọ thuộc Hỏa (ứng dùng đá có tông màu cam đỏ
hồng), Thân Dậu thuộc Kim (ứng dùng đá có tông màu trắng, xám, ánh bạc), Tý Hợi
thuộc Thủy (ứng dùng đá có tông màu đen, chàm, tím), Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ
(ứng dùng đá có tông màu vàng, trong, ánh kim). Và theo đó, Thuyết Bản Mệnh
phương đông xếp loại đá này vào năm Tân Tị, thuộc Kim Cục, về Âm Phần. Thích hợp
cho người nữ/nam, sinh năm Tân Tị sử dụng. Về tháng bản mệnh, đá này màu cam,
thuộc về hành Hỏa, ứng về tháng Tị và Ngọ, tức tháng 4 và 5. Thuyết Bản Mệnh
phương tây được định nghĩa theo tháng như sau: tháng một màu đỏ cam, tháng hai
màu tím tươi, tháng ba màu xanh lam, tháng tư màu trắng trong, tháng năm màu lục
đen, tháng sáu màu trắng đục, tháng bảy màu đỏ tươi, tháng tám màu xanh chuối,
tháng chín màu xanh lá, tháng mười màu đen, tháng mười một màu vàng, tháng mười
hai màu chàm. Thuyết Bản Mệnh phương tây được định nghĩa theo hoàng đạo như
sau: Bạch Dương màu xanh đen, Kim Ngưu màu xanh dương đậm, Song Tử màu trắng
trong, Cự Giải màu xanh lá mạ, Sư Tử màu đen, Xử Nữ màu cam, Thiên Bình màu lục
nhạt, Thiên Yết màu lam, Nhân Mã màu vàng, Ma Kết màu đỏ tươi, Bảo Bình màu đỏ
sậm, Song Ngư màu tím. Đá này màu cam được xếp vào loại đá bản mệnh của tháng một,
mùa xuân và xếp vào đá bản mệnh của cung Xử Nữ, thuộc hệ Đất. Vì vậy, những ai
sinh vào giữa 23 tháng 8 đến 22 tháng 9 hằng năm, hoặc vào tháng 9 thì được xem
là có lợi khi đeo loại đá này. Theo thuyết
Quang Lý học thì đá Chondrodite có màu cam. Ý nghĩa của màu sắc này được biểu hiện ở các nên văn hóa khác
nhau.Trong
Nho giáo, tôn giáo và triết học của Trung Quốc cổ đại, cam là màu sắc của sự
biến đổi. Theo Khổng giáo, sự tồn tại được điều chỉnh bởi sự tương tác của
nguyên tắc hoạt động nam giới, dương khí, và nguyên tắc thụ động nữ giới, âm
khí. Màu vàng và đỏ được so sánh với ánh sáng, lửa, tâm linh và trực giác,
dường như đối lập nhưng lại bổ sung. Trong sự tương tác giữa hai màu này đã dẫn
đến màu da cam, màu sắc của sự chuyển đổi.Trong Sanatan Dharma (Hindu Giáo),
màu vàng nghệ sẫm cao có liên quan đến sự hy sinh, kiêng cữ trong tôn giáo, tìm
kiếm ánh sáng và sự cứu rỗi. Vàng nghệ hoặc “bhagwa” là màu sắc thiêng liêng
nhất đối với người Hindu và thường được mặc bởi sanyasis người đã rời nhà của
họ để tìm kiếm sự thật cuối cùng. Theo một số nghiên cứu, màu cam có khả năng
tăng cường oxy lên não và do đó cho phép não hoạt động tốt hơn và sáng tạo hơn.
Tuy nhiên, bạn nên tránh màu cam khi cần tạo ra một không gian yên tĩnh và suy
tư. Màu cam là một màu tạo ra năng lượng phong thủy thúc đẩy những mối quan hệ
trong cuộc sống, gắn kết cộng đồng. Đây là màu được thụ hưởng sự mạnh mẽ của
màu đỏ và sự hạnh phúc của màu vàng. Nó đi liền với sự vui tươi, nhẹ nhàng và
tươi mát. Màu cam mang đến sự hạnh phúc, sôi động và bắt mắt. Biểu trưng cho sự
cố gắng, thu hút, quyết rũ, hạnh phúc, sáng tạo. Với mắt người màu cam tương
đối nóng và chính vì thế nó mang tới cảm giác ấm nóng, tuy nhiên nó không mạnh
mẽ màu đỏ. Thuyết Thelema cho
rằng Chondrodite thuộc Sepherot Hod
(Hebrew הוד, còn có nghĩa là "uy quyền, huy hoàng, vinh quang" [1])
là sephira thứ tám của Cây Sự Sống. Hod nằm dưới Gevurah và trên Netzach; Yesod
nằm ở phía đông nam của Hod. Nó có bốn đường dẫn, dẫn đến Gevurah, Tiphereth,
Netzach, và Yesod. Tất cả các sephirot được ví như các bộ phận khác nhau của cơ
thể, và Netzach và Hod giống như hai chân của một người, tức là chân phải và
trái. Bàn chân thường chỉ là phương tiện cho hoạt động của một người. Trong khi
bàn tay là công cụ chính của hành động, bàn chân giúp mang con người đến nơi mà
họ muốn thực hiện hành động nào đó. Hod là nơi mà hình thức được đưa ra bởi
ngôn ngữ theo nghĩa rộng nhất của nó, là chìa khóa cho "phép nhiệm màu của
hình dáng" (điều này có thể là sự chấp nhận quan điểm của Jacques Lacan).
Những mong muốn vô thức của chúng ta đến từ Netzach, và được đưa ra dưới hình thức
biểu tượng của Hod, biểu hiện vô thức qua Yesod tới Malkuth. Hod được mô tả là
một nguồn lực được phân chia năng lượng thành các dạng khác nhau, có khả năng
phân biệt, và nó liên quan đến trí tuệ, học tập và nghi lễ, trái với Netzach,
Chiến Thắng, đó là sức mạnh của năng lực để vượt qua mọi rào cản và hạn chế, và
gắn liền với cảm xúc và niềm đam mê, âm nhạc và khiêu vũ. So với các hệ thống
phương Đông, cả Hod và Netzach đôi khi đều kết hợp với chakra Manipura, nó liên
quan đến việc phá vỡ và giải phóng năng lượng.Trong 777, Aleister Crowley kết
hợp Hod với Four Eights của Tarot huyền bí, Anubis, Thoth, Hanuman, Loki,
Hermes, Mercury, Jackal. Triệu chứng, Opal, Storax, và Quicksilver. Thuyết
Chakra cho rằng loại đá này thuộc Chakra Svadhishthana (tiếng Phạn: स्वाधिष्ठान, IAST:
Svādhiṣṭhāna, tiếng Anh: "one’s own base"), hoặc \ chakra, là chakra
chính thứ hai theo Hindu Tantrism (hệ thống). Vị chúa của chakra swadhisthana
là Thần Bhoramdev Saraswati. Svadhishthana được minh họa như một hoa sen trắng
(Nelumbo nucifera). Nó có sáu cánh hoa màu đỏ tươi có ghi các âm tiết: बं ban, भं bhaṃ, मं maṃ, यं yaṃ, रं raṃ and लं laṃ.
Bên trong hoa sen này là một trăng lưỡi liềm trắng đại diện cho vùng nước do vị
thần Varuna chủ tọa.Nguồn gốc thần chú, nằm trong vùng sâu nhất trong vòng
tròn, là một mặt trăng màu trắng वं vaṃ. Câu thần chú nằm phía trên ở trong vòng ràng buộc, hay
dấu chấm, là vị thần Vishnu. Ông có màu xanh đậm và mặc một dhoti hay trang phục
truyền thống ấn độ màu vàng. Ông ta cầm một tù và, một cái chùy, một cái vòng
và một hoa sen.Ông ta mặc shriwatsa mark , và đá koustabha. Ông ta đang ngồi
trên hoa sen hồng, hoặc trên con chim ưng thần bí Garuda.Sức mạnh của ông là nữ
thần Rakini (hay Chakini). Cô ấy màu đen, mặc áo đỏ hoặc trắng và ngồi trên hoa
sen đỏ. Cô thường được miêu tả bằng một mặt và hai cánh tay, cầm thanh kiếm và
lá chắn, hoặc hai mặt và bốn vũ trang, và giữ một đinh ba, hoa sen, trống và sấm
sét, hoặc mũi tên, đầu lâu, trống và rìu.Sáu cánh tượng trưng cho các phương thức
của ý thức sau đây, còn gọi là vittitti hay ý thức: tình thương, tàn nhẫn,, cảm
giác hủy diệt, ảo tưởng, khinh miệt và nghi ngờ.Cương thừa của Tây Tạng được gọi
là "bí địa" cách bốn ngón tay ngay phía dưới rốn. Nó có màu đỏ, với
32 điểm nan hoa hướng xuống dưới. Thiền định tại các điểm này có thể tạo ra các
phước lành to lớn. Các nhà huyền học phương Tây tạo ra kabbalistic để liên kếtcủa
Svadhishthana qua Sephirah Yesod. Yesod cũng liên quan đến các cơ quan sinh dục.
Chức năng của nó trong cây sự sống là thu thập các nguồn năng lượng khác nhau
đã được tạo ra từ gốc cây dưới thấp và phân phát cho Malkuth, thế giới vật chất,
nơi mà năng lượng có thể tìm thấy biểu hiện của vật chất. Theo cách giải thích
của Sufism, thân thể tâm linh của một con người được miêu tả là một hệ thống
được kết nối (Lataif-e-sitta), trong đó có một trung tâm năng lượng được gọi là
nafs. Theo Lataif-e-sitta, nafs ở ngay phía dưới rốn. Các nafs kết hợp tất cả
các yếu tố tự hạ thấp của con người, thứ
bị thuần hóa để đạt được sự gần gũi với Allah thượng đế. Đá Chondrodite có màu cam, theo thuyết Phật giáo Mật tông
là bổn sắc của A Di Đà Như Lai (Amitabha) . Ngài là sự chuyển hóa của sự hỗn
độn thành sự phân minh. Màu đỏ đại diện cho vô úy tướng ứng với miệng. Đeo Chondrodite sẽ được A Di Đà Như Lai Phật hộ trì,
hỗ trợ về miệng và sự phân minh. Vì đây cũng là màu của cõi atula, đá Chondrodite được coi là bùa hộ về vị dục, giúp thoát
khỏi các nguy hiểm về vị dục thông qua vị phật phân minh. Tử thư nhắc đến màu
đỏ như biểu hiện cho sự phân minh, trí huệ, đồng thời sự tỵ nạnh ganh ghét. Tử
Thư Tây Tạng viết rằng: Vào ngày thứ tư, một ánh sáng đỏ – đó là yếu tố tinh
khiết của lửa, sẽ chiếu sáng và đồng thời đức Phật A Di Đà từ cõi phương Tây
màu đỏ, Cõi Cực Lạc (The Blissful) sẽ xuất hiện trước mặt con. Thân ngài màu
đỏ, ngài cầm hoa sen trong tay, ngài ngự trên ngai con chim công, ngài đang ôm
người phối ngẫu là Phật Mẫu Pandaravasini. Ánh sáng đỏ của tưởng uẩn trong tánh
thanh tịnh căn bản của nó là Diệu Quan Sát Trí (wisdom of discrimination), màu
đỏ rực rỡ, được trang hoàng bởi những dĩa ánh sáng quang minh, rõ rệt, sắc bén,
óng ánh từ tim của đức Phật A Di Đà. Vào ngày thứ tư, có các tia sáng của hỏa
đại màu đỏ xuất phát từ phương tây. Chính giữa luồng ánh sáng đó có đức Phật A
Di Đà, đứng trên tòa sen đang rộng hai tay tiếp dẫn. Luồng ánh sáng này chiếu soi
khắp mười phương thế giới không chỗ nào không soi đến. Gần đó có một lớp ánh
sáng màu nâu đục, tượng trưng cho cảnh giới của ngạ quỷ cũng đồng thời xuất
hiện. Theo
thuyết Reki (Linh Khí) Đá Chondrodite trong hành Hỏa và thuộc vào Kinh Túc Thiếu Âm Tâm, Kinh Thủ Quyết Âm Tâm Bào. Kinh Túc Thiếu Âm Tâm liên quan đến bệnh
vai, mặt trong chi trên đau, gan tay nóng hoặc lạnh, mồm
khô, khát muốn uống nước, đau mắt, đau vùng tim, nấc khan, sườn ngực đau tức,
chứng thực thì phát cuồng, chứng hư thì bi ai, khiếp sợ, ở tim, ngực, tâm thần. Ví dụ như
huyệt Thông Lý (Huyệt Lạc với kinh Tiểu trường) có tác dụng liên quan
đến đau cổ tay, đau cẳng tay, đau khuỷu tay, tim đập mạnh, hồi hộp, sốt, trong
ngực bồn chồn, sốt không có mồ hôi, đau đầu, hoa mắt, cứng lưỡi, không nói được;
huyệt Âm Khích (Huyệt Khích) có tác dụng liên quan đến ngực đầy
tức, đau vùng tim, tim đập mạnh, hồi hộp, ra mồ hôi trộm, chảy máu mũi, nôn ra
máu; huyệt Thần Môn (Huyệt Du thuộc Thổ, huyệt Nguyên) có tác
dụng liên quan đến lòng bàn tay nóng, đau vùng tim, tim đập mạnh, hồi hộp, mất
ngủ, hay quên, ngớ ngẩn, động kinh; huyệt Thiếu Phủ (Huyệt Huỳnh
thuộc Hỏa) có tác dụng liên quan đến ngón tay út co quắp, lòng bàn tay nóng,
đau khó chịu trong ngực, tim đập hồi hộp, sốt rét lâu ngày, tiểu dầm; huyệt
Thiếu Xung (Huyệt Tỉnh thuộc Mộc) có tác dụng liên quan đến đau vùng
tim, đau cạnh sườn, tim đập mạnh, hồi hộp, cấp cứu trúng phong, sốt cao, vui giận
thất thường. Kinh Thủ
Quyết Âm Tâm Bào liên quan đến các chứng mặt đỏ, nách sưng, cánh tay,
khuỷu tay co quắp, gan tay nóng, đau vùng tim, bồn chồn, tức ngực sườn, tim đập
thình thịch, cuồng, nói lảm nhảm, hôn mê, ở ngực, tim, dạ dày, bệnh tâm thần, sốt. Ví dụ như
huyệt Giản Sử (Huyệt Kinh thuộc Kim) có tác dụng liên quan đến Đau
cánh tay, nóng gan bàn tay, bệnh nhiệt có tâm phiền, tim đập hồi hộp, đau vùng
tim, Trúng phong đờm rãi nhiều, nôn, khan tiếng, điên cuồng, sốt rét; huyệt Nội Quan có tác dụng liên quan đến
đau cẳng tay, đau vùng tim, đau sườn ngực, tâm phiền, hồi hộp, nôn, đầy chướng
bụng, tiêu hóa kém, điên cuồng; huyệt Đại Lăng (Huyệt Nguyên,
huyệt Du thuộc Thổ) có tác dụng liên quan đến đau cổ tay, lòng bàn tay nóng,
khuỷu tay co, đau vùng tim, đau sườn ngực, tâm phiền, nôn, đầy chướng bụng,
tiêu hóa kém, điên cuồng, cười mãi không hết, dễ sợ hãi, bệnh nhiệt; huyệt
Lao Cung (Huyệt Huỳnh thuộc Hỏa) có tác dụng liên quan đến run bàn
tay, ra mồ hôi lòng bàn tay, đau vùng tim, tâm phiền, khát, tim đập hồi hộp, cười
mãi không thôi, lóet miệng, nôn, sốt về đêm; huyệt Trung Xung
(Huyệt Tỉnh thuộc Mộc) có tác dụng liên quan đến lòng bàn tay nóng, cứng lưỡi,
đau vùng tim, tâm phiền, trúng phong bất tỉnh,hôn mê, sốt không ra mồ hôi. Theo thuyết Tứ Trụ, đá Chondrodite thuộc mệnh Hỏa rất
hạp với mệnh Mộc sinh vào ngày xuân,được nguyệt lệnh mà phần lớn là thân
mạnh,vì vừa qua mùa đông lạnh,có chút lạnh lẽo,mượn Hỏa sưởi ấm cơ thể tự do
phát triển vươn xa,có Thủy nuôi dưỡng sẽ sinh trưởng nhanh.Tóm lại,Mộc mùa xuân
tốt nhất nên có Thủy,Hỏa đến điều hòa mới phát triển tốt. Đá ngọc thuộc
mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Mộc sinh mùa thu,thông thường không được sự trợ
giúp của nguyệt lệnh,Kim nặng quay quanh,phần lớn thuộc thân yếu. Nếu là Mộc
mùa suy yếu,ưa được Hỏa tiết,Thổ dưỡng,Kim khắc không ưa Thủy đến tương trợ. Đá
ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Hỏa sinh mùa thu. Hỏa mùa thu phần
lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh mới có thể thịnh vượng, chuyển nguy thành yên
bình đồng thời đạt được tài lợi, sẽ không bị khốn đốn. Nếu gặp Hỏa đến phù trì,
có thể phát huy tài cáng, dựa vào nổ lực của bản thân có thể được thù lao xứng
đáng. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Hỏa sinh mùa đông. Hỏa mùa
đông phần lớn là thân yếu, cần có Mộc sinh, nếu không Thủy vượng sẽ tiêu diệt
Hỏa, mãi mãi khó có thể đứng dậy. Hỏa mùa đông thân yếu có Hỏa đến giúp thì Tỷ
Kiếp khác Tài tinh, có thể nhìn thấy tiền tài phát triển thịnh vượng, nhưng
duyên với vợ bạc, quan hệ không thân mật, hoặc vợ có tình trạng sức khỏe không
tốt. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Thổ sinh mùa xuân. Mùa
xuân thì Mộc tư lệnh đương quyền, Thổ ở chỗ tử tuyệt, hư phù không có lực, ưa
Hỏa đến sinh trợ, kỵ Mộc đến khắc. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh
Thổ sinh mùa đông. Mùa đông, bên ngoài lạnh, bên trong ấm. Hỏa nhiều mà thịnh
vượng thì quý khí hiển vinh. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất hạp với mệnh Kim
sinh mùa xuân. Mùa xuân, do vừa qua mùa đông vẫn còn chút khí lạnh, do đó Kim
cần Hỏa sưởi ấm mới có thể loại bỏ khí lạnh mà được phú quý. Nếu Mộc thịnh
vượng, Kim sẽ chịu tổn thương. Lúc này cần Kim đến phù trì. Nếu là thiếu Hỏa
sưởi ấm thì Kim không thể phát huy tác dụng. Đá ngọc thuộc mệnh Hỏa cũng rất
hạp với mệnh Kim sinh mùa thu. Mùa thu vừa đúng là Kim tư lệnh đương quyền, do
đó Kim lúc này tốt nhất có Hỏa luyện chế mới có thể làm thành vật quý. Thuyết
Ngũ Hành Can Chi cho rằng Chondrodite thuộc về Hỏa (Đỏ và
Cam) phối Thủy (Uốn và Lượn), tức Hỏa Cục. Do đó, Chondrodite giúp khắc chế các
bản mệnh Mộc-Thổ như Giáp Thìn, Giáp Tuất, Ất Mùi, Ất Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, vì
vậy, những bản mệnh trên có lợi khi đeo loại ngọc này. Chondrodite cũng phù trợ cho các
bản mệnh thuộc Thổ (Hỏa sinh Thổ), gồm có mệnh thuộc Hỏa-Thổ và thuần Thổ: Mậu
Ngọ, Kỷ Tỵ, Bính Thìn, Bính Tuất, Đinh Mùi, Đinh Sửu, Mậu Thìn, Mậu Tuất, Kỷ
Mùi, Kỷ Sửu, các bản mệnh này có lợi khi tiếp xúc với loại ngọc này. Thuyết Ngũ Hành Khí Tiết nói, người có mệnh cục Thổ
(sinh vào ngày Mậu-Kỷ, Thìn-Mùi-Tuất-Sửu) gặp vào những ngày thuộc hành Mộc
(như ngày Giáp-Ất, Dần-Mão) thì , bởi Thổ khắc Mộc, mật và dạ dày dễ tổn
thương, biểu hiện lên cơ thể là bị nấc cục, đau dạ dày, tiêu chảy, hoàng thũng,
khó nuốt, chán ăn, buồn nôn. Bên ngoài sẽ biểu hiện ra da khô, tay phải mỏi. Trẻ
nhỏ bị suy dinh dưỡng, vàng lá lách. Đặc tính của Thổ là ẩm ướt, dễ bị chìm, sắc
mặt vàng vọt. Sách mệnh lý nói: Thổ tại Mộc vượng, lá lách tổn thương. Muốn khắc
chế, phải lấy Hỏa giải độc, Chondrodite thuộc Hỏa, có tác dụng tốt với thể trạng người Thổ cục
(Hỏa sinh Thổ), đề phòng cho những ngày Mộc thịnh (Giáp-Ất, Dần-Mão) hay tháng
hành Mộc như tháng giêng và tháng hai. Người đeo đá Chondrodite, có thể dùng Hỏa khắc chế được Mộc hại. Dựa
trên thuyết Orthotherabi và công thức cấu tạo của đá Chondrodite ((Mg,Fe2+)5(SiO4)2(F,OH)2) gồm: Nguyên tố Iron
(Fe) chỉ số nguyên tử là 26, trong cơ thể người đạt tỉ trọng là 60*10-4,
khối lượng trung bình 0.0042kg chiếm tỷ lệ 0.00067%. Tác động vừa tích cực cho
sức khỏe do sắt là nguyên tố chủ đạo trong máu (Hemoglobin, Cytochromes) và vài
loại hóc-môn trong cơ thể. Tác dụng lên hệ tuần hoàn, máu huyết. Được coi là có
tác dụng tốt trong việc cầm máu, chữa các chứng xuất huyết, và các chứng liên
quan đến máu. Nguyên tố Magnesium (Mg) có số hiệu nguyên tử là 12, chiếm tỉ trọng
cơ thể là 500x10-4 và khối lượng trung bình 0.019kg đạt tỷ lệ nguyên
tố là 0.007% trong cơ thể người. Tác động vừa tích cực cho sức khỏe do
Magnesium là nguyên tố chủ đạo của xương và phần cứng trong cơ thể. Tác dụng
lên hệ xương, chiều cao, sự vận động và phục hồi xương. Được coi là có tác dụng
tốt cho chứng gãy xương, hay tăng chiều cao ở trẻ em. Được sử dụng nhiều cho
các vận động viên, hoặc các ngành nghề cơ bắp. Nguyên tố Oxygen (O) có số
nguyên tử là 8, chiếm tỉ trọng trong cơ thể người là 0.65. Thành phần của
nguyên tố này trong cơ thể trung bình là 43kg chiếm tỷ lệ là 24%. Tác động đến
sức khỏe và sự sống của hầu hết các loài động thực vật trên thế giới. Dựa
trên công thức hóa học của đá Chondrodite, theo thuyết Hài Hòa Bộ Tám loại
đá này mang yếu tố Primius với nguyên tố chủ đạo là nguyên tố Đất, vì vậy tác động
lên hệ cơ bắp, búi cơ tay chân, cơ hoành, da răng và các lông tóc bên ngoài. Có
tác dụng hỗ trợ trị liệu cho các bệnh liên quan đến các yếu tố tóc, lông và cơ
như chứng rụng tóc, đau răng, bị da liễu, hoặc các chứng liên quan đến cơ như
chuột rút, teo cơ, phù thủng... Ngoài ra còn tăng cường vật chất và sở hữu, đặc
biệt là sự đột phá, cấp tiến, cách mạng, cải biên xã hội, đẩy mạnh tự do, bất cần,
vô chính phủ... nhấn mạnh đến yếu tố sở hữu. Về mặt tinh thần, loại đá này được
cho là không trấn giữ cung nào theo Chiêm Tinh Cổ, nhưng trấn giữ vị trí con rồng
(Dragons), ở hai vị trí đầu rồng và đuôi rồng, Chiêm tinh gọi là Caput Draconis
và Cauda Draconis, tiếng Việt hay dịch là La Hầu và Kế Đô. Không có quan niệm
chính thức cho hai vị trí này. Thông thường, người ta coi nó là đại diện cho
tính tốt và xấu trong mỗi con người. Vì vậy, nó thúc đẩy các mối quan hệ về con
người và bản chất con người. Thuyết của Dante Alighieri, cho rằng yếu tố này bảo
trợ về không gian và thời gian nói chung. Dành cho những người làm trong lĩnh vực
liên quan đến các không gian và thời gian như người làm đồng hồ, những người
rung chuông, gác cổng, những người canh giờ tàu hỏa,... hoặc những người cảnh
báo tư tưởng (gọi là những người tiền vệ - avantgarde). Thuyết Bát Quái Kinh Dịch dựa vào hình thái tinh hệ của
tinh thể gồm tám loại, được phân định thành tám quái thuộc nội quái trong kinh
dịch. Cụ thể theo Thông Thiên Học: Lập Phương (cubic - isometric) ứng Càn , Tứ
Phương (tetragonal) ứng Chấn, Tam Phương (rhombohedral) ứng Ly, Lục
Phương (hexagonal - trigonal) ứng Đoài, Tam Tà (triclinic) ứng Cấn, Đơn Tà (monoclinic)
ứng Khảm, Chánh Giao (orthorhombic) ứng Tốn, Phi Tinh (noncrystallinic) ứng Khôn.
Ts Hoàng Thế Ngữ (sách đã dẫn) tương ứng khác: Lập Phương ứng Càn, Tam Tà ứng
Đoài, Chánh Giao ứng Chấn, Đơn Tà ứng Cấn, Tam Phương-Tứ Phương-Lục Phương ứng
Khôn, Phi Tinh-Ẩn Tinh ứng Ly Tốn Khảm. Ở đây chỉ trình bày thuyết của Thông
Thiên Học. Dựa vào màu sắc của tinh thể gồm tám màu, ứng với tám quái thuộc ngoại
quái trong kinh dịch. Có ba thuyết chính, đều nêu ra ở đây. Cụ thể thuyết thứ
nhất được trình bày trong I-ching: Binary Numbers, Astrology, And Chakras, dựa
trên thứ tự sinh khởi bát quái: Càn ứng trắng, Đoài ứng tím, Ly ứng lam, Chấn ứng
lục, Tốn ứng vàng, Khảm ứng cam, Cấn ứng đỏ, Khôn ứng đen. Thuyết thứ hai do
D.H. Van den Berghe đề xuất dựa trên ngũ hành ứng bát quái cho rằng: Càn ứng dương,
Khảm ứng đen, Cấn ứng tím, Chấn ứng lục, Tốn ứng cam, Ly ứng đỏ, Đoài ứng lam, Khôn
ứng vàng. Thuyết thứ ba do Adam Apolo đề xuất dựa trên nghĩa của quái: Càn ứng trắng,
Khôn ứng đen, Ly ứng đỏ, Khảm ứng lam, Cấn ứng lục, Đoài ứng cam, Tốn ứng vàng,
Chấn ứng tím. Ở đây chỉ trình bày dựa trên thuyết thứ nhất. Từ nội quái và ngoại
quái tương ứng với hình dạng và màu sắc của tinh thể, từ đó tính ra được quái
trong 64 quái kinh dịch. Mỗi quái kinh dịch lại ứng một bộ phận cơ thể theo y
lý trong kinh dịch, phân thành 64 phần cơ thể. Đá Chondrodite có màu cam tương ứng quẻ ngoại quái Khảm, có tinh hệ Đơn
tà tương ứng quẻ nội quái Khảm, ghép lại chính là quẻ quái số 29: quẻ Thuần Khảm. Quái sồ 29 ứng với vị trí con ngươi trên cơ thể. Vì
vậy, loại đá này được cho là có lợi cho các bệnh liên quan đến mắt như dị
ứng mắt, tật khúc xạ (cận thị, viễn thị, loạn thị,…), thoái hóa điểm vàng, đau
mắt đỏ, tăng nhãn áp, viêm màng bồ đào, giác mạc hình nón,…. Quẻ Thuần Khảm có nghĩa là Khảm là hiểm hãm, tượng nó là nước. Dương hãm
trong Âm, ngoài hư mà trong thực vậy. Quẻ này trên dưới là thể Khảm, đó là hai
lần hiểm; Dương đặc ỗ giữa, là trong có sự phu tín. Bui lòng hanh, nghĩa là chỉ
vì trong lòng thành thực chuyên nhất, cho nên có thể hanh thông. Lòng chí thành
có thể suốt được vàng đá, nhảy vào nước lửa còn sự hiểm nạn nào mà không thể
hanh? Đi có chuộng ý nói lấy sự thành thật chuyên nhất mà đi, thì có thể ra khỏi
chỗ hiểm đáng được khen chuộng, tức là có công vậy, người đeo đá này sẽ được các lợi ích như vậy. Nơi tìm thấy đá: Chondrodite có thể được tìm thấy ở Alaska (USA), Yukon (Canada),
Ontario (Canada),...
Lời cảm ơn:
bài viết có sự đóng góp tài liệu và công sức của nhiều đồng nghiệp: tiến sĩ
Jean-Jacques Rousselle (Pháp), nhà sưu tập Nguyễn Trọng Cơ (tp.HCM), nhà sưu tập
Trương Quốc Tùng (Hà Nội), nhà sưu tập Phan Tuấn (Biên Hòa), dược sĩ Phạm Hoàng
Giang (Cần Thơ), nhà sưu tập Lạc Quân Hy (Cần Thơ).
0 Comments